Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LV Thạc sỹ_hoạt động đầu tư phát triển tại tổng cục hải quan giai đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.1 KB, 109 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã
nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................1
PHỤ LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ

LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................1
BẢNG

LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................1
Bảng 3.1: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển tại Tổng cục Hải quan giai đoạn 2010 –
2015.............................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
........................................................................................................................

77


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2000-2010 của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ tài chính – ngân sách giai
đoạn 2006-2010 của ngành Tài chính, ngành Hải quan phải tập trung mọi trí tuệ,
nguồn lực để tiếp tục thực hiện chương trình cải cách, hiện đại hoá Hải quan.
Đến năm 2010, Hải quan Việt Nam phấn đấu bắt kịp trình độ quản lý của Hải
quan các nước khu vực với hệ thống pháp luật Hải quan ổn định, minh bạch và
phù hợp với chuẩn mực quốc tế; quy trình thủ tục Hải quan đơn giản, hài hòa,
thống nhất, đạt chuẩn mực quốc tế; lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên
nghiệp, chuyên sâu; hệ thống thông quan chủ yếu dựa trên nền tảng tự động hóa,
trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm
tạo thuận lợi cho thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần tích cực
vào việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách quốc gia, góp phần bảo vệ an ninh đất nước.
Hơn nữa, theo con số dự kiến kế hoạch thời kỳ 2010-2015, kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa mỗi năm tăng bình quân từ 14% đến 15%. Vì vậy, Hải
quan Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, cần phải đổi mới, đầu tư
để hoàn thành những nhiệm vụ được giao, đó là kiểm tra, giám sát phương tiện,
hàng hóa xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, đưa bộ mặt của ngành xứng đáng
ngang tầm nhiệm vụ.

Do đó, hoạt động đầu tư phát triển trong ngành Hải quan đóng vai trò vô
cùng quan trọng. Tuy nhiên, đầu tư như thế nào để mang lại hiệu quả cao, không
lãng phí, thất thoát cho Nhà nước vẫn là một bài toán còn dở dang, đang được nhiều
cấp xem xét.
Trước yêu cầu thực tế khách quan đó, cùng với sự hướng dẫn giúp đỡ của
các thầy, cô trong khoa Đầu tư, trường Đại học Kinh tế quốc dân và các đồng


2

nghiệp trong ngành, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hoạt động đầu tư phát triển tại
Tổng cục Hải quan giai đoạn 2006 – 2015. Thực trạng và giải pháp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư
phát triển tại Tổng cục Hải quan những năm qua (về những kết quả, hiệu quả, hạn
chế và nguyên nhân). Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển
của Tổng cục Hải quan trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng cục Hải quan giai đoạn 2006
- 2009.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt lý luận: chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển
tại đơn vị hành chính sự nghiệp, nội dung hoạt động đầu tư tại đơn vị hành chính sự
nghiệp, các chỉ tiêu để đánh giá kết quả, hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng
cục Hải quan giai đoạn 2006-2009: nguồn vốn, cơ cấu vốn, nội dung đầu tư, quy
trình đầu tư, mô hình quản lý đầu tư; những định hướng và giải pháp tăng cường
hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng cục Hải quan.
4. Kết cấu luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:

Chương 1: Một số lý luận cơ bản về hoạt động đầu tư phát triển tại đơn vị
hành chính sự nghiệp
Chương 2: Thực trạng của hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng cục Hải
quan giai đoạn 2006-2009
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng cục
Hải quan đến năm 2015
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp luận
cơ bản :


3

- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn.
- Sử dụng phương pháp duy vật lịch sử để đánh giá những thành tựu và những
tồn tại bất cập trong thực tiễn.
- Sử dụng phương pháp thống kê so sánh để rút ra những nhận xét, đánh giá cụ
thể, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục.
- Sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia để nghiên cứu tham khảo.


4

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ
NGHIỆP
1.1.Những vấn đề cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển tại đơn vị hành
chính sự nghiệp cấp Tổng cục
1.1.1. Khái niệm và nguồn vốn hoạt động đầu tư phát triển

1.1.1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển
Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã
bỏ ra.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng
lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn
lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao
gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị tài nguyên. Như vậy, khi xem
xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính
đúng, tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn
thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã
hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ.


5

Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư được chia thành
hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận.
Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: loại
được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm
đầu tư.
Trên góc độ tài sản: đối tượng đầu tư được chia thành những tài sản vật chất

(tài sản thực) và tài sản vô hình. Tài sản vật chất là những tài sản cố định được sử
dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động.
Tài sản vô hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu…
Đầu tư phát triển là vì phát triển bền vững, vì lợi ích của cả quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Có đầu tư phát triển thì quốc gia mới có tăng trưởng kinh tế,
tăng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho toàn bộ
thành viên trong xã hội. Còn đối với doanh nghiệp, vì mục tiêu tối thiểu chi phí, tối
đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực nên phải
thực hiện hoạt động đầu tư phát triển.
Do vậy cần thiết phải tiến hành hoạt động đầu tư phát triển không chỉ quy
mô trong một doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Trước khi thực hiện hoạt động đầu tư, bao giờ dự án cũng xác định được chủ
đầu tư. Xác định được chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu
tư nói chung và quản lý vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc
được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư, được ra quyết định đầu tư, quản lý quá trình
thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư và là người hưởng lợi trực tiếp từ thành
quả đầu tư đó.
Tuy nhiên, chủ đầu tư cũng là người phải chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát
đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm trong quá trình đầu tư và hậu
quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường môi sinh. Chủ đầu tư là người có ảnh
hưởng quan trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư phát triển.
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng,
thiết bị,…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật, …) và


6

tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền…). Các kết quả đạt được của
đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư
phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí

chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần xem xét cả trên
phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết quả hài hòa giữa các loại lợi ích,
phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra giám sát
của cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không
trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh
doanh như đầu tư cho y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo… nhưng lại rất quan trọng
để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó, cũng được xem
là đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư. Qui mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy
động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn,
quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư
trọng tâm trọng điểm.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ
cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại
nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh
hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải
quyết lao động dôi dư…
- Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện
dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát
triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê động trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành
phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng


7


hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng
thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: Thời gian vận hành các kết
quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử
dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài, có
thể vĩnh viễn tồn tại như các Kim tự Tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn lý
Trường Thành ở Trung Quốc, Ăng Co Cát ở Camphuchia…). Trong suốt quá trình
vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực, của
nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây
dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá
trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng
lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Không thể dễ dàng di chuyển
các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lý hoạt động
đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu
tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa
trên những căn cứ khoa học.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư
đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh
tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá… Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác
nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư hợp
lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo
điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do qui mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu
tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi
ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân,
trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất
lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên



8

liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
Ví dụ để nghiên cứu tính khả thi về mặt thị trường, chủ đầu tư phải nghiên cứu tình
hình cung, cầu, giá cả… của sản phẩm dự định đầu tư của dự án. Với mức giá là
10.000 đ/sản phẩm, dự án xây dựng dòng tiền thu, chi và tính được tổng lợi nhuận
thuần cả vòng đời dự án. Tổng lợi nhuận thuần càng lớn, quyết định đầu tư càng dễ
dàng. Tuy nhiên, nếu khi dự án đi vào hoạt động, giá cả của sản phẩm giảm và chỉ
là 5000đ, thì trong các điều kiện khác không đổi, tổng lợi nhuận thuần của dự án đạt
50% so với dự kiến ban đầu. Đây là rủi ro do bán sản phẩm giảm. Như vậy, để quản
lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi
ro bao gồm:
+ Nhận diện rủi ro đầu tư
+ Đánh giá mức độ rủi ro
+ Xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro

1.1.1.2.Nguồn vốn hoạt động đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển là bộ phận hữu cơ của vốn nói chung. Trên phương
diện nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi
phí đã chi ra để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm vốn cố định và vốn lưu động), tăng
thêm tư liệu sản xuất (gồm tài sản vật và tài sản trí tuệ) và nguồn lực để phát triển
sản xuất và nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của dân cư.
Về cơ bản, vốn đầu tư phát triển mang những đặc trưng chung của vốn như:
Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị
của những tài sản hữu hình và vô hình
Vốn phải vận động sinh lời: vì vốn biểu hiện bằng tiền nên để biến tiền thành
vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện, vận động và có khả năng sinh lời
Vốn cần được tính tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát
huy tác dụng.

Vốn phải gắn với chủ sở hữu. khi xác định được rõ chủ sở hữu, đồng vốn sẽ
được sử dụng hiệu quả
Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn
biến động theo thời gian.


9

Đối với quá trình quản lý kinh tế thì chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, như dùng để tính chỉ tiêu GDP theo quý và năm; vốn đầu tư
phát triển cũng giúp các nhà hoạch định chính sách có các thông tin về tốc độ phát
triển và cơ cấu vốn theo vùng lãnh thổ, theo ngành kinh tế và theo các nguồn vốn.
Từ đó đưa ra các chính sách quản lý vĩ mô hợp lý, như chính sách huy động vốn,
chính sách phân bổ cơ cấu đầu tư theo từng khu vực, từng ngành, từng vùng, … phù
hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể của nền kinh tế.
Vốn đầu tư phát triển trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế bao gồm:
Một là, vốn đầu tư xây dựng cơ bản: vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những
chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây lại hoặc khôi phục năng lực sản
xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân.
Hai là, vốn lưu động bổ sung: Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản
đầu tư dùng mua sắm nguyên nhiên vật liệu, thuê mướn lao động, làm tăng thêm tài
sản lưu động trong kỳ của toàn bộ xã hội.
Ba là, vốn đầu tư phát triển khác: là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm
gia tăng năng lực phát triển của xã hội nâng cao trình độ dân trí, cải thiện chất
lượng môi trường. Những bộ phận chính của vốn đầu tư phát triển khác bao gồm:
Vốn chi cho công việc thăm dò, khảo sát, thiết kế, quy hoạch ngành, quy
hoạch lãnh thổ.
Vốn chi cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng
cường sức khỏe cộng đồng như chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình
nước sạch nông thôn, phòng chống và thanh toán bệnh phong, bệnh lao, dịch H5N1,

dịch tả, …; chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình sử dụng muối iốt …;
chương trình kế hoạch hóa gia đình và trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội…
Vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục: chương trình phổ cập giáo dục, nghiên
cứu, triển khai, đào tạo, giáo dục…
Vốn đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái như chương trình phủ
xanh đất trồng đồi trọc, chương trình bảo vệ rừng đầu nguồn, chương trình bảo vệ
động vật quý hiếm, ....


10

Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ để chỉ các nguồn tích lũy tập trung
và phân phối cho đầu tư. Về bản chất nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển chính
là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình
tái sản xuất xã hội.
Nguồn vốn phát triển trên phương diện vĩ mô, bao gồm nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước gồm: vốn nhà nước (gồm
vốn đầu tư phát triền từ ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn trái phiếu chính phủ,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước), nguồn vốn của dân cư và các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vốn trên thị trường vốn. Nguồn vốn nước ngoài
gồm: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA), vốn vay thương mại nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế.
Trong mỗi thời kỳ khác nhau, quy mô và tỷ trọng của từng nguồn vốn có thể thay
đổi nhưng để chủ động phát triển kinh tế xã hội của quốc gia theo các định hướng
chiến lược và kế hoạch đặt ra, cần nhất quán quan điểm: xem vốn trong nước giữ
vai trò quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của đơn vị hành chính sự nghiệp
1.1.2.1.Khái niệm đơn vị hành chính sự nghiệp
Đơn vị hành chính sự nghiệp là một loại hình đơn vị được Nhà nước quyết

định thành lập; có chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy theo quy định của Pháp
luật và để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể hay thực
hiện một nhiệm vụ chuyên môn nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Nhà nước giao.
Trong quá trình hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước
giao, đơn vị hành chính sự nghiệp được Nhà nước cấp kinh phí từ ngân sách Nhà
nước (hoặc được bổ sung từ các nguồn kinh phí khác) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
nhằm đảm bảo cho đợn vị hành chính sự nghiệp hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước hiện bao gồm cơ quan hành chính Nhà
nước và đơn vị sự nghiệp.


11

Cơ quan hành chính Nhà nước (hay còn gọi là hành chính công) là cơ quan
công quyền của Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Theo tính chất hoạt động thì tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính Nhà
nước có cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
Theo thẩm quyền về hành chính theo lãnh thổ của thì tổ chức bộ máy của cơ
quan hành chính Nhà nước được tổ chức theo 4 cấp hành chính là cơ quan hành
chính Nhà nước cấp Trung ương, cơ quan hành chính Nhà nước cấp tỉnh (thành
phố), cơ quan hành chính Nhà nước cấp quận (huyện) và cơ quan hành chính Nhà
nước cấp xã (phường).
Đơn vị sự nghiệp Nhà nước sáng tạo ra những sản phẩm đặc biệt về giá trị
đạo đức, khoa học, trình độ kiến thức, giá trị văn hoá nghệ thuật v.v.
Hệ thống các cơ quan Nhà nước hoạt động quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và được tổ chức ở các cấp hành chính khác nhau đã hình
thành nên bộ máy hành chính Nhà nước. Hiện nay việc Nhà nước cấp kinh phí từ
nguồn ngân sách Nhà nước cho các cơ quan hành chính Nhà nước sử dụng được

thực hiện theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm 2002.
Cũng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 thì tất cả các
khoản chi Ngân sách Nhà nước phải được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau
quá trình cấp phát thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán Ngân sách Nhà
nước được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do cơ Nhà nước có
thẩm quyền quy định và được Thủ trưởng đơn vị sử dụng Ngân sách hoặc người
được ủy quyền quyết định chi.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, đơn vị dự toán các cấp gồm có:
Đơn vị dự toán cấp I: là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng năm do
Thủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân giao. Đơn vị dự toán cấp I thực hiện
phân bổ, giao dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới trực thuộc; chịu trách nhiệm
trước Nhà nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách


12

của đơn vị mình và công tác kế toán và quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán
cấp dưới trực thuộc theo quy định.
Đơn vị dự toán cấp II: là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, được đơn vị
dự toán cấp I giao dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị dự toán cấp III
(trường hợp được uỷ quyền của đơn vị dự toán cấp I), chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác kế
toán và quyết toán của các đơn vị dự toán cấp dưới theo quy định.
Đơn vị dự toán cấp III: là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, được đơn vị dự
toán cấp I hoặc cấp II giao dự toán ngân sách, có trách nhiệm tổ chức, thực hiện
công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và đơn vị sử dụng ngân
sách trực thuộc (nếu có) theo quy định.
Đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để thực hiện
phần công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện công tác kế toán và quyết toán
theo quy định.


1.1.2.2.Đặc điểm của đơn vị hành chính sự nghiệp
Xét trên góc độ quan hệ tài chính thì đơn vị hành chính sự nghiệp có các đặc
điểm chung sau đây:
Một là: Đơn vị hành chính sự nghiệp là đơn vị được Nhà nước cấp kinh phí
từ nguồn ngân sách Nhà nước để đảm bảo hoạt động trên cơ sở các quy định của
luật pháp và theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.
Hai là: Đối với kinh phí được Ngân sách Nhà nước cấp đơn vị hành chính sự
nghiệp chỉ được sử dụng cho mục đích đã được xác định trước theo nội dung dự
toán được giao. Điều đó có nghĩa là đơn vị hành chính sự nghiệp chỉ được chi tiêu
theo dự toán đã được duyệt, theo từng mục đích chi cụ thể và kinh phí đơn vị đã chi
tiêu trong năm dự toán phải được thẩm tra và duyệt quyết toán chi ngân sách theo
quy định.


13

Ba là: Các khoản thu của đơn vị hành chính sự nghiệp không vì mục đích
lợi nhuận, nó mang tính bắt buộc và được đưa vào quỹ tập trung của Ngân sách
Nhà nước.

1.2.Nội dung hoạt động đầu tư phát triển tại đơn vị hành chính sự nghiệp
cấp Tổng cục
1.2.1. Nội dung đầu tư phát triển tại đơn vị hành chính sự nghiệp cấp Tổng
cục
Đơn vị hành chính sự nghiệp Nhà nước là các đơn vị dịch vụ công cộng hoạt
động không vì mục đích lợi nhuận. Nguồn kinh phí để thực hiện các hoạt động của
đơn vị này là chủ yếu từ ngân sách Nhà nước. Hoạt động đầu tư phát triển của 1 đơn
vị hành chính sự nghiệp chủ yếu bao gồm ba nội dung chính, đó là:
-


Đầu tư cho xây dựng là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo ra tài sản cố định

của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng bao gồm các hoạt động chính như xây lắp và
mua sắm máy móc, thiết bị. Để cho các đơn vị hành chính sự nghiệp hoạt động
được thì cần phải xây dựng các trụ sở làm việc, nhà ở tập thể, khối văn phòng, cơ
quan… Đây là nội dung đầu tư có nguồn vốn lớn nhất, diễn ra trong thời gian dài
(1-4 năm) và quản lý phức tạp. Đầu tư xây dựng phải được quản lý thông qua các
dự án cụ thể và thực hiện từng bước theo quy định của nhà nước.
-

Đầu tư mua sắm vật tư, kỹ thuật, máy móc, phương tiện….: Bên cạnh đầu

tư cho xây dựng trụ sở làm việc, các công trình… thì việc đầu tư vào mua sắm trang
thiết bị, kỹ thuật, máy móc, phương tiện để phục vụ cho công việc cũng là cần thiết.
Đối với một đơn vị hành chính thông thường thì nội dung này khá đơn giản. Nhưng
đối với một đơn vị hành chính đặc thù như ngành Hải quan thì vấn đề này phải được
quan tâm nhiều hơn. Bởi công việc của các cán bộ Hải quan không thể không có các
công cụ, phương tiện hỗ trợ như máy soi hàng hóa, máy ngửi ma tuý, cân ô tô, cân
hàng, máy camera giám sát….Kinh phí chi cho hoạt động đầu tư mua sắm trang
thiết bị này không nhỏ, chiếm một tỷ lệ lớn so với các hoạt động khác của đơn vị.


14

-

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Con người luôn giữ vị trí trung tâm và

đóng vai trò quan trọng, quyết định đến mọi hoạt động. Do vậy, vấn đề đầu tư nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực là càn thiết và đáng được quan tâm đúng mức. Đầu
tư nguồn nhân lực thể hiện ở việc sử dụng nguồn vốn vào việc tuyển dụng, đào tạo
(chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…), đào tạo
lại, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều
kiện làm việc của người lao động…Trả lương đúng, đủ cho người lao động cũng
được xem là hoạt động đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực để tạo ra
một lực lượng cán bộ, công chức hùng mạnh, đáp ứng các yêu cầu phát triển, hoàn
thành nhiệm vụ của đơn vị.
Trong các nội dung đầu tư phát triển nêu trên thì đầu tư xây dựng các
công trình, đầu tư mua sắm trang thiết bị là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng
tiềm lực cho đơn vị, còn đầu tư phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để
đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao.

1.2.2. Mô hình quản lý đầu tư phát triển đơn vị hành chính sự nghiệp
Đầu tư phát triển hay nói cách khác hoạt động mua sắm công ở các đơn vị
hành chính sự nghiệp gồm hai nội dung là chi tiêu thường xuyên và đầu tư mới. Sản
phẩm của chi tiêu thường xuyên là hàng hoá, đây là hoạt động đầu tư phi dự án. Sản
phẩm của đầu tư mới là các công trình xây dựng, đây là hoạt động đầu tư theo dự
án. Mỗi hoạt động đầu tư có những đặc thù riêng, do vậy, mô hình quản lý đầu tư
cũng có điểm giống và khác nhau.


15

Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý đầu tư phi dự án:

ĐẦU TƯ PHI DỰ ÁN

QUY
TRÌNH

MUA SẮM

QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH

Báo cáo
chi tiêu

Kiểm
toán

CƠ CHẾ GIÁM
SÁT, QUẢN LÝ

Cá nhân
giám
sát,
quản lý

Nhóm
giám
sát,
quản lý

Theo mô hình trên, việc đầu tư mua sắm trang thiết bị, phương tiện phải
được tiến hành theo một quy trình cụ thể. Mặc dù hoạt động đầu tư này không cần
lập dự án như đầu tư xây dựng nhưng đơn vị vẫn cần lập kế hoạch mua sắm theo
từng giai đoạn, có thể là một thời kỳ, một năm, một quý hay một tháng. Việc mua
sắm này cần có một đội ngũ để quản lý vấn đề tài chính như là báo cáo chi tiêu và
kiểm toán sau này. Bên cạnh đó thì việc giám sát, quản lý cũng cần thiết. Đối với

nội dung mua sắm đơn giản thì chỉ cần cá nhân giám sát, quản lý. Còn đối với nội
dung mua sắm phức tạp như hệ thống camera quan sát, theo dõi, hệ thống máy soi
hành lý, máy soi hàng hóa, hệ thống công nghệ thông tin… thì cần phải lập một
nhóm tham gia giám sát, quản lý quy trình mua sắm này.


16

Sơ đồ 1.2:Mô hình quản lý đầu tư theo dự án

ĐẦU TƯ THEO DỰ ÁN

Thành lập ban
quản lý

Thuê
ngoài

Tự
lập

Quy trình
mua sắm

Lập và
thẩm
định
báo
cáo
khả thi


Lập và
thẩm
định thiết
kế kỹ
thuật tổng dự
toán

Hoạt
động
đấu
thầu

Quản lý
tài chính

Nghiệm
thu

Quyết
toán

Thẩm
định

Đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi sử dụng một khối lượng vốn rất lớn
và thời gian đầu tư kéo dài cho nên việc quản lý đầu tư phức tạp hơn nhiều so với
đầu tư mua sắm. Do vậy, cần thiết phải thành lập một ban quản lý riêng. Ban quản
lý này có thể là đơn vị thuê ở bên ngoài (thuê các tổ chức chuyên nghiệp về quản lý
dự án) đối với những dự án lớn, có tính phức tạp, hoặc có thể tự lập đối với những

dự án nhỏ lẻ. Quy trình mua sắm phải theo trình tự các bước: lập và thẩm định báo
cáo khả thi, lập và thẩm định thiết kế kỹ thuật – tổng dự toán, tổ chức hoạt động đấu
thầu và nghiệm thu, bàn giao công trình….Quản lý tài chính gồm có quyết toán
công trình xây dựng và thẩm định lại dự án.


17

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển đơn vị
hành chính sự nghiệp
1.3.1. Cơ chế quản lý đầu tư:
Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XI cuối năm 2002 có nêu nhiệm vụ: Phải có
chế tài đủ mạnh để chống lãng phí và thất thoạt mà nguyên nhân chính dẫn đến
tình trạng lộn xộn, tiêu cực trong hoạt động kinh tế, xã hội hiện nay theo nhiều
đại biểu Quốc hội là tình trạng buông lỏng quản lý kỷ cương, không tuân thủ
đúng pháp luật trong bộ máy cán bộ công chức Nhà nước. Con số thất thoát
trong đầu tư xây dựng là từ 10-15% giá trị công trình, trong khi có hệ thống quy
định vừa nhiều, vừa không đồng bộ, từ khâu xây dựng dự án, thẩm định đến
giám sát…Do vậy, cần phải nâng cấp mạnh mẽ cho cơ sở, xem xét trách nhiệm
được giao cho từng tổ chức, cá nhân người đứng đầu và quản lý chặt chẽ hơn
việc rút và sử dụng tiền mặt qua kho bạc.
Trọng tâm chỉ đạo điều hành của Chính phủ năm 2003 có nêu: Đổi mới và
nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguốn ngân sách nhà nước và tín dụng ưu đãi qua việc
Chấn chỉnh quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước; phân cấp mạnh mẽ
trong đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, đảm bảo chất lượng công trình; tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia giám sát các công trình đầu tư công cộng; Chú trọng
giải quyết hợp lý chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng với tinh thần chủ động.
Thủ tướng Chính phủ khẳng định: Năm 2003 sẽ là năm chống thất thoát,
lãng phí trong xây dựng cơ bản ở các khâu phê duyệt dự án, chấm thầu và đấu thầu,
nhất là nghiêm cấm bán thầu và phải phân cấp trách nhiệm cho địa phương, doanh

nghiệp, và cá nhân thực hiện dự án, Bộ kế hoạch đầu tư cần tập trung giám sát thực
hiện đầu tư xây dựng cơ bản để nhằm giảm tỷ lệ thất thoát như vừa qua.
Theo phân cấp quản lý của Nhà nước hiện nay thì Quốc hội là nơi ban hành
luật và pháp lệnh. Chính phủ ban hành các Nghị định chung nhất về quy chế quản lý
đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu…trên cơ sở tham gia của các Bộ Kế hoạch và
Đâầ tư quản lý hướng dẫn về công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi, quy chế đấu
thầu, tiếp nhận nhu cầu của các tỉnh, ngành, duyệt danh mục đầu tư, trình chính phủ


18

quyết định và sau đó thông báo và phân bổ vốn đầu tư cho từng công trình của các
tỉnh, ngành trên cơ sở số vốn đầu tư được Chính phủ phê duyệt, hướng dẫn công tác
cấp phát vốn và thanh quyết toán vốn công trình hoàn thành.
Như vậy, một công trình xây dựng từ khi hình thành chủ trương đầu tư cho
đến khi nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng phải trải qua tất cả 18 bước thực hiện,
qua nhiều cơ quan tham gia xây dựng công trình và qua nhiều cơ quan tham gia
quản lý trực tiếp và gián tiếp theo từng lĩnh vực chuyên ngành.
Đất nước ta bước vào sự nghiệp đổi mới trong lúc kinh nghiệm thực tiễn
chưa có, luật pháp còn thiếu rất nhiều. Vì thế, mỗi khi Nhà nước có thay đổi chế độ
chính sách là lại thay đổi các cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng.
Việc triển khai thực hiện một dự án đầu tư là quá trình liên tục và thường kéo
dài nhiều năm, đòi hỏi một cơ chế tương đối ổn định. Nhưng trong thực tế vừa qua,
cơ chế chính sách thương được bổ sung, điều chỉnh và thay đổi khoảng 2 năm 1 lần
đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý và triển khai thực hiện dự án.

1.3.2. Đặc điểm của ngành:
Đặc điểm hoạt động của ngành là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn
đến công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển của các đơn vị hành chính sự
nghiệp. Do đó, đặc điểm của các đơn vị khác nhau dẫn đến mô hình quản lý đầu tư

khác nhau, phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng đơn vị đó.
Sơ đồ 1.3: Mô hình quản lý đầu tư xây dựng ngành Hải quan

BỘ TÀI CHÍNH

TỔNG CỤC HẢI QUAN

CỤC, CHI CỤC HẢI
QUAN ĐỊA PHƯƠNG


19

Đối với ngành Hải quan cần lưu ý một số vấn đề chính như chức năng,
nhiệm vụ, ưu thế và những hạn chế từ đó xác định đầu tư như thế nào là hiệu quả
nhất. Nguồn vốn đầu tư trong ngành hải quan là vốn ngành và vốn ngân sách Nhà
nước tập trung nên việc quản lý đầu tư phải hết sức chặt chẽ từ chủ trương đầu tư,
lập, thẩm định dự án đến triển khai đầu tư và vận hành dự án.

1.3.3. Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức
Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu trọng yếu trong
việc xử lý các thông tin để đề ra các quyết định quản lý. Trình độ cán bộ quản lý là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời, chính xác của các quyết định quản lý,
quyết định đến sự thành bại của công tác quản lý nói chung cũng như quản lý hoạt
động đầu tư nói riêng.
Đối với các cơ quan quản lý cấp trên, nếu cán bộ quản lý có kinh nghiệm và
trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ đưa được những biện pháp quản lý phù hợp, xử
lý thông tin quản lý kịp thời, chính xác làm cho hoạt động quản lý ngày càng đạt kết
quả tốt.
Đối với những người trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư thì kinh nghiệm

công tác và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là điều kiện hết sức cần thiết để đưa
công tác quản lý hoạt động đầu tư ngày càng đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quy
định về đầu tư và xây dựng của Nhà nước, góp phần vào hiệu quả của công tác quản
lý đầu tư xây dựng toàn ngành.
Ngoài ra, người có thẩm quyền quyết định đầu tư có vai trò hết sức quan
trọng, quyết định sự sống còn của một dự án. Đối với các dự án nhóm A thì Thủ
tướng Chính phủ quyết định, còn các dự án nhóm B và C thì do cấp Bộ và ngang Bộ
quyết định. Tại các cơ quan này thường giao ký các quyết định đầu tư cho các cấp
phó. Trong ngành Hải quan thì lâu nay vẫn giao cho một đồng chí Phó Tổng cục
trưởng phụ trách công tác đầu tư. Như vậy, đây là người có thẩm quyền quyết định
đầu tư.
Rõ ràng là người có thẩm quyền quyết định đầu tư ở nước ta nói chung là các
cán bộ lãnh đạo chuyên môn của ngành mình, ít khi có chuyên môn xây dựng, nhất


20

là chuyên môn quản lý đầu tư và xây dựng. Do vậy, hầu như người có thẩm quyền
quyết định đầu tư là người ký các quyết định, các chủ trương dựa theo ý kiến đề
xuất của cơ quan cấp tham mưu giúp việc về công tác quản lý đầu tư và xây dựng
trong ngành.
Nếu cơ quan tham mưu giúp việc về công tác quản lý đầu tư và xây dựng
làm việc tốt, đúng theo các quy định của Nhà nước thì các quyết định đầu tư và
công tác quản lý đầu tư xây dựng chắc chắn sẽ được thực hiện tốt, có hiệu quả.
Ngược lại, nếu cơ quan cấp tham mưu giúp việc về công tác quản lý đầu
tư và xây dựng làm việc chưa tốt, không chấp hành nghiêm chỉnh đúng theo các
quy định của Nhà nước về công tác quản lý đầu tư và xây dựng thì công trình
xây dựng sẽ dễ mắc phải những sai phạm về chủ trương đầu tư, quy mô đầu tư,
thủ tục, trình tự và các bước chuẩn bị đầu tư, kể cả trong công tác tổ chức đấu
thầu và chấm xét thầu.

Do đó, vai trò của người có thẩm quyền quyết định đầu tư là hết sức quan
trọng trong việc đấu tranh chống lãng phí thất thoát trong xây dựng cơ bản. Người
có thẩm quyền quyết định đầu tư nếu biết cách làm việc, biết cách quản lý công việc
thì có thể tránh được một phần các lãng phí, như trong quyết định phê duyệt chủ
trương đầu tư, quy mô đầu tư và các bước trong thực hiện đầu tư.

1.4.Đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển đơn vị
hành chính sự nghiệp cấp Tổng cục
1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư phát triển đơn vị
hành chính sự nghiệp cấp Tổng cục
Kết quả là thành quả do hoạt động đầu tư tạo ra. Mỗi phương án đầu tư đều
nhằm một mục tiêu nhất định và các phương án đó phải tạo ra các kết quả (đầu ra)
cụ thể.
Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư phát triển trong ngành
Hải quan:


21

* Khối lượng vốn đầu tư thực hiện:
Thực hiện đổi mới không ngừng tài sản cố định đối với toàn bộ nền kinh tế
nói chung hay với doanh nghiệp nói riêng thì cần phải bỏ ra các phương tiện cần
thiết. Trên thực tế, các phương tiện này được biểu hiện dưới dạng vốn đầu tư phát
triển. Vốn đầu tư phát triển là toàn bộ các chi phí cho việc tạo ra tài sản cố định
mới, mở rộng, cải tạo, trang bị lại kỹ thuật, hoặc hiện đại hóa các tài sản hiện có.
Phù hợp với các giai đoạn đầu tư, vốn đầu tư có thể được chia thành:
-

Các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư


-

Các chi phí cho công tác chuẩn bị xây dựng

-

Các chi phí cho công tác xây lắp

Theo nội dung kinh tế của các chi phí để tái sản xuất tài sản cố định thì vốn
đầu tư bao gồm:
-

Chi phí chuẩn bị đầu tư

-

Chi phí thiết kế

-

Chi phí công tác xây dựng và lắp đặt thiết bị

-

Chi phí mua sắm thiết bị, máy móc, dụng cụ và tài sản khác.

-

Chi phí công tác xây dựng cơ bản khác.


• Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện:
Đối với những công cuộc đầu tư có quy mô lớn, thời gian thực hiện đầu tư
dài, vốn đầu tư thực hiện là số vốn đã chi cho từng hoạt động hoặc từng giai đoạn
của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành.
Còn đối với những công cuộc đầu tư có quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu
tư ngắn, vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ các
công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc.
Đối với những công cuộc đầu tư do ngân sách Nhà nước tài trợ, tổng số vốn
đã được chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi các kết quả của quá
trình đầu tư phải đạt các tiêu chuẩn và tính theo phương pháp sau đây:
-

Đối với công tác xây dựng: Vốn đầu tư thực hiện của công tác xây lắp
(IvXL) được tính theo công thức sau đây:


22

n

IvXL =

∑ QxiPxi + C + W + VAT
i =1

Trong đó:
Qxi là khối lượng công tác xây dựng hoàn thành thứ I
Khối lượng công tác xây dựng phải đạt các tiêu chuẩn sau:
+ Các khối lượng này phải có trong thiết kế dự toán đã được phê chuẩn phù
hợp với các tiến độ thi công đã được duyệt.

+ Đã cấu tạo vào thực thể công trình
+ Đã đảm bảo chất lượng theo quy định của thiết kế
+ Đã hoàn thành đến giai đoạn quy ước được ghi trong tiến độ đã thực hiện
đầu tư
+ Được ngân hàng chấp nhận thanh toán.
Pxi là Đơn giá dự toán bao gồm các chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi
phí sử dụng máy thi công tính cho một đơn vị khói lượng công tác xây dựng i
C là chi phí chung được tính theo tỷ lệ phần trăm so với chi phí nhân công
trong dự toán xây dựng. Khoản chi phí chung này do Nhà nước quy định theo từng
loại công trình (như công trình dân dụng, công trình công nghiệp , công trình thủy
điện…)
W là lãi định mức (thu nhập chịu thuế tính trước) được tính theo tỷ lệ phần
trăm so với giá thành dự toán công tác xây lắp do Nhà nước quy định theo từng loại
hình công trình.
VAT là tổng thuế giá trị gia tăng đầu ra (gồm thuế giá trị gia tăng đầu vào để
trả khi mua các loại vật tư, nhiên liệu, vật liệu, năng lượng và phần thuế giá trị gia
tăng mà doanh nghiệp xây dựng phải nộp)
-

Vốn đầu tư thực hiện đối với công tác lắp đặt thiết bị và thí nghiệm, hiệu
chỉnh thiết bị công nghệ trong các loại công trình xây dựng (IvL) được
tính theo công thức sau:
n

IvL =

∑ Q LiPLi + C + W + VAT
i =1



×