Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 94 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế cho thấy sự ổn định của tiền tệ, ổn định của hệ thống tài chính là
điều kiện hàng đầu cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Để phù hợp
với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc xây
dựng chính sách tiền tệ. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng
Nhà nước là quản lý và điều hành khối lượng tiền cung ứng. Trong giai đoạn
hiện nay, các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ bao gồm dự
trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở ngày
càng chiếm ưu thế. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở
đã cho thấy là công cụ có tính linh hoạt và hiệu quả nhất, góp phần quan trọng
vào việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, thời gian qua nghiệp vụ thị trường mở cũng đã bộc lộ nhiều hạn
chế như: lãi suất chưa mang tính thị trường, chủng loại giấy tờ có gia tham gia
chưa nhiều và chưa đa dạng, các tổ chức tín dụng chưa có nhận thức đầy đủ
về nghiệp vụ thị trường mở, … điều này làm giảm tác động của công cụ
nghiệp vụ thị trường mở đến khả năng điều tiết nhu cầu vốn khả dụng của
Ngân hàng Nhà nước thông qua Chính sách tiền tệ. Vì vậy, đề tài: “Hoàn
thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” được
chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Hệ thống các vấn đề lý luận về nghiệp vụ thị trường mở
Nghiên cứu thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước trong thời gian qua
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ thị
trường mở tại Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới


2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở tại Ngan hàng
Nhà nước Việt Nam từ 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu sử dụng: duy vật biện chứng kết hợp với
phương pháp phân tích tổng hợp, tư duy logích.
5. Kết cấu luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần.
Chương I: Một số vấn đề lý luận về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
của Ngân hàng Trung ương
Chương II: Thực trạng nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam


3

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ
THỊ TRƯỞNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1.1 Khái quát về Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
1.1.1 Khái niệm Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối
lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả nhất các
nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế,
trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.

Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là là chính sách đảm bảo sao cho khối
lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng
kinh tế và chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp
phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng thể tất cả các biện
pháp, công cụ mà NHTW sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng,
ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của các chính sách kinh tế.
1.1.2 Mục tiêu của Chính sách tiền tệ
Nội dung của CSTT thể hiện thông qua việc thiết kế hệ thống mục tiêu của
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ bao gồm các mục tiêu tổng quát và hệ
thống mục tiêu điều hành
1.1.2.1. Mục tiêu tổng quát (mục tiêu cuối cùng)
Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền
cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp
phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô
trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc
điểm mục tiêu nên NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong
một khoảng thời gian nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn và


4

ưu tiên cho những mục tiêu quan trọng tông từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn
định giá cả luôn là mục tiêu dài hạn của NHTW.
1.1.2.2. Mục tiêu điều hành.
Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các CSTT nhắm
tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục tiêu
điều hành mang tính định lượng cụ thể hơn.
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều

nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. Căn cứ
vào sự phát triển và diễn biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa
chọn các mục tiêu điều hành của CSTT. Mục tiêu điều hành của CSTT bao
gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
- Mục tiêu trung gian:
Bằng việc sử dụng các công cụ của CSTT, NHTW không thể tác động trực
tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng là giá cả, sản lượng và công
ăn việc làm. Ảnh hưởng của CSTT chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian
nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước thường xác
định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các chỉ
tiêu này trở thành mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động
Tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một
cách chính xác và nhanh chóng; (2) Có thể kiểm soát được để có thể điều
chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT; (3) Có mối liên hệ
chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng.
Tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên, tuy
nhiên NHTW chỉ có thể lựa chọn một trong hai chỉ tiêu vì lý do, nếu đạt được
mục tiêu về tổng khối lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động
của lãi suất và ngược lại.


5

- Mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh
của công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung
gian, được xác định trên cơ sở các tiêu chí: (1) phải đo lường được nhằm
tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của CSTT; (2)
phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với công cụ của CSTT; (3) phải có
mối quan hệ và chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được lựa chọn

Trên cơ sở các tiêu chí trên, các chỉ tiêu thường lựa chọn làm mục tiêu hoạt
động của NHTW gồm: lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay.
1.1.3

Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ

Để thực hiện CSTT theo các mục tiêu đã định trong từng thời kỳ, NHTW
phải dựa vào một hệ thống công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi
suất vay vốn. Để thực hiện điều đó chính sách tiền tệ phải thông qua các công
cụ chủ yếu sau như: Lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở, hạn mức tín dụng và tỷ giá hối đoái.
1.1.3.1

Lãi suất

Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều
khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể
kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là công cụ quan trọng được
NHTW sử dụng trong điều hành CSTT. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là
tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm
kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời
kỳ nhất định.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện
quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi
muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất


6


của mình, từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng, cuối cùng sẽ
tác động đến lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định
các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý
trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ
chưa phát triển và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
1.1.3.2

Hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó
khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Cơ chế tác động của nó
mang tính chất áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng. Hạn mức tín
dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp
tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào
đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong
giới hạn tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một thời
gian xác định.
Hạn mức tín dụng được NHTW sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín
dụng, nhằm tránh tăng tổng khối lượng tiền quá mức cho nền kinh tế. Bằng
việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát tổng lượng tiền
cung ứng.
1.1.3.3

Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, hay
nói cách khác là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ giá
vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại
tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu
ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, có

tác động mạnh mẽ đến nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nước. Chính sách tỷ giá tác động nhanh chóng và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất


7

nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ , cán cân thanh toán quốc tế,
vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia.
Bản chất tỷ giá không phải là công cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm tăng
giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ cấu khối
lượng tiền. Tại nhiều quốc gia, có nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển
đổi mô hình thì tỷ giá được xem là một công cụ bổ trợ quan trọng cho điều
hành CSTT quốc gia.
1.1.3.4

Dự trữ bắt buộc (DTBB).

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải đưa vào dự trữ theo
luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản ở NHTW và để lại quỹ của
ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, góp phần bảo đảm khả năng thanh
toán của hệ thống. DTBB được tính trên cơ sở tỷ lệ DTBB do NHTW quy
định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên nguồn vốn hoạt động của một
ngân hàng.
Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định và được xác định bằng một tỷ lệ phần
trăm % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách tại NHTM. Tỷ lệ DTBB
được áp dụng có phân biệt đối với các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau, quy
mô và tính chất hoạt động NHTM.
DTBB tác động đến cung cứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân
tiền tệ. Khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nghĩa là giảm khả năng cung tín
dụng của các NHTM từ đó làm giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Khi

giảm tỷ lệ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ tăng lên dẫn đến
một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm tiền gửi được lặp lại
nhiều lần.
1.1.3.5

Chính sách chiết khấu

Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các
NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm


8

tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng
như khai thông được năng lực thanh toán.
Tuỳ thuộc vào CSTT thắt chặt hay nới lỏng mà NHTW sẽ điều chỉnh tăng
hoặc giảm lãi suất chiết khấu, từ đó tác động tới lượng tiền cung ứng.
Chính sách chiết kháu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi suất
chiết khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các NHTM. NHTW cho
vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân hàng.
NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả của các
khoản vay thông qua lãi suất chiết khấu. Tuỳ thuộc vào CSTT thắt chặt hay
nới lỏng mà NHTW sẽ điều chỉnh tăng hoặc giảm lãi suất chiết khấu, từ đó
tác động tới lượng tiền cung ứng.
Khi thực hiện CSTT nới lỏng, NHTW cần tăng lượng tiền cho lưu thông,
NHTW có thể hạ thấp lãi suất chiết khấu, do đó khuyến khích các NHTM đến
vay vì giá cả tín dụng giảm, dẫn đến tiền dự trữ tăng lên làm tăng cơ số tiền tệ.
Khi thực hiện CSTT thắt chặt, NHTW có thể tăng lãi suất chiếu khấu và khi
đó cơ chế tác động sẽ theo hướng ngược lại và làm giảm số tiền dự trữ giảm
cơ số tiền tệ.

1.1.3.6

Nghiệp vụ thị trường mở.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các giấy tờ có giá như tín
phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi ….
trên thị trường mở của NHTW nhằm thay đổi cơ số tiền tệ, dự trữ trong hệ
thống ngân hàng qua đó thực hiện chính CSTT quốc gia. Các đối tác giao
dịch mua bán với NHTW trên thị trường mở có thể là các ngân hàng, các
doanh nghiệp hay các tổ chức phi tài chính khác. NHTW khi mua giấy tờ có
giá (GTCG) trên thị trường mở, số tiền NHTW trả làm tăng cơ số tiền tệ, qua
đó làm tăng cung ứng tiền tệ. Mặc khác, khi NHTW bán GTCG trên thị
trường mở làm giảm cơ số tiền tệ, qua đó giảm cung ứng tiền tệ


9

1.2

Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở

1.1 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là nghiệp vụ NHTW thực hiện việc
mua vào hay bán ra các giấy tờ ngắn hạn có giá chủ yếu là ngắn hạn nhằm
thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi
suất ngắn hạn. Các đối tác trong giao dịch NVTTM có thể là các NHTM, các
doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác.
Thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và
thời hạn của các công cụ được giao dịch trên thị trường. Đối với một số nước,
hàng hoá trên thị trường mở chỉ bao gồm các giấy tờ có giá ngắn hạn và

những người tham gia chỉ bao gồm các tổ chức tín dụng. Do vậy, các quy định
về hàng hoá và người tham gia giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ
quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số



tiền tệ
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại những chuyển động của



các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ
2.1.2

Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở

1.2.2.1

Tác động đến cơ số tiền tệ

Hành vi mua, bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng
ảnh hưởng ngay lập tức đến cơ số tiền tệ do thay đổi tổng tiền mặt và dự trữ
của hệ thống các NHTM thông qua tiền gửi của các NHTM tại NHTW và tiền
gửi của khách tại NHTM. (các NHTM là đối tác của NVTTM).
Khi bán GTCG cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối
lượng dự trữ tương ứng của NHTM (trong điều kiện bình thường), dù người
mua là NHTM hay khách hàng của nó, khi tiền thanh toán cho lượng GTCG



10

này được ghi nợ vào tài khoản của NHTM tại NHTW. Trường hợp người mua
là khách hàng của NHTM thì số tiền mua GTCG của NHTW sẽ làm giảm số
dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Thông quá đó làm giảm dự trữ sẽ
dẫn đến khả năng giảm cho vay của hệ thống ngân hàng và vì thế mà giảm
khối lượng tiền cung ứng theo bội số được đo bằng số nhân tiền tệ.
Trong trường hợp NHTW mua các GTCG trên NVTTM từ công chúng
(không phải từ TCTD), bình thường người bán gửi số tiền này vào hệ thống
ngân hàng thì sẽ làm tăng số dư tiền gửi khách hàng đó tại NHTM dẫn tới tiền
dự trữ Ngân hàng tăng với số lượng tương ứng. Nếu người bán giữ dưới dạng
tiền mặt sẽ làm tăng tiền mặt một số lượng đúng như thế, thì cơ số tiền tệ tăng
lên một bằng với lượng tiền bán giấy tờ có giá trên thị trường mở. Việc mua
GTCG trong trường hợp nào đều làm tăng cơ số tiền tệ dẫn tới việc tăng cung
ứng tiền tệ (MS) theo bội số thông qua số nhân tiền tệ.
1.2.2.2

Tác động qua lãi suất.

Hoạt đông mua bán GTCG trên NVTTM của NHTW có ảnh hưởng gián
tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường:
Thứ nhất: Dự trữ của hệ thống các NHTM sẽ thay đổi khi NHTW mua bán
GTCG trên NVTTM, dẫn tới tác động đến cung cầu vốn của NHTW trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Khi cung, cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn
tới lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông
qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ truyền tác
động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Nếu loại
GTCG chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động
trở lại lãi suất thị trường làm thay đổi thói quen tiêu dùng và dòng vốn đầu tư

khi đó có thể thay đổi tổng cầu AD.
Thứ hai: Việc mua bán GTCG của NHTW sẽ tác động ngay đến quan hệ
cung cầu của GTCG trên NVTTM, làm thay đổi giá cả của nó. Khi giá của


11

GTCG thay đổi làm thay đổi tỷ lệ sinh lời của loại GTCG này thay đổi. Nếu
đó là loại GTCG chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì tỷ lệ sinh lời của nó sẽ
tác động trở lại lãi suất thị trường và có tác động tới tổng cầu.
2.1.3 Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Dựa trên mục đích giao dịch, có thể phân các tác nhân trên thị trường mở
thành hai nhóm: NHTW, các TCTD, định chế tài chính, quĩ đầu tư, công ty và
doanh nghiệp lớn…
Tuy nhiên, theo nguyên tắc NVTTM là thị trường không giới hạn người tham
gia, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao dịch với NHTW nếu thoả mãn
những tiêu chuẩn cụ thể của NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn được đặt ra
nhằm vào đáp ứng hai mục đích
-

Các đối tác phải đảm bảo được độ tin cậy nhất định.

- Việc giao dịch với các đối tác đó có hiệu quả xét ở khía cạnh can thiệp
vào thị trường tiền tệ của NHTW.
3.1.3.1

Ngân hàng Trung ương.

NHTW với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động
NVTTM. NHTW nghiên cứu và điều kiện cần thiết cho sự ra đời, hoạt động

của thị trường cũng như thực hiện các biện pháp hỗ trợ sự phát triển của thị
trường, tạo điều kiện cho sự mở rộng các công cụ cho thị trường, hoàn thiện
cơ sở vật chất, xây dựng các quy định và tiêu chí thực hiện giao dịch, giám sát
hoạt động của thị trường. NHTW cũng thu thập, công bố và phổ biến các
thông tin về thị trường; đảm bảo hệ thống thanh toán an toàn và trôi chảy.
Trên cơ sở dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của các
TCTD. NHTW quyết định thời điểm mua hoặc bán, khối lượng, phương thức
thực hiện, thời hạn mua bán và chủng loại giấy tờ có giá….
NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện
chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ


12

phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền
kinh tế.
Thông qua hoạt động của NVTTM, NHTW tham gia NVTTM không phải
là mục tiêu kinh doanh mà ngoài việc điều tiết vốn khả dụng của hệ thống
NHTM , gián tiếp tác động đến lãi suất thị trường làm cho mục tiêu CSTT đi
theo định hướng đã định
1.1.3.2

Các Ngân hàng Thương mại

Các NHTM là thành viên then chốt, chủ yếu tham gia NVTTM của NHTW và
là đối tác quan trọng của NHTW xét trên hai phương diện: độ tin cậy và tính
hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng, bảo đảm
khả năng thanh toán, phân tán rủi ro. Giúp NHTM tìm kiếm cơ hội về nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi hoặc NHTM thực hiện việc mua bán chứng khoán.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch NVTTM có ý nghĩa

quan trọng ở hai yếu tố là độ tin cậy và tính hiệu quả. NHTM là trung
gian tài chính lớn nhất, nắm giữ một khối lượng lớn, đa dạng và phong
phú về chủng loại chứng khoán, có mạng lưới hoạt động rộng và gắn kết
thành hệ thống qua trung tâm thanh toán. NHTM đóng vai trò quan trọng
cung ứng vốn cho nền kinh tế, vừa là người cho vay và đi vay trên thị
trường tiền tệ. Mặt khác, các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà
mức dự trữ ngân quỹ để đảm bảo khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn
dư thừa để hưởng lãi.
1.2.3.3

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng

Các tổ chức này bao gồm: các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu
tư, hội tiết kiệm …. Các tổ chức này thường sở hữu khối lượng các giấy tờ có
giá lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo
mức sinh lợi cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất cho vốn đầu tư.


13

1..31.4

Các nhà giao dịch sơ cấp

Các giao dịch NVTTM tại các nước phần lớn thực hiện thông qua vai trò
của các nhà giao dịch sơ cấp. Các nhà giao dịch sơ cấp này tham gia NVTTM
với tư cách là người trung gian và hưởng lợi do chênh lệch giá mua bán. Để
thực hiện được điều này các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh
đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò
người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.



Các nhà giao dịch chuyên nghiệp (Tổ chức môi giới – nhà môi giới).
Các nhà giao dịch chuyên nghiệp với chức năng môi giới tiền tệ là người

trung gian nối liền người vay, bán các công cụ tài chính với người cho vay,
mua các công cụ tài chính để thu hoa hồng môi giới. Họ không kinh doanh
cho trạng thái (hoặc tình hình) vốn của mình. Ngoài ra, họ cũng có thể thực
hiện vai trò trung gian trong giao dịch trên thị trường cho các đối tượng kinh
doanh về lĩnh vực này. Họ thường hoạt động dưới tư cách công ty
Để giảm thiểu rủi ro tín dụng, thanh toán và giao nhận đối với các giao
nhận đối với các giao dịch, các NHTW thường đưa ra tiêu chí chọn lựa các
đối tác thực hiện nghiệp vụ NHTM dưới sự giám sát chính thức của các đơn
vị giám sát nghiệp vụ hoặc là các nhà môi giới giao dịch có đăng ký với uỷ
ban chứng khoán và hối đoái.
Giao dịch thông qua môi giới sẽ giúp cho cả người mua và người bán tiết
kiệm được chi phí tìm hiểu nhau, tránh tình trạng thông tin không cân xứng,
lựa chọn đối nghịch và các yêu cầu của họ cũng được đáp ứng với mức độ cao
hơn. Với vai trò là người trung gian, thu nhập của các nhà môi giới chính là
phí hoa hồng khi thực hiện giao dịch hộ. Mặt khác, họ phải đáp ứng chuẩn
mực tối thiểu về vốn quy định bởi các tổ chức chủ quản và họ cũng phải có số
vốn tối thiểu nhất định.


14

1.2.3.5 Các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh lớn.
Thành viên này thường có các thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu chính
phủ, họ có nhu cầu bán các giấy tờ có giá ( bán hẳn hoặc tạm thời) để lấy tiền
mặt hoặc kiếm lời trong thời gian ngắn. Các doanh nghiệp lớn khi thừa vốn

tiền tệ, có thể mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn để kiếm lời. Các hoạt động
mua bán qua NVTTM của doanh nghiệp – kinh doanh có thể họ trực tiếp thực
hiện hoặc có thể tiến hành qua những nhà môi giới chuyên nghiệp, qua môi
giới của các NHTM.
1.2.4 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở.
Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở là những loại giấy tờ có giá, có tính
thanh khoản cao được sử dụng trong các giao dịch mua vào hoặc bán ra của
NHTW trên NVTTM. Do có kỳ hạn thanh toán ngắn hoặc dài hạn, những
công cụ vay nợ được mua bán trong thị trường tiền tệ chịu mức dao động giá
tối thiểu nên đó là loại đầu tư ít rủi ro nhất, nhằm đạt mục tiêu điều chỉnh dự
trữ của hệ thống ngân hàng một cách có hiệu quả nhất. Thông thường hàng
hoá chủ yếu được giao dịch qua NVTTM bao gồm:
1.2.4.1 Tín phiếu kho bạc ( Treasury Bills)
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ thường được phát hành
nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính.
Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường là dưới 12 tháng. Tín phiếu kho bạc là
công cụ chủ yếu của NVTTM ở hầu hết NHTW các nước vì lý do:
- Có tính thanh khoản cao
-

Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể đáp ứng nhu

cầu can thiệp của NHTW với mức độ và quy mô khác nhau.
Ngoài ra, việc sử dụng TPKB trong các giao dịch NVTTM có một số ưu điểm
như: NHTW có thể bán TPKB thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để
thực hiện CSTT thắt chặt, khi đó gánh nặng về chi phí để thực hiện CSTT sẽ


15


chuyển sang ngân sách và được biểu hiện trên số liệu ngân sách Nhà nước.
Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư tín phiếu kho bạc lớn thì
việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ giảm rủi ro của việc
phân tách thị trường.
1.2.4.2 Tín phiếu NHTW
Tín phiếu NHTW là loại giấy tờ có giá ngắn hạn do NHTW phát hành để
làm công cụ cho NVTTM. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên
NVTTM có một số ưu, nhược điểm sau:
- Tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT
- Có tác dụng như một công cụ linh hoạt trong việc quản lý vốn khả dụng
- Làm cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên.
-

Có nguy cơ xuất hiện phân khúc thị trường giữa thị trường TPKB và thị

trường tín phiếu NHTW, các đối tác sẽ tập trung mua loại tín phiếu nào có lãi
suất cao hơn. Từ đó có thể tác động tới mục đích phát hành GTCG và giảm
hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
1.2.4.3 Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã gửi vào ngân hàng
trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của
chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (từ 7 ngày trở lên, có trường hợp thời
hạn lên tới 3 – 5 năm ). Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi
cơ bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: chuyển từ quản lý tài sản nợ sang
quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho
ngân hàng thay vì chông chờ vào người gửi tiền. CD được sử dụng khá phổ
biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành
tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.



16

4.4.4.4 Thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện thanh toán một số tiền xác định. Thương
phiếu thường do các công ty, doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn
hạn. Thời hạn của thương phiếu thường là từ 1 đến 270 ngày, nhưng phần lớn
thương phiếu có thời hạn ngắn hơn 30 ngày. Luật và pháp lệnh thương phiếu
tại các nước thường đảm bảo tính chất an toàn cho công cụ này bằng cách quy
định về điều kiện được phát hành thương phiếu. Lãi suất áp dụng đối với
thương phiếu thấp hơn lãi suất vay ngân hàng khiến cho thương phiếu có tính
hấp dẫn nhất định. Việc mua bán thương phiếu của NHTW trên thị trường mở
sẽ tác động mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của khách hàng
tại NHTM.
1.2.4.5 Trái phiếu chính phủ
Là giấy nhận nợ dài hạn do chính phủ phát hành thông thường nhằm
mục đích huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Mặc dù trái phiếu Chính phủ
và là GTCG dài hạn có thời gian lên đến 10 – 30 năm nhưng trái phiếu Chính
phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch NVTTM ở một số nước
bởi tính an toàn, khối lượng phát hành lớn và có khả năng tác động trực tiếp
đến giả cả tín phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
1.2.4.6

Trái phiếu chính quyền địa phương

Là giấy nhận nợ dài hạn do chính quyền địa phương phát hành. Trái phiếu
chính quyền địa phương thường khác với trái phiếu Chính phủ ở điều kiện ưu
đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.và thường được các chính quyền địa phương
lớn phát hành. Loại trái phiếu này thường được các NHTM sử dụng để tái

chiết khấu NHTW. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng một
phần là do sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán lại trái phiếu này cũng
tương tự như tái phiếu chính phủ.


17

2.5.5

Hình thức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở

Có hai phương thức giao dịch chính trên thị trường mở: Mua bán hẳn (mua
bán đứt đoạn) và mua bán có kỳ hạn.
1.2.5.1 Mua bán hẳn (giao dịch không hoàn lại)
Là các giao dịch mua, bán GTCG của NHTW theo phương thức mua đứt,
bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Theo đó, quyền sở hữu các giấy tờ có giá
được chuyển sang cho NHTW hoặc ngược lại cho các đối tác tham gia giao
dịch NVTTM (có thể là các NHTM). Do vậy, tác động của giao dịch này đối
với dự trữ của các ngân hàng thường là dài hạn và có ảnh hưởng đến cơ cấu
tài sản Có của NHTW và các đối tác tham gia thị trường.
Lãi suất tham gia các giao dịch không hoàn lại thường là mức lãi suất thoả
thuận (trong các giao dịch song phương), lãi suất đấu thầu (trong đấu thấu lãi
suất), hoặc lãi suất công bố của NHTW (trong đấu thầu khối lượng). Theo đó,
với mức lãi suất đó, giá mua hoặc bán giấy tờ có giá được tính theo công
thức:
F
P = 1 + i.n
365

P: giá bán hoặc giá mua

i: lãi suất của giao dịch không hoàn lại.
n: thời hạn còn lại của giấy tờ có giá
: giá trị chứng từ có giá khi đến hạn thanh toán
365: số ngày trong một năm.
1.2.5.2 Mua hoặc bán có kỳ hạn
Phương thức giao dịch này thường được sử dụng với mục đích giao dịch
tạm thời thông qua các hợp đồng mua bán lại (Repos) hoặc hợp đồng mua bán
đảo ngược (Reverse Repos). Trong hợp đồng Reverse Repos, NHTW thực


18

hiện bán GTCG với thoả thuận người mua giấy tờ có giá sẽ bán lại vào một
ngày xác định trong tương lai.
Trong hợp đồng Repos, NHTW mua GTCG với thoả thuận là sau một thời
gian ngắn trong tương lai, người bán sẽ mua lại các GTCG đó.
Thông thường, Repos và Reverse Repos được sử dụng trong một khoảng
thời gian ngắn với mục đích điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách
linh hoạt. Giao dịch theo hợp đồng Repos thực chất là một khoản vay của
NHTW có đảm bảo bằng giấy tờ có giá.
Trong hợp đồng Reverse Repos được áp dụng khi NHTW muốn rút bớt dự
trữ từ hệ thống ngân hàng, NHTW thực hiện việc bán GTCG với thoả thuận là
người mua GTCG đó sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai.
Thời hạn giao dịch có kỳ hạn thường là ngắn với mục đích điều tiết vốn khả
dụng của các NHTM một cách linh hoạt. Thời hạn giao dịch thường là qua
đêm với t = 1 ngày. Tuy nhiên, cũng có khi thời hạn của hợp đồng mua lại dài
hơn với t>1 ngày và được coi là hợp đồng mua lại có thời hạn. Với loại hợp
đồng mua lại mở, có thời hạn t không được xác định trước thì hai bên tiến
hành thoả thuận lại vào mỗi ngày.
Lãi của một giao dịch có hoàn lại là số chênh lệch giữa giá P1 là giá mua

hoặc giá bán lần đầu và P2 là giá mua hoặc giá bán lại. P1 và P2 được xác
định như sau:
=

P1

F
i∗n
1+
365

P2 = P1* (1 +

i ∗T
365

)

P1: Giá bán hoặc giá mua lần đầu
i: Lãi suất của giao dịch có hoàn lại. ( bao gồm: Do NHTW công bố trong
đấu thầu khối lượng, trúng thầu trong đấu thầu lãi suất, thoả thuận trong giao
dịch song phương)
n : thời hạn còn lại của giấy tờ


19

F: giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán
T: thời hạn của hợp đồng mua lại
P2: Giá bán hoặc giá mua lại.

Các giao dịch mua bán có kỳ hạn được sử dụng chủ yếu trong NVTTM do:
- Là công cụ có hiệu quả trong việc bù đắp hoặc triệt tiêu những tác động
không dự tính trước đến dự trữ của các Ngân hàng.
- Chi phí giao dịch của hợp đồng Repos thường thấp hơn so với hợp đồng
Reverse Repos
- Thích hợp trong các trường hợp các định hướng của CSTT không hoàn
hảo dẫn đến phải sử dụng các biện pháp khắc phục
- Giảm thiểu thời gian thông báo, giảm phần nào đó biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.
- Tính lỏng của các giấy tờ có giá trong trường hợp mua bán có kỳ hạn rất
cao, thời gian mua bán ngắn hạn nên rủi ro đối với NHTW là thấp.
1.2.6

Phương thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở.

1.2.2.1 Giao dịch song phương.
Giao dịch song phương là giao dịch được thực hiện trực tiếp giữa NHTW
với các đối tác được thực hiện mà không qua thủ tục đấu thầu, được thể hiện:
Giao dịch trực tiếp giữa NHTW và các đối tác, chủ yếu trong giao dịch
song phương trực tiếp là lựa chọn đối tác sao cho hiệu quả nhất.
Giao dịch thực hiện thông qua các Sở giao dịch chứng khoán hoặc các đại
lý giao dịch trên thị trường. Đối với các giao dịch này, các đối tác không bị
giới hạn và thủ tục giao dịch các chứng khoán được điều chỉnh theo tập
quán thị trường.
1.2.6.2

Giao dịch theo phương thức đấu thầu.

- Đấu thầu khối lượng.



20

Tại hình thức giao dịch này, NHTW công bố trước lãi suất và khối lượng,
hình thức can thiệp (mua hay bán), loại GTCG tham gia giao dịch. Tổ chức
tham gia đấu thầu chỉ việc đăng ký số lượng đặt thầu trên cơ sở chấp nhận
mức lãi suất cho trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt
thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành như sau: Toàn bộ số lượng đăng kí dự thầu
được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối
lượng NHTW chào mua/ chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân
bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu các đơn đặt hàng lớn hơn số lượng thì số
lượng trúng thầu được phân phối theo dựa theo tỷ lệ phân phối thầu tính toán
được như sau:
A

Tỷ lệ phân bổ thầu K =

n

∑α
i =1

i

K: Tỷ lệ phân bổ thầu
A: NHTW cần can thiệp
α i : Khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i.

n: Số thành viên tham gia dự thầu.

Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (
Wi ) được xác định như sau:
Wi = k * α i

- Đấu thầu lãi suất
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số
tiền ứng với mỗi mức lãi suất do mình lựa chọn.
Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc
mua bán GTCG, đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân bổ
trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi


21

suất thấp nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối
lượng phân bổ, thì tiến hành phân phối theo tỷ lệ phân bổ thầu tại mức lãi suất
đó, phương án phân bổ như sau:
Tỷ lệ trúng thầu được phân phối tại mức lãi suất cuối cùng được chọn là:
m −1

K (rm ) =

A − ∑ b(rt )
t =1

b(rt )

Trên cơ sở xác định được tỷ lệ K (rm ) , khối lượng trúng thầu của thành viên
thứ i ( Wi ) tại mức lãi suất rm được xác định như sau:
W(rm ) = k(rm ) ∗ b(rm )


Trong trường hợp NHTW cần thu hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán
GTCG thì các quy trình diễn ra ngược lại.
1.2.7

Quy trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở

Do có các đặc thù khác nhau ở từng nước nhưng về quy trình thực hiện
đều trải qua các bước cơ bản sau:
Bước một: Ban điều hành NVTTM tại NHTW sẽ xem xét, phân tích tình
hình kinh tế và triển vọng của nền kinh tế dựa trên các yếu tố:
- Diễn biến thị trường tài chính
- Nhu cầu về vốn của hệ thống TCTD
- Các diễn biến trên thị trường ngoại hối.
- Diễn biến cán cân thanh toán quốc tế.
- Các giao dịch chứng khoán Chính phủ
Căn cứ vào các mục tiêu phân tích trên, ban điều hành NVTTM đưa ra định
hướng sử dụng NVTTM.
Bước hai: Dựa vào các nội dung sau, ban điều hành NVTTM đưa ra quyết
định thực hiện nghiệp vụ NVTTM


22

- Xác định được mức dự trữ cần duy trì cho các TCTD để thực hiện mục
tiêu CSTT do hội đồng CSTT đưa ra.
- Định hướng sử dụng công cụ NVTTM.
Từ đây, ban điều hành NVTTM đưa ra thời hạn cho các giao dịch và các hình
thức giao dịch, tần số giao dịch, loại giao dịch.
Bước ba: Căn cứ vào các quyết định của ban điều hành NVTTM, bộ phận

nghiệp vụ sẽ thông báo đấu thầu với nội dung cơ bản sau:
- Loại đấu thầu
- Khối lượng GTCG cần mua hoặc bán.
- Loại GTCG được giao dịch
- Hình thức mua bán
- Kỳ hạn giao dịch
- Ngày. giờ đấu thầu.
Bước bốn: Dựa vào thông báo dự đấu thầu của các thành viên tham gia
NVTTM, trong đó có thông báo số lượng dự thầu nhận được. Bộ phận nghiệp
vụ sẽ tiến hành tổ chức đấu thầu và phân bổ thầu cho các thành viên tham gia,
thông báo số lượng trúng thầu, loại và kỳ hạn trúng thầu cho các thành viên.
Bước năm: Lập các hợp đồng giao dịch, thanh toán chuyển giao quyền sở
hữu các GTCG cho các thành viên trúng thầu.
Tuy nhiên điều cơ bản là sau khi xác định được lượng GTCG cần giao dịch
hoặc lãi suất cần can thiệp trên thị trường, NHTW lựa chọn công cụ giao dịch.
Công cụ giao dịch trên thị trường đòi hỏi phải có tính thanh khoản cao, thị
trườnggiao dịch GTCG phải có tầm rộng và sâu để khi NHTW thực hiện các
giao dịch đối với GTCG sẽ không gây biến động lớn đối với thị trường.
1.2.8 Điều kiện vận hành nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được vận hành theo cơ chế thị trường, nó lợi
dụng cơ chế thị trường để ảnh hưởng đến mục tiêu CSTT, nên sự vận hành
của NVTTM phụ thuộc vào các điều kiện cơ bản sau:


23

1.2.8.1 Mức độ phát triển của thị trường tiền tệ.
Các TCTD tham gia NVTTM nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản và mục
tiêu lợi nhuận từ việc kinh doanh GTCG. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
của mình, các TCTD có thể thực hiện bán các GTCG, vay từ các TCTC, tín

dụng khác trên thị trường vốn hoặc vay NHTW. Do đó, phải có một thị trường
tiền tệ sơ cấp và thị trường thứ cấp phát triển cho các loại GTCG. Điều kiện
này đảm bảo cho việc lưu thông GTCG, tăng cường hàng hoá cho hoạt động
NVTTM.
1.2.8.2 Điều kiện về môi trường pháp lý.
Các văn bản pháp lý dùng cho NVTTM tập trung vào các vấn đề như:
Hàng hoá tham gia thị trường, quy chế về hoạt động của thị trường, điều kiện
để trở thành thành viên của thị trường và một số vấn đề khác.
Quy định về hàng hoá tham gia thị trường luôn có sự thay đổi sao cho phù
hợp với từng thời kỳ, đáp ứng nhu cầu thị trường, chỉ khi hàng hoá nắm giữ
của ngân hàng phù hợp với nhu cầu giao dịch của NHTW thì các ngân hàng
mới có thể tham gia NVTTM. Bời vì, các vấn đề về quy định hàng hoá trên
thị trường có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của thị trường.
Quy định về đối tác tham gia thị trường cũng cần phải linh hoạt tạo điều
kiện cho các TCTD, các doanh nghiệp, các tổ chức phi ngân hàng… có nhu
cầu tham gia thị trường. Chính vì vậy, quy định về đối tác NVTTM của
NHTW tác động rất lớn tới sự sôi động và quy mô của thị trường.
Sau cùng là các quy định về quy chế hoạt động của NVTTM, nếu thiếu
những cơ sở pháp lý thì sẽ hạn chế sự phát triển của thị trường. Việc quy định
rõ ràng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường và quy định trách
nhiệm của các cơ quan liên quan, chế độ thống kê báo cáo chuẩn hoá… sẽ tạo
nên một môi trường chắc chắn và có độ tin cậy cao. Tuy nhiên các quy định,


24

quy chế này cũng cần phải sửa đổi liên tục để phù hợp với sự thay đổi của
thực tế và nâng cao tính an toàn.
1.2.8.3 Điều kiện về cơ sở vật chất đầy đủ để vận hành nghiệp vụ thị
trường mở.

Đó là cơ sở hạ tầng của thị trường bao gồm: cơ sở thiết bị máy móc như
mạng máy tính, điện thoại, fax, thiết bị máy tính. Các hệ thống trang thiết bị,
thông tin liên lạc, đường truyền phải hiện đại để NHTW và các đối tác có thể
giao dịch thuận lợi, thông suốt và an toàn.
1.2.8.4 Điều kiện về tính hiệu quả qua sự can thiệp của NHTW.
Với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành hoạt động NVTTM, trên cơ sở
dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống TCTD.
NHTW quyết định thời điểm, khối lượng chào mua, chào bán GTCG, thời hạn
và phương thức giao dịch NVTTM nhằm điều khiển thị trường theo mục tiêu
đã xác định. Do đó, tính hiệu quả qua sự can thiệp của NHTW chính là tác
động của NVTTM tới vốn khả dụng của các TCTD, từ đó tác động đến thị
trường tiền tệ và nền kinh tế.
1.3 Kinh nghiệm hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng
Trung ương một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.3.2 Nghiệp vụ thị trường mở một số nước trên thế giới.
1.3.1.1 Nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ.
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed, NHTW của Mỹ) bắt đầu thực hiện
NVTTM từ cuối những năm 1920. Khi đó, NVTTM được sử dụng như một
công cụ hỗ trợ thực hiện cho vay chiết khấu của Fed. Nhưng đến nay,
NVTTM được coi là công cụ CSTT linh hoạt, có hiệu quả và quan trọng nhất
của Fed vì hoạt động NVTTM có tính chất quyết định đến sự thay đổi dự trữ
của hệ thống ngân hàng và lãi suất thị trường. Để điều hành NVTTM, Fed đã
thành lập Uỷ ban nghiệp vụ thị trường mở (FOMC). Theo định kỳ 6 tuần/lần,


25

FOMC họp bàn phân tích các diễn biến kinh tế - tiền tệ và các yếu tố ảnh
hưởng để đưa ra các quyết định về mục tiêu tăng trưởng M1, M2 và lãi suất
liên ngân hàng định hướng, lãi suất chiết khấu từ đó quyết định khối lượng

GTCG giao dịch trên thị trường mở, phương thức giao dịch và thời hạn giao
dịch Fed lựa chọn những chứng khoán có tính thanh khoản và độ an toàn cao
làm công cụ thực hiện NVTTM nhằm đạt được mục tiêu điều tiết vốn khả
dụng của hệ thống ngân hàng một cách có hiệu quả nhất. Chứng khoán Chính
phủ Mỹ (đặc biệt là tín phiếu kho bạc) là công cụ chủ yếu được sử dụng trong
các giao dịch NVTTM do có khối lượng giao dịch trên thị trường lớn, có tính
thanh khoản và độ an toàn cao. Thời hạn của các chứng khoán Chính phủ
được giao dịch trên thị trường khá đa dạng, từ dưới 01 năm đến trên 10 năm.
Đối tác giao dịch chủ yếu của Fed tại thị trường thứ cấp là các ngân hàng. Tuy
nhiên, đối với lĩnh vực tư nhân của Fed lại là các ngân hàng, các công ty
chứng khoán hoặc là các nhà môi giới giao dịch có đăng ký với uỷ ban chứng
khoán và hối đoái.Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà Fed áp dụng hình thức
mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn, thông qua hình thức đấu thầu lãi suất.
Các giao dịch mua bán hẳn thường được sử dụng khi việc dự báo các nhân tố
ảnh hưởng đến mức dự trữ của các NHTM như khối lượng tiền ngoài lưu
thông, khả năng chi tiêu của Chính phủ … cho thấy mức dự trữ cần được tiếp
tục điều chỉnh trong một thời gian dài. Ngoài ra khi cần tăng dự trữ, bên cạnh
việc mua hẳn, Fed có thể sử dụng thêm hình thức cho trả trước hạn các chứng
khoán. Thực chất cả 2 nghiệp vụ mua bán hẳn và thanh toán trước hạn chứng
khoán đều có tác động giống nhau.Trong trường hợp dự báo cho thấy cần thay
đổi tạm thời dự trữ của các ngân hàng, hoặc không dự báo được chính xác
mức độ cũng như thời hạn biến động của dự trữ, Fed có thể thực hiện phương
thức mua bán có kỳ hạn ngắn thông qua các hợp đồng Repos, với thời gian
thường không quá 15 ngày.


×