Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty cổ phần hồng hà dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 99 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MC CH VIT TT
BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

GTGT

Giá trị gia tăng

HMCT

Hạng mục công trình

KLXL

Khối lợng xây lắp

KPCĐ



Kinh phí công đoàn

NVL

Nguyên vật liệu

NVLTT

Nguyên vật liệu trực tiếp

XDCB

Xây dựng cơ bản


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ

BẢNG


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu quan trọng và
phức tạp nhất trong toàn bộ công tác kế toán của mỗi doanh nghiệp. Hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phản ánh và giám đốc toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn là tấm gương phản chiếu
toàn bộ bộ máy tổ chức, trình độ quản lý và công nghệ mà một doanh nghiệp đã và
đang tiến hành trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, bên cạnh nhiều
ngành sản xuất vật chất quan trọng khác thì ngành xây dựng là một ngành sản xuất
vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Sản phẩm xây lắp là cơ
sở hạ tầng, là huyết mạch của nền kinh tế, là điều kiện tiền đề để phát triển các
ngành kinh tế khác và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên hàng năm tổng mức đầu tư
xây dựng công trình của ngành sản xuất xây lắp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
Ngân sách Nhà Nước. Để sản xuất ra sản phẩm xây lắp thì ngành xây dựng cũng
phải hao phí các chi phí và kết tinh trong sản phẩm. Thực tế tại các doanh nghiệp
xây lắp hiện nay, việc quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn nhiều
điểm bất cập cần phải khắc phục như công tác quản lý chi phí còn yếu kém, giá
thành của sản phẩm xây lắp chưa phản ánh đúng với thực tế phát sinh. Vì vậy, việc
hạch toán các chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp một cách chính xác,
đầy đủ, kịp thời là một yêu cầu xuyên suốt trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh
của các đơn vị xây lắp. Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế, đạt được mục
tiêu tiết kiệm và tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra lợi ích cho xã
hội, tôi đã chọn đề tài: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần Hồng Hà Dầu Khí.


2

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu thực trạng hạch toán chi phí, giá thành sản phẩm xây lắp
tại Công ty CP Hồng Hà Dầu Khí từ đó rút ra nhận xét và đề xuất những biện pháp
giúp Công ty nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp nói chung đưa báo
cáo tài chính trung thực, chính xác, đáng tin cậy cho các đối tượng sử dụng thông
tin bên ngoài doanh nghiệp cũng như tăng cường thông tin cho các nhà quản trị

doanh nghiệp kinh doanh trong việc đưa ra quyết định kinh doanh để mang lại hiệu
quả cao.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm, thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp tại các doanh nghiệp thuộc Công Ty CP Hồng Hà Dầu khí.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp thuộc Công Ty CP Hồng
Hà Dầu khí.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Các
phương pháp toán học, phương pháp thống kê học, phương pháp phân tích kinh tế,
phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp trình bày kết hợp giữa diễn giải và quy
nạp, đồng thời luận văn kết hợp lý luận khoa học chuyên ngành kế toán- kiểm toán
để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.

5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về kế toán chi phí xây lắp và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí đồng thời nêu rõ những tồn tại cơ
bản cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới trên phương diện kế toán tài chính và
kế toán quản trị.
- Căn cứ vào lý luận và kết quả khảo sát thực tiễn, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí, doanh thu và xác định kết quả
kinh doanh xây lắp tại Công Ty CP Hồng Hà Dầu khí.


3


6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí


4

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Đặc điểm hoạt động xây lắp ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Hoạt động sản xuất xây lắp có những điểm riêng mang tính đặc thù do vậy
phương pháp và cách thức tổ chức quản lý nói chung và công tác hạch toán nói
riêng. Những đặc điểm cơ bản có thể kể đến là:
Thứ nhất, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc rõ rệt, mỗi sản phẩm là một
công trình hay hạng mục công trình được xây lắp theo thiết kế kỹ thuật, mỹ thuật
kết cấu, hình thức, phương thi công, địa điểm thi công, địa điểm thi công xây dựng
khác nhau, riêng biệt theo từng hợp giao nhận thầu xây lắp của bên giao thầu, đặc
biệt sản phẩm được sản xuất ngay tại nơi tiêu thụ. Do vậy, việc tổ chức quản lý và
tổ chức kế toán quản trị nhiều, nhất thiết phải có các dự toán thiết kế thi công. Điều
này giúp cho các doanh nghiệp xây lắp có thể giám sát các chi phí phát sinh đối với
từng công trình và tổ chức kế toán quản trị tương đối chính xác về giá trị công trình.
Mặt khác, do mỗi sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ và được

sản xuất theo các hợp đồng giao nhận thầu xây lắp nên chi phí bỏ vào sản xuất thi
công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công trình, ở các địa điểm khác nhau với
điều kiện thi công khác nhau thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của công
trình cũng khác nhau (vì đơn giá vật liệu, nhân công ở các địa phương khác nhau là
khác nhau). Vì vậy kế toán phải tính chi phí, giá thành và kết quả thi công cho từng
công trình xây lắp riêng biệt. Một điều đặc biệt nữa là do sản xuất xây lắp được thực
hiện theo các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nên ít phát sinh chi phí trong quá
trình lưu thông, tiêu thụ.
Thứ hai, sản phẩm xây lắp chỉ được tiến hành sản xuất sau khi có đơn đặt hàng
(hợp đồng giao thầu) của chủ đầu tư (người giao thầu, người mua sản phẩm). Nói
khác là sản phẩm xây lắp thường được sản xuất theo hợp đồng đã được đăng ký kết


5

do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp thường không thể hiện rõ nét. Sản
phẩm được bán theo giá dự toán hay giá thoả thuận với người giao thầu từ trước.
Hầu hết các sản phẩm hoàn thành được nghiệm thu và bàn giao không qua nhập
kho. Bên cạnh đó, tình hình và điều kiện sản xuất xây lắp thiếu tính ổn định, luôn
biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. cụ thể là trong xây dựng,
con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này sang công
trình khác, còn sản phẩm xây lắp (công trình xây dựng) thì hoàn thành đứng yên
một chỗ, một đặc điểm ngược lại và hiếm thấy đối với các ngành sản xuất khác.
Phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất luôn phải thay đổi theo
từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này gây khó khăn cho việc tổ chức
sản xuất, khó cải thiện điều kiện làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực
lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất như: Chi phi điều động nhân
công, máy móc thi công, chi phí chuẩn bị mặt bằng và dọn mặt bằng tập kết vật liệu
và máy thi công...đòi hỏi kế toán phải phản ánh chính xác chi phí này và phân bố
chi phí cho hợp lý.

Thư ba, sản phẩm xây lắp có giá trị lớn vượt quá số vốn lưu động của doanh
nghiệp xây lắp. Hơn nữa thời gian thi công thường kéo dài, trong thời gian thi công
xây dựng doanh nghiệp chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng rất
nhiều nguồn lực điều này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất
của doanh nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xây
lắp phải lựa chọn phương án thi công hợp lý, kiểm tra chất lượng chặt chẽ, phải có
quy ước thanh toán chia thành nhiều giai đoạn theo giai đoạn thi công, dự trữ vốn
phù hợp, theo dõi sát chi phí phát sinh trong quá trình thi công tránh thất thoát, lãng
phí.
Mặt khác, do thời gian thi công trình thường kéo dài nên kỳ tính giá thành
không phải hàng tháng như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp mà thường tuỳ
vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình được thể hiện qua phương pháp lập
dự toán và phương thức thanh toán giữa bên giao thầu và bên nhận thầu. Cũng như
chu kỳ sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài nên đối tượng tính giá thành có thể là toàn


6

bộ công trình xây lắp hoàn thành hay đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Sản phẩm xây
lắp có thể có kết cấu phức tạp nên giá trị sản phẩm xây lắp đòi hỏi tính toán tỉ mỉ.
Việc xác định đúng đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sẽ đáp ứng yêu cầu
quản lý kịp thời và chặt chẽ chi phí sản xuất, đánh giá đúng đắn tình hình quản lý
thi công trong từng thời kỳ nhất định.
Thứ tư, hoạt động xây lắp thường tiến hành ngoài trời, chịu tác động trực tiếp
của môi trường, khí hậu, thời tiết. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp xây lắp trong
cả năm gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi vật tư dự trữ nhiều
hơn. Đặc điểm này yêu cầu các doanh nghiệp xây lắp trong quá trình thi công phải
tổ chức phân phối, điều hoà, cắt cử lực lượng lao động, vật tư hợp lý đảm bảo thi
công nhanh, gọn, hiệu quả. Hơn thế nữa, trong điều kiện thời tiết không thuận lợi,
có thể có nhiều rủi ro bất ngờ như bão lụt làm phát sinh các khoản thiết hại phải làm

lại, thiệt hại do ngừng sản xuất. Những khoản thiệt hại này đòi hỏi các doanh
nghiệp xây lắp phải theo dõi riêng. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám
sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán: Các
nhà thầu phải có trách nhiệm bảo hành công trình, khi hết hạn bảo hành công trình
mới trả lại cho đơn vi xây lắp

*Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán
trong đơn vị xây lắp :
Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai đoạn
công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trinh… từ đó
xác định phương pháp hạch toán chi phí thích hợp.
Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai
đoạn công việc đã hoàn thành, khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng đã hoàn
thành…từ đó xác định phương pháp tính giá thành thích hợp: Phương pháp tính giá
trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp hệ số, hoặc tỷ lệ.
Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong XDCB dự toán
được lập theo từng hạng mục chi phí. Để có thể so sánh kiểm tra chi phí sản xuất


7

xây lắp thực tế phát sinh với dự toán, chi phí sản xuất xây lắp được phân loại theo
nguyên, vật liệu trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung.

1.2. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.1. Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất xây lắp.
 Khái niệm về chi phí sản xuất xây lắp
Chi phí xây lắp biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao
động vật hóa và các chi phí khác mà doanh nghiệp xây lắp đã chi ra để tiến hành
hoạt động xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Có thể nói về bản chất của chi phí

sản xuất kinh doanh trong hoạt động xây lắp hay chi phí của hợp đồng xây dựng là
chi phí phát sinh trong khâu sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp
do doanh nghiệp xây lắp thực hiện. Việc xác định đúng, đủ chi phí của hoạt động
xây lắp cụ thể là chi phí của từng công trình, hạng mục công trình gắn liền với từng
hợp đồng xây dựng là rất quan trọng. Đây là một nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến
việc xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp.

 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp
Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất như: phân loại chi phí sản xuất theo
tính chất kinh tế, nội dung kinh tế của chi phí; phân loại chi phí theo mục đích, công
dụng của chi phí; phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và đối
tượng tập hợp chi phí; phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp; phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối
quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động,…Trong hoạt động xây lắp, theo cơ cấu
dự toán hiện nay chi phí sản xuất thường được phân loại theo mục đích, công dụng
của chi phí, bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Trong hoạt động xây lắp là những chi phí
vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình, vật liệu
luân chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp hoặc giúp cho việc thực
hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như:
Vật liệu xây dựng: cát, đá, sỏi, sắt, thép, xi măng...
Vật liệu khác: bột màu, đinh, dây,...


8

Nhiên liệu: than củi dùng để nấu nhựa rải đường...
Vật kết cấu: bê tông đúc sẵn...
Thiết bị gắn liền với vật kiến trúc như: thiết bị vệ sinh, thông gió, ánh sáng.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, tiền công phải trả cho số

ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng xây lắp, công
nhân phục vụ xây lắp, kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong phạm vi
mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi công,
không phân biệt công nhân trong danh sách hay thuê ngoài.
Chi phí sử dụng máy thi công: Máy thi công là loại xe máy chạy bằng động
lực (điện, xăng dầu, khí nén,....) được sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp các công
trình như: máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi, máy đóng cọc, ô tô
vận chuyển đất đá ở công trường. Các loại phương tiện thi công này doanh nghiệp
có thể tự trang bị hoặc thuê ngoài. Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi
phí về vật liệu, nhân công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi
công và được chia thành hai loại: Chi phí thường xuyên là những chi phí phát sinh
trong quá trình sử dụng máy thi công, được tính thẳng toàn bộ vào giá thành ca máy
như tiền lương của công nhân trực tiếp điều khiển hay phục vụ xe máy, chi phí về
nhiên liệu, vật liệu dùng cho xe máy thi công, khấu hao và sửa chữa thường xuyên
xe máy thi công, tiền thuê xe máy thi công, và chi phí tạm thời là những chi phí
phải phân bổ dần theo thời gian sử dụng máy thi công như: chi phí tháo lắp, vận
chuyển, chạy thử máy thi công khi di chuyển từ công trường này đến công trường
khác.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí có liên quan đến việc tổ chức,
phục vụ và quản lý thi công của đội xây lắp ở các công trường xây dựng. Chi phí
sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm các khoản chi phí khác nhau thường có
mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây lắp như: tiền lương nhân viên quản lý
đội xây dựng; khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định trên
tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội (thuộc


9

biên chế của DN); khấu hao TSCĐ dùng cho hoạt động của đội và những chi phí
khác liên quan đến hoạt động của đội .

Cách phân loại chi phí sản xuất này xuất phát từ phương pháp lập dự toán
trong xây dựng cơ bản. Dự toán được lập theo từng hạng mục công trình và lập theo
từng khoản mục chi phí. Đây là căn cứ để so sánh, kiểm tra, phân tích chi phí sản
xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán.

1.2.2. Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
 Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới
khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu
được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để
sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ là
đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục đích chính của cơ chế
thị trường là tái sản xuất mở rộng tức là giá tiêu thụ hàng hóa sau khi bù đắp chi phí
đầu vào vẫn phải bảo đảm có lãi. Do đó, việc quản lý, hạch toán giá thành sao cho
vừa hợp lý, chính xác vừa bảo đảm vạch ra phương hướng hạ thấp giá thành sản
phẩm có vai trò vô cùng quan trọng.

 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Có rất nhiều cách phân loại giá thành sản phẩm. Tùy theo tiêu chí lựa chọn
mà giá thành sản phẩm có thể được phân loại thành các trường hợp sau:
- Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này thì chi phí được chia thành giá thành dự toán, giá
thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
+ Giá thành dự toán: là chỉ tiêu giá thành được xây dựng trên cơ sở thiết kế
kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định, tính
theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích định mức.



10

Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản phẩm
xây lắp theo công thức:
(1.1)

Giá thành dự toán
sản phẩm xây lắp

=

Giá trị dự toán sản
phẩm xây lắp

-

Thu nhập chịu
thuế tính trước

Trong đó

:
• Thu nhập chịu thuế tính trước(lãi định mức trong XDCB) được Nhà nước quy
định trong từng thời kỳ.
• Giá trị dự toán xây lắp được xác định dựa vào định mức đánh giá của các cơ
quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả của thị trường.
+ Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào
kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi
phí của kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này được xác lập trên cơ sở giá thành dự toán gắn liền
với điều kiện cụ thể, năng lực thực tế của từng doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất

định.
Giá thành kế hoạch
sản phẩm xây lắp

Giá thành dự

Mức hạ giá

= toán sản phẩm -

thành dự

xây lắp

toán

+

Chênh lệch
định mức

(1.2)
Giá thành kế hoạch là căn cứ để so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành, là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp
+ Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức
cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá
thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không
biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở
các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch
nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi

phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.


11

+ Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết
thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong quá
trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác
định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều
chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
- Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành
sản xuất và giá thành tiêu thụ.
+ Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Đối với các đơn vị xây lắp giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí
nhân công, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
+ Giá thành tiêu thụ: (hay còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh
toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
xây lắp hoàn thành. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức sau đây:

Giá thành toàn
bộ của sản
=
phẩm

Giá thành sản xuất
Chi phí quản lý
+

+
của sản phẩm
doanh nghiệp

Chi phí
bán hàng

(1.3)

Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh
doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy
nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng
và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách
phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.

1.2.3.Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
Để xác định được một các chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cần phân biệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.


12

Chi phí sản xuất xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp giống nhau về chất
nhưng khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất xây lắp là tổng chi phí phát sinh trong
một thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm xây lắp là tổng chi phí sản xuất gắn
liền với một khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành và bàn giao. Chi phí sản xuất
trong kỳ không những liên quan đến sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến
cả chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ. Trong khi đó giá thành sản phẩm xây lắp liên
quan đến cả chi phí của khối lượng công tác xây lắp kỳ trước chuyển sang nhưng
không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ. Chi phí sản

xuất xây lắp là tiền đề, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Nghiên cứu mối quan hệ và sự khác biệt giữa chi phí sản xuất xây lắp và giá
thành sản phẩm xây lắp sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tập hợp chi phí sản xuất và
đặc biệt là tính giá thành một cách chính xác.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm hay nói cách khác giá
thành sản phẩm chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Tuy
nhiên giữa chúng cũng có sự khác nhau thể hiện:
-

Khi nói đến chi phí sản xuất là xem xét tới các hao phí trong một thời kỳ
nhất định, còn giá thành sản phẩm là xem xét các hao phí liên quan đến
sản phẩm đã hoàn thành.

-

Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có sự khác nhau. Sự khác nhau
này thể hiện qua công thức tính giá thành sản phẩm tổng quát.
Chi phí

Tổng giá thành

sản xuất

sản phẩm hoàn
thành

=

dở dang

đầu kỳ

Chi phí

Chi phí
sản xuất phát
+

sinh trong kỳ

-

sản xuất

(1.4)

dở dang
cuối kỳ

Khi
chi

phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không
có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát
sinh trong kỳ.


13

Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản là khối lượng sản phẩm đã hoàn

thành bàn giao theo từng hạng mục công trình hoặc theo từng công trình nên giá
thành được tính chỉ khi nào hạng mục công trình hoặc công trình được hoàn thành
có nghĩa là giá thành bao gồm chi phí sản xuất của kỳ này và có thể cả chi phí sản
xuất của kỳ trước chuyển sang chứ không theo một thời gian nhất định như chi phí.

1.3. Đối tượng và Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
1.3.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
Để xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất phải căn cứ vào
đặc điểm phát sinh chi phí, các yếu tố, tính chất sản xuất như đặc điểm quy trình
công nghệ sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, loại hình sản xuất, yêu cầu và trình
độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản
phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng
mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất là công trình, hạng mục công trình hoặc có thể là bộ phận thi công, từng
giai đoạn công việc hay từng đơn đặt hang.
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, đòi
hỏi công việc đầu tiên mà người làm kế toán phải làm là xác định đối tượng hạch
toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản
phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng
mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất là công trình, hạng mục công trình hoặc có thể là bộ phận thi công, từng
giai đoạn công việc hay từng đơn đặt hàng.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là đối tượng để tập hợp chi phí sản
xuất, là phạm vi giới hạn nhất định mà các chi phí sản xuất xây lắp cần được tập
hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành sản
phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thực chất là xác định nơi
phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Đối với doanh nghiệp xây lắp, đối tượng



14

kế toán chi phí sản xuất là nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí chính là công
trình, hạng mục công trình.
Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp theo đúng đối tượng có tác dụng phục vụ
tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất phục vụ cho công tác tính giá thành
sản phẩm được kịp thời.

1.3.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
Cơ sở xuất phát từ đối tượng hạch toán chi phí để xác định phương pháp
hạch toán chi phí cho thích hợp.
Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai đoạn
công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trình…
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống
các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất theo đối
tượng hạch toán chi phí.
Bao gồm:
Phương pháp phân bổ trực tiếp:
Áp dụng trong trường hợp các chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp đòi hỏi
phải tổ chức việc ghi chép ban đầu (chứng từ gốc) theo từng đối tượng, trên cơ sở
đó, kế toán tập hợp số liệu từ các chứng từ gốc theo từng đối tượng liên quan và ghi
trực tiếp vào các tài khoản cấp 1, cấp 2 hoặc các chi phí theo đúng đối tượng.
Phương pháp phân bổ trực tiếp bảo đảm việc tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối
tượng chi phí với mức độ chính xác cao
Phương pháp phân bổ gián tiếp:
Áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có liên quan với nhiều
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất mà không thể tổ chức việc ghi chép ban đầu
riêng rẽ theo từng đối tượng được. Phương pháp này đòi hỏi phải ghi chép ban đầu
các chi phí sản xuất có liên quan tới nhiều đối tượng theo từng địa điểm phát sinh

chi phí, trên cơ sở đó tập hợp các chứng từ kế toán. Sau đó chọn tiêu chuẩn phân bổ
để tính toán phân bổ chi phí sản xuất đã tập hợp cho các đối tượng có liên quan.


15

Trong các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu dùng các phương pháp tập hợp chi
phí sau:
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công
trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập
hợp cho công trình, hạng mục công trình đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản xuất phát
sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ cho đơn đặt hàng
đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ
khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công: phương
pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán.
Đối tượng hạch toán chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ, đội sản xuất hay
các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được tập hợp theo từng đối
tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, mỗi đối tượng có thể áp dụng một hoặc một số
phương pháp hạch toán trên. Nhưng trên thực tế có một số yếu tố chi phí phát sinh
liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải tiến hành phân bổ các khoản chi phí này
một cách chính xác và hợp lý cho từng đối tượng.
Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán
mở thẻ (sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản
ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí
theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng
hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần
tập hợp và phân loại chi phí

Do đặc thù của ngành xây dựng nên các đơn vị sản xuất xây lắp sử dụng
phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công trình hoặc
theo đơn đặt hàng và sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng
tồn kho.


16

Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh
thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn vật tư trên sổ kế toán.

1.3.3 Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
1.3.3.1.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên vật liệu
cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định một cách tách biệt
rõ ràng cụ thể cho từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí
về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu
luân chuyển tham gia cấu thành nên thực thể sản phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật
liệu được tính theo giá thực tế khi xuất dùng bao gồm cả chi phí thu mua, vận
chuyển từ nơi mua về nơi nhập kho hoặc xuất thẳng đến chân công trình.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá vốn hàng
bán, thường từ 60-70%. Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào
thì phải được tính trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó dựa trên cơ sở
chứng từ gốc theo giá thực tế của vật liệu và số lượng thực tế vật liệu đã sử dụng.
Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến hành kiểm kê số vật liệu
còn lại tại công trình để giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho từng hạng mục công
trình, công trình. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng
tập hợp chi phí, không thể tổ chức kế toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp
phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng liên quan. Tiêu thức phân bổ thường
được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao theo hệ số, trọng lượng, số lượng

sản phẩm...
Công thức phân bổ như sau:


17

(1.5)
*Chứng từ sử dụng:
- Hoá đơn bán hàng, hóa đơn giá trị gia tăng
- Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho.
- Giấy đề nghị tạm ứng, phiếu chi.
- Hợp đồng mua bán....
Vật liệu mua về có thể nhập kho hoặc có thể xuất thẳng cho công trình.
Trường hợp các đơn vị thi công tự đi mua vật tư thì chứng từ gốc là hoá đơn kiêm
phiếu xuất kho của người bán. Phiếu xuất kho và chứng từ liên quan như hoá đơn
vận chuyển tạo thành bộ chứng từ được chuyển về phòng kế toán làm số liệu hạch
toán. Dựa trên hợp đồng, hóa đơn sẽ làm giấy đề nghị tạm ứng tiền chi trả cho nhà
cung cấp.
*TK sử dụng: Tài khoản 621 dùng để tập hợp chi phí nguyên vật liệu dùng
cho sản xuất phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kết cấu TK 621 như sau:
Bên Nợ: Trị giá gốc thực tế của nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho sản
xuất sản phẩm xây lắp.
Bên Có: Trị giá nguyên liệu vật liệu sử dụng không hết nhập kho, Kết
chuyển chi phí NVL vào TK 154- Chi phí SXKD dở dang
TK 621 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng
công trình, hạng mục công trình.
* Phương pháp kế toán được khái quát qua Sơ đồ hạch toán nguyên vật liệu
trực tiếp (Phụ lục 1.01).


1.3.3.2.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho người lao
động trực tiếp tham gia công tác thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình.
Chi phí nhân công trực tiếp thuộc hoạt động sản xuất xây lắp bao gồm các khoản
phải trả cho người lao động thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp và các khoản
phải trả cho lao động thuê ngoài theo từng loại công việc. Chi phí nhân công trực


18

tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá vốn hàng bán, từ 15-20%.Chi phí nhân công
trực tiếp được trả lương theo các hình thức sau: trả lương theo thời gian, trả lương theo sản
phẩm, trả lương theo khối lượng công việc.
Chi phí nhân công trực tiếp nếu tính theo từng loại công việc hoặc tiền lương
trả theo thời gian nhưng có liên hệ trực tiếp với từng loại đối tượng tập hợp chi phí
cụ thể thì dùng phương pháp tập hợp trực tiếp. Đối với chi phí nhân công trực tiếp
sản xuất trả theo thời gian có liên quan tới nhiều đối tượng và không hạch toán trực
tiếp được và các khoản tiền lương phụ của công nhân sản xuất xây lắp thì phải dùng
phương pháp phân bổ gián tiếp. Tiêu chuẩn được dùng để phân bổ hợp lý là phân bổ
theo giờ công định mức hoặc theo tiền lương định mức, hay phân bổ theo giờ công
thực tế.
*Chứng từ sử dụng:
- Bảng chấm công hoặc theo dõi công tác của các tổ
- Phiếu làm thêm giờ
- Hợp đồng giao khoán
- Bảng tính lương
- Bảng thanh toán lương và BHXH cho người lao động
*Tài khoản sử dụng: TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản
phẩm xây lắp bao gồm tiền lương, tiền thuê lao động, không có các khoản trích trên

lương về BHXH, BHYT, KPCĐ.
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên nợ TK 154- Chi phí
SXKD dở dang.
TK 622 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng
công trình, hạng mục công trình.
*Phương pháp kế toán được thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí nhân công
trực tiếp (Phụ lục 1.02).

1.3.3.3.Hạch toán chi phí máy thi công


19

Chi phí sử dụng máy thi công phản ánh các chi phí liên quan trực tiếp đến
việc sử dụng máy thi công (Vật liệu, nhân công, khấu hao máy) nhằm thực hiện
khối lượng công tác xây lắp bằng máy, chiếm từ 5-10% giá vốn hàng bán.
Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng
máy thi công: doanh nghiệp thuê ngoài máy thi công hoặc doanh nghiệp sử dụng
máy thi công trong trường hợp các doanh nghiệp có tổ chức đội máy thi công riêng.
*Chứng từ sử dụng:
- Phiếu theo dõi hoạt động xe máy thi công.
- Nhật ký theo dõi hoạt động xe máy thi công.
* Tài khoản sử dụng: TK 623: Chi phí sử dụng máy thi công
Bên nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí nghuyên liệu cho
máy thoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương, tiền công của công
nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công)
Bên có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên Nợ TK 154 – Chi
phí sản xuất kinh doanh dở dang.
Tài khoản 623 không có số dư cuối kỳ
TK 623 có 6 TK cấp I

+ TK 6231 – Chi phí nhân công: Dùng để phản ánh lương chính, lương phụ:
phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiếp điều khiển xe, máy thi công, công
nhân phụ vụ máy thi công kể cả khoản tiền ăn giữa ca của các công nhân này. TK
này không phản ánh khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo tỷ lệ trên tiền
lương của công nhân sử dụng xe, máy thi công. Khoản tính trích này được phản ánh
vào TK 627: Chi phí sản xuất chung.
+ TK 6232: Chi phí vật liệu: Dùng để phản ánh chi phí nhiên liệu như xăng,
dầu, mỡ..) vật liệu khác phục vụ xe máy thi công.
+ TK 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất: Dùng để phản ánh công cụ, dụng cụ
lao động liên quan tới hoạt động của xe, máy thi công.
+ TK 6234: Chi phí khấu hao máy thi công: Dùng để phản ánh khấu hao máy
móc thi công sử dụng vào hoạt động xây lắp công trình.


20

+ TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài: Dùng để phản ánh chi phí dịch vụ
mua ngoài như thuê ngoài sửa chữa xe, máy thi công, bảo hiểm xe, máy thi công,
chi phí điện, nước, tiền thuê TSCĐ, chi phí trả cho nhà thầu phụ…
+ TK 6238: Chi phí bằng tiền khác: Dùng để phản ánh các chi phí bằng tiền
phục vụ cho hoạt động của xe, máy thi công, khoản chi cho lao động nữ…
* Phương pháp kế toán được thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng
máy thi công ( Phụ lục 1.03, 1.04).

1.3.3.4. Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng cần phải
tổng hợp rồi cuối kỳ phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức thích hợp.
Chi phí sản xuất chung gồm lương nhân viên trông coi công trình, vật liệu
làm lán trại cho công nhân sinh hoạt, khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả của công

nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và nhân viên quản lý đội
(thuộc biên chế của doanh nghiệp), khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt
động của đội và những chi phí khác có liên quan đến hoạt động của đội.
* Chứng từ sử dụng: là những chứng từ hợp pháp, hợp lệ phục vụ cho sản
xuất chung như hoá đơn bán hàng, bảng kê phải nộp BHXH, BHYT, KPCĐ, tiền
điện, tiền nước dụng riêng cho từng công trình.
* Tài khoản sử dụng: Kế toán sử dụng TK 627: Chi phí sản xuất chung
Bên nợ: Các chi phí sản xuất cung phát sinh trong kỳ
Bên có:
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
- Kết chuyển chi phí sản xuất chung voà bên Nợ TK 154
TK 627 không có số dư cuối kỳ
TK 627 có 6 TK cấp 2
TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng
TK 6272: Chi phí vật liệu
TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất


21

TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ
TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
TK 6278: Chi phí bằng tiền khác
Phương pháp kế toán thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
(Phụ lục 1.05).

1.3.3.5.Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp
Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp bao gồm những chi phí có liên quan trực
tiếp đến từng đối tượng và những chi phí không thể tập hợp trực tiếp theo từng đối
tượng thì phải tính phân bổ các chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức thích

hợp. Trong ngành xây dựng cơ bản thường phân bổ chi phí sử dụng máy thi công và
phân bổ chi phí sản xuất chung.
Phân bổ chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí sử dụng máy thi công được phân bổ cho các đối tượng xây lắp theo
phương pháp thích hợp căn cứ vào số ca máy hoặc khối lượng phục vụ thực tế.
Phân bổ chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng công trường, hoặc đội thi
công hoặc toàn doanh nghiệp và tính phân bổ cho từng công trình, hạng mục công
trình theo phương pháp thích hợp như phân bổ theo chi phí sản xuất chung định
mức, phân bổ theo giờ công sản xuất kinh doanh định mức hoặc thực tế, phân bổ
theo chi phí nhân công, phân bổ theo chi phí trực tiếp (chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp và chi phí nhân công trực tiếp).
Để tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp sử dụng TK 154 - Chi phí sản xuất,
kinh doanh dở dang
Kết cấu của TK 154
Bên nợ: Các chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ liên
quan đến giá thành sản phẩm xây lắp công trình.
Bên có:
-

Giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao.


22

Số dư bên nợ:
-

Chi phí sản xuất kinh doanh còn dở dang cuối kỳ.

Phương pháp kế toán thể hiện qua sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản
xuất xây lắp (Phụ lục 1.06).

1.4. Đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm xây lắp hoàn
thành
1.4.1. Đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quy
trình sản xuất, chế biến, đang nằm trên dây chuyền công nghệ hoặc đã hoàn thành
một vài quy trình chế biến nhưng vẫn phải gia công chế biến tiếp mới trở thành sản
phẩm hoàn chỉnh.
Sản phẩm dở dang của các doanh nghiệp xây lắp có thể là công trình, hạng
mục công trình chưa hoàn thành khối lượng công tác xây lắp trong kỳ và chưa được
chủ đầu tư nghiệm thu chấp nhận thanh toán.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất mà
sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý là yếu
tố quan trọng quyết định tính trung thực, hợp lý của giá thành sản phẩm sản xuất
trong kỳ và từ đó xác định được chính xác lãi ròng của doanh nghiệp cuối kỳ kinh
doanh.
Muốn đánh giá sản phẩm dở dang một cách chính xác cần phải tiến hành
kiểm kê khối lượng nguyên nhiên vật liệu chưa sử dụng đến ở công trường thi công.
Bộ phận kế toán cần kết hợp chặt chẽ với cán bộ kỹ thuật tại công trường thi công
để xác định mức độ hoàn thành của khối lượng xây lắp dở dang.
Việc đánh giá trị sản phẩm dở dang trong sản xuất xây lắp phụ thuộc vào
phương thức thanh toán, bàn giao khối lượng xây lắp giữa bên nhận thầu và bên
giao thầu.
 Các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang mà doanh nghiệp xây lắp

thường áp dụng là:



×