Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và mật độ phân bố của Động vật nổi (Zooplankton) vùng ven biển Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.01 KB, 59 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

1

MỞ ĐẦU
Cần Giờ là một trong 5 huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, nằm
về hướng Đông Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 50km theo đường chim
bay, có hơn 20km bờ biển chạy dài theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, ở đây có
những cửa sông lớn của các con sông Lòng Tàu, Cái Mép, Gò Gia, Thị Vải, Soài
Rạp, Đồng Tranh. Vùng ven biển Cần Giờ nằm cạnh khu dự trữ Sinh quyển
Rừng ngập mặn Cần Giờ kéo dài từ vịnh Gành Rái đến vịnh Đồng Tranh. Bãi
biển ven khu vực này có địa hình thấp, chế độ bán nhật triều không đều. Với tính
đa dạng sinh học cao của vùng Cần Giờ, nên đây là địa điểm lý tưởng phục vụ
cho việc nghiên cứu khoa học.
Động vật nổi hay Động vật phù du (Zooplankton) là những loài động vật
không xương sống có kích thước nhỏ, thuộc nhiều ngành, bộ, họ khác nhau
nhưng đều có đặc điểm chung là sống ở trong tầng nước của thủy vực. Mặc dù có
kích thước nhỏ nhưng chúng là những mắt xích thức ăn quan trọng trong chuỗi
thức ăn ở thủy vực, có vai trò chuyển tiếp từ thực vật nổi sang các động vật khai
thác như tôm, cá...Vì vậy, việc nghiên cứu Động vật nổi sẽ giúp cho việc đánh
giá trữ lượng và khả năng khai thác của vùng nước.
Số lượng loài Động vật nổi khá lớn, góp phần làm tăng sự đa dạng sinh học
trong hệ sinh thái. Thành phần loài và số lượng Động vật nổi trong các thủy vực
cũng thay đổi tùy theo điều kiện của môi trường sống như thời tiết, đặc tính lí
hóa của môi trường nước. Sự biến động số lượng của Động vật nổi có ảnh hưởng
trược tiếp hay gián tiếp tới sự biến động số lượng của đàn cá, sự hình thành ngư
trường và bãi đẻ. Do vậy việc nghiên cứu Động vật nổi là rất cần thiết cho nghề
cá, làm căn cứ khoa học cho việc thăm dò đàn cá, tìm ngư trường và dự báo trữ
lượng cá.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần loài và
mật độ phân bố của Động vật nổi (Zooplankton) vùng ven biển Cần Giờ,


thành phố Hồ Chí Minh” nhằm mục đích đánh giá đa đạng sinh học và làm cơ
sở cho việc chỉ thị chất lượng nước, nuôi trồng khai thác nguồn lợi hải sản ở đây.
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

2

Phần 1.

TỔNG QUAN
1.1. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỘNG VẬT NỔI Ở
VIỆT NAM
Ở Việt Nam, người đầu tiên nghiên cứu về Động vật nổi vùng biển là M.
Rose một chuyên gia người Pháp, năm 1926 ông đã công bố 56 loài Động vật nổi
vùng ven biển Việt Nam trong đó có 46 loài giáp xác Chân chèo. Năm 1956, ông
tiếp tục công bố 119 loài Chân chèo ở vùng biển Nha Trang. Đến năm 1957 công
bố 3 loài Chân chèo mới cho khoa học cũng ở vùng biển Nha Trang [16].
Năm 1936, R. Serene là người đầu tiên nghiên cứu về sự biến động số
lượng theo thời gian của sinh vật nổi ở vùng biển Việt Nam. Ông đã dựa vào kết
quả điều tra của tàu De Lesessan để thống kê và vẽ đồ thị biến động số lượng của
19 nhóm Động vật nổi từ tháng 7/1935 đến tháng 7/1936 ở vùng biển Nha Trang.
Sang năm 1937, ông công bố 47 loài Chân chèo. Năm 1948, dựa vào kết quả thu
mẫu ngày và đêm đã vẽ đồ thị biến động số lượng theo mùa từ năm 1935 - 1938
và đồ thị biến động số lượng theo giờ trong ngày của 20 nhóm Động vật nổi ở
vùng biển Nha Trang [16].
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc

trong thập kỷ 40 và 50 đã hạn chế rất nhiều những nghiên cứu Động vật nổi trên
biển. Cho đến cuối thập kỷ 60, mặc dù trong điều kiện đất nước bị chia cắt làm 2
miền và điều kiện nghiên cứu trên biển rất khó khăn, thiếu thốn nhưng ở miền
Bắc Việt Nam, từ năm 1959 đã tiến hành điều tra tổng hợp rất quy mô ở vịnh Bắc
Bộ. “Chương trình Việt - Trung hợp tác điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ” đã tiến
hành 26 chuyến khảo sát trong những năm 1959 và 1962. Báo cáo khoa học đã
được hoàn thành vào tháng 12 năm 1965 tại Viện Nghiên cứu Hải Dương Học
Thanh Đảo (Trung Quốc). Từ chương trình này, Nguyễn Văn Khôi và Đàm
Quang Hải (1967) đã công bố danh sách 127 loài Chân chèo ở vùng biển miền
Bắc Việt Nam. Năm 1994, Nguyễn Văn Khôi cũng dựa vào kết quả của chương
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

3

trình Việt - Trung này để xuất bản quyển sách Lớp phụ Chân chèo (Copepoda)
vịnh Bắc Bộ, trong đó đã mô tả hình thái của 24 họ, 41 giống và 100 loài Chân
chèo. Sách cũng nêu rõ khóa phân loại tới giống, loài; ngoài ra còn viết về sự
phân bố, sự biến động số lượng và khối lượng của nhóm Chân chèo [7],[16].
Từ 1959 - 1961, chương trình NAGA của Mỹ được coi là công trình nghiên
cứu quy mô nhất ở vùng biển phía Đông và Nam Việt Nam. Tàu “Stranger” của
chương trình NAGA đã tiến hành 10 chuyến khảo sát ở vùng biển ngoài khơi
Minh Hải - Kiên Giang (vùng vịnh Thái Lan). Hàng loạt các báo cáo về Động vật
nổi đã được công bố: Bùi Thị Lạng (1963) đã công bố những kết quả nghiên cứu
về một số loài Chân chèo, mối quan hệ giữa Chân chèo với khối nước và dòng
chảy ở vùng biển miền Nam Việt Nam; Rotman (1965) công bố về động vật

Chân cánh (Pteropoda); Alvarino (1967) về Hàm tơ (Chaetognatha) và Brinton
(1975) về Tôm lân. Theo kết quả nghiên cứu về sinh khối Động vật nổi của
chương trình NAGA cho thấy vùng biển ven bờ phía đông vịnh Thái Lan luôn có
sinh khối lớn từ 200 - 1000 mg trong 1000m3 [16].
Trong thời gian 1960 - 1965 “Chương trình Việt - Xô hợp tác điều tra
nguồn lợi vịnh Bắc Bộ” đã tiến hành 4 chuyến điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ. Từ
đây, Brodsky (1972) đã đưa ra nhận định chung về khu hệ Động vật nổi ở vịnh
Bắc Bộ, sự biến động và phân bố theo mùa của Động vật nổi. Năm 1978, dựa vào
chương trình này, Nguyễn Tiến Cảnh công bố kết quả nghiên cứu về khối lượng
sinh vật nổi ở vịnh Bắc Bộ và sự biến động theo mùa đồng thời đưa ra mô hình
tính toán sự tương quan giữa sinh vật nổi và sản lượng cá trong vịnh [9].
Shirota dựa vào “Chương trình Colombo” năm 1966 đã xuất bản quyển sách
“The Plankton of South Vietnam” có kèm theo hình vẽ của 701 loài sinh vật phù
du nước ngọt và 982 loài sinh vật phù du nước mặn ở vùng ven biển từ Huế trở
vào, nhưng chủ yếu là vùng Nha Trang [44].
Năm 1970 - 1971, Viện Nghiên cứu Biển Hải Phòng tiến hành điều tra tổng
hợp vùng ven biển Hải Phòng - Quảng Ninh, chương trình này tiến hành liên tục
13 chuyến khảo sát. Dựa vào kết quả điều tra này, Trương Ngọc An và Hàn Ngọc
Lương (1978) đã hoàn thành báo cáo về Động vật nổi [9].
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

4

Cũng trong thời gian 1970 - 1971, Viện Nghiên cứu biển Hải Phòng đã tiến
hành 26 chuyến thu mẫu Động vật nổi tại 3 cửa sông Hồng, sông Ninh Cơ và

sông Đáy tỉnh Nam Định. Dựa vào cuộc điều tra này, năm 1980 Nguyễn Văn
Khôi và Dương Thị Thơm đã công bố 104 loài Động vật nổi, trong đó nhiều nhất
là Chân chèo (Copepoda) với 50 loài. Ngoài ra còn có 14 nhóm khác là
Cystoflagellata 1 loài, Hydromaedusae 6 loài, Mollusca 3 loài, Cladocera 10 loài,
Conchostraca 1 loài, Ostracoda 2 loài, Mysidacea 1 loài, Cumacea 1 loài,
Amphipoda 14 loài, Sergestidae 3 loài, Cheatognata 6 loài, Tunicata 3 loài,
Isopoda 2 loài, Polychaeta 1 loài. Trong công bố này cũng đã nêu lên cấu trúc về
thành phần loài và sự biến động số lượng Chân chèo ở vùng nghiên cứu. Đồng
thời bổ sung thêm 10 loài Động vật nổi mới cho Việt Nam [6].
Sau ngày miền Nam giải phóng (1975) nhiều chương trình điều tra tổng hợp
vùng biển miền Nam Việt Nam được tiến hành. Trong đó chương trình “Điều tra
tổng hợp vùng biển ven bờ Thuận Hải - Minh Hải” (1977 - 1980) được coi là quy
mô nhất với 15 chuyến khảo sát tại vùng biển từ Quy Nhơn đến Kiên Giang.
Nguyễn Văn Khôi, Trương Ngọc An và Nguyễn Tiến Cảnh đảm nhận mảng điều
tra sinh vật nổi, kết quả đã báo cáo được 212 loài Động vật nổi gồm: Chân chèo
chiếm ưu thế với 128 loài, Hàm tơ (Chaetognatha) có 13 loài, Tôm lân
(Euphausiacea) 13 loài, Chân cánh (Pteropoda) và Chân khác (Heteropoda) 13
loài, Có bao (Tunicata) 13 loài, Tôm quỷ (Lucifer) 4 loài, Râu ngành (Cladocera)
4 loài. Sinh vật lượng ven bờ Thuận Hải - Minh Hải là khá thấp, trung bình có
30mg/m3. Trong báo cáo của chương trình này cũng trình bày về sự phân bố mặt
rộng và biến động số lượng theo mùa của các nhóm Động vật nổi [8].
Giai đoạn 1981 - 1983, nhiều chương trình nghiên cứu biển trên các tàu
nghiên cứu của Liên Xô như tàu “Giáo sư Bogorov” (1981), “Viện sĩ
Nesmeyanov” (1982), “Viện sĩ Vinograsdov” (1983) đã thu thập mẫu sinh vật nổi
tại vùng biển miền Nam Việt Nam, kết quả là ngoài những loài Động vật nổi
thường gặp còn thu được một số loài Chân chèo sống ở biển sâu trên 500m [16].
Từ năm 1981 - 1985, Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Văn Khôi cùng nhóm
nghiên cứu khi thực hiện đề tài “Sinh vật nổi vùng biển Việt Nam” thuộc chương
Trần Vĩnh Hoàng


Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

5

trình “Nghiên cứu Biển 48.06” đã xác định được ở vùng biển Việt Nam có 294
loài Động vật nổi (không kể Động vật Nguyên sinh). Đề tài này đã bổ sung cho
danh lục Động vật nổi ở biển Việt Nam 22 loài mới, đồng thời đề tài cũng đã xác
định được sinh vật lượng trung bình ở biển Việt Nam là 50mg/m 3, sinh vật lượng
này là khá thấp [28].
Chương trình nghiên cứu vùng nước trồi mạnh Nam Trung Bộ (1992 -1994)
cũng là một chương trình nghiên cứu biển có quy mô và khá toàn diện. Từ kết
quả 4 chuyến khảo sát vùng nước trồi mạnh ở Nam Trung Bộ, Nguyễn Cho và
Trương Sĩ Hải Trình thuộc Viện Hải dương học Nha Trang đã phân tích được 415
loài Động vật nổi; trong đó nhóm Copepoda chiếm ưu thế về số loài với 202 loài.
Sinh vật lượng ở vùng này cũng được xác định trong khoảng 361 - 459 cá thể/m
3

. Đề tài này cũng đã bổ sung thêm 15 loài mới cho khu hệ Động vật nổi ở vùng

biển Việt Nam [4].
Năm 1994 “Chương trình Điều tra tổng hợp vùng biển Minh Hải - Kiên
Giang” (vùng Vịnh Thái Lan) đã thu thập mẫu vật tại 90 trạm, Nguyễn Văn Khôi
(1997) đã công bố về sự phân bố mật độ và danh sách 91 loài Chân chèo tại vùng
biển nghiên cứu. Đến năm 1997 “Chương trình Việt - Thái hợp tác điều tra
nguồn lợi vùng chồng lấn ở vịnh Thái Lan” đã bổ sung thêm một số loài Chân
chèo ở vịnh Thái Lan có độ sâu 65 - 70 m [11], [16].
Trong thời gian 1996 - 1997, khi thực hiện đề tài “Đánh giá tiềm năng sinh

học và hiện trạng nguồn lợi thủy sản đầm Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế)”
Nguyễn Văn Khôi đã xác định được 38 loài Động vật nổi ở đầm Lăng Cô thuộc 6
nhóm là Động vật Nguyên sinh (Protozoa), Thủy mẫu (Medusae), Râu ngành
(Cladocera), Chân chèo (Copepoda), Chaetognatha (Hàm tơ) và Có bao
(Tunicata). Trong đó Chân chèo chiếm ưu thế với 28 loài. Mật độ Động vật nổi ở
đây là 324con/m3. Nhìn chung thì thành phần loài ở đầm Lăng Cô là khá nghèo
nàn và có mật độ thấp [13].
Từ khảo sát của Chương trình nghiên cứu nguồn lợi vùng biển xa bờ (1996
- 1998), Nguyễn Dương Thạo đã có báo cáo về sinh vật nổi vùng biển miền Nam
Việt Nam trong tháng 5 và 6 năm 1997 với 210 loài Động vật nổi, mật độ trung
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

6

bình là 85mg/m3. Đề tài này có nghiên cứu ảnh hưởng của dòng nước trồi đến sự
phát triển và phân bố của Động vật nổi [35].
Từ năm 1999 - 2001, chương trình nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển vùng
biển quần đảo Trường Sa được thực hiện, đây là một chương trình lớn nghiên
cứu một cách toàn diện về nhiều mặt. Về nhóm sinh vật nổi Nguyễn Tiến Cảnh,
Nguyễn Văn Khôi và Vũ Minh Hạo đã tiến hành khảo sát tại 24 điểm ở vùng
biển quần đảo Trường Sa. Kết quả đã công bố được danh sách 299 loài Động vật
nổi ở đây, nhóm Copepoda vẫn là nhóm chiếm số loài lớn nhất với 161 loài.
Nghiên cứu này đã phát hiện 8 giống, 20 loài Động vật nổi mới đối với Việt
Nam. Đề tài này cũng đã nghiên cứu về số lượng, khối lượng và một số chỉ số đa
dạng của Động vật nổi [1].

Trong mùa mưa 1999 và mùa khô 2000, Phạm Văn Miên và các cộng sự
tiến hành nghiên cứu khu hệ thủy sinh vật hệ thống sông Đồng Nai đã xác định
có 114 loài Động vật nổi [21].
Từ năm 2000 - 2001, Nguyễn Văn Khôi khi nghiên cứu về thành phần loài,
sinh vật lượng và tính đa dạng sinh học của thủy sinh vật vùng cửa sông và kênh
rạch ven biển U Minh đã xác định được 69 loài thuộc 5 nhóm là Protozoa (1
loài), Cladocera (19 loài), Copepoda (43 loài), Decapoda (3 loài), Chaetognatha
(4 loài). Mật độ Động vật nổi trung bình là 1490con/m3, khối lượng trung bình
129,5 mg/m3. Đề tài này đã tìm thấy thêm được 13 loài Động vật nổi chưa có
trong danh mục loài ở Việt Nam. Đề tài cũng đã nghiên cứu được sinh vật lượng
của vùng này là 1490 con/m3 [17].
Năm 2001, Võ Văn Phú, Nguyễn Văn Hợp, Nguyễn Mộng và Nguyễn
Đắc Tạo nghiên cứu biến động độ mặn và thành phần loài sinh vật ở khu hệ đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai sau trận lũ lịch sử năm 1999, kết quả đã xác định được
34 loài Động vật nổi. Trong đó, giáp xác Chân chèo (Copepoda) chiếm ưu thế với
28 loài, giáp xác Râu ngành (Cladocera) có 5 loài và Trùng bánh xe (Rotatoria) 1
loài [26].
Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia năm 2001, đã xuất
bản quyển Động vật chí Tập 5 về Giáp xác nước ngọt của Đặng Ngọc Thanh, Hồ
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

7

Thanh Hải. Trong đó hai tác giả đã đề cập tới một số nhóm Động vật nổi như
Giáp xác Râu ngành (Cladocera), Giáp xác Chân chèo (Copepoda). Cùng năm

này, quyển Động vật chí Tập 9 về về Phân lớp Chân chèo ở biển cũng được ra
mắt, trong sách tác giả Nguyễn Văn Khôi đã mô tả 207 loài. Đây là 2 quyển sách
rất có giá trị với đầy đủ các thông tin về hình vẽ, mô tả, sinh học sinh thái, phân
bố của loài [16], [32].
Năm 2003, qua 12 chuyến khảo sát nghiên cứu Động vật nổi ở vịnh Nha
Trang tỉnh Khánh Hòa, Nguyễn Cho đã xác định được 192 loài, trong đó Chân
chèo chiếm ưu thế với 116 loài. Ngoài ra còn có 12 nhóm Động vật nổi khác với
số loài ít. Đề tài này cũng đã xác định được sinh vật lượng trung bình khoảng 82
mg/m3. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu về sự biến động sinh vật lượng theo mùa
và sự phân bố mặt rộng của Động vật nổi trong vịnh Nha Trang [3].
Năm 2005, Nguyễn Dương Thạo và Nguyễn Hoàng Minh khi tiến hành
nghiên cứu Động vật nổi vùng khơi biển Đông Nam Bộ đã xác định có hơn 300
loài, trong đó có 195 loài là thức ăn cho cá, đồng thời phát hiện thêm 2 loài mới
cho khu hệ Động vật nổi Việt Nam là Haloptilus mucronatus Claus và Doliolum
mulleri Krohn [36].
Năm 2007, Nguyễn Văn Khôi đã công bố danh sách và sự phân bố của 51
loài Chân bụng (Gastropoda) sống phù du ở vùng biển Việt Nam. Đây là kết quả
được tích lũy qua các mẫu vật thu thập từ năm 1959 đến năm 2005. Trong báo
cáo này tác giả cũng đã mô tả đặc điểm định loại, phân bố và hình vẽ minh họa
của 33 loài thường gặp. Báo cáo này là một tài liệu phân loại có giá trị [19].
Trong báo cáo nghiên cứu quan trắc khu hệ Thủy sinh vật và chất lượng
nước sinh học sông Thị Vải năm 2008, Đỗ Thị Bích Lộc và nhóm nhiên cứu đã
ghi nhận được 27 loài Động vật nổi thuộc 8 nhóm Protozoa (Nguyên sinh động
vật), Rotatoria (Luân trùng), Cladocera (giáp xác Râu ngành), Copepoda (giáp
xác Chân chèo), Ostracoda (giáp xác Có vỏ), Chordata (động vật Dây sống),
Hydrozoa (Sứa) và một số dạng ấu trùng (Larva). Trong đó nhóm Giáp xác Chân
chèo (Copepoda) có số lượng loài cao nhất với 9 loài. Đề tài này cũng đã nghiên

Trần Vĩnh Hoàng


Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

8

cứu biến động cấu trúc thành phần loài Động vật nổi và xác định được các loài
ưu thế ở khu vực nghiên cứu [23].
Lương Văn Thanh (2008), trong báo cáo một số kết quả nghiên cứu về
thủy sinh vùng cửa sông ven Biển Tây thuộc bán đảo Cà Mau phục vụ yêu cầu
phát triển thủy sản đã xác định được 69 loài Động vật nổi, kết quả này không kể
Động vật Nguyên sinh (Protozoa), Thủy mẫu (Medusae), Trùng bánh xe
(Rotifera) và côn trùng. Báo cáo cũng chỉ ra sự biến động số lượng loài Động vật
nổi giữa mùa mưa và mùa khô và đã tính được mật độ trung bình của Động vật
nổi ở vùng này là 1.490 con/m3, khối lượng trung bình là 129,5 mg/m3 [34].
Cũng trong năm 2008, Mai Viết Văn, Trần Đắc Định, Nguyễn Anh Tuấn đã
nghiên cứu về thành phần loài và mật độ sinh vật nổi phân bố vùng ven biển từ
Sóc Trăng đến Bạc Liêu. Kết quả xác định được 246 loài, trong đó nhóm Giáp
xác Chân chèo (Copepoda) có số loài phong phú nhất 105 loài, Nguyên sinh
động vật (Protozoa) 60 loài; Trùng bánh xe (Rotatoria) 31 loài; Giáp xác Râu
ngành (Cladocera) có 24 loài. Đề tài nghiên cứu được mật độ của Động vật nổi ở
vùng nghiên cứu là 654 cá thể/m3 và nhóm Copepoda đóng vai trò quyết định
mức độ biến động số lượng Động vật nổi trong vùng nghiên cứu [41].
Từ năm 2008 - 2009, Võ Văn Phú, Hoàng Đình Trung, khi thực hiện đề tài
khảo sát sự biến động về thành phần loài Động vật nổi (Zooplankton) ở đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xác định được 43 loài, thuộc 24
giống của 18 họ và 3 bộ là Chân chèo (Copepoda), Râu ngành (Cladocera) và
trùng Bánh xe (Rotatoria). Đề tài đã khảo sát sự biến động về mật độ Động vật
nổi và cho thấy có sự biến động khá rõ theo mùa: Mùa khô có mật độ cao hơn

hẳn mùa mưa, nhưng vào mùa mưa thì số loài lại tăng lên [27].
Dự án Đánh giá sức khỏe sinh thái ở hạ lưu sông Mekong (2010), Đỗ Thị
Bích Lộc, Phan Doãn Đăng cùng nhóm nghiên cứu khi thực hiện đã tiến hành thu
mẫu ở 8 điểm và xác định được nhóm Động vật nổi có 49 loài [43].
Gần đây nhất năm 2012, Đỗ Thị Bích Lộc và nhóm cộng sự khi thực hiện
chương trình quan trắc thủy sinh vật ở khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ
đã thực hiện khảo sát tại 6 tỉnh miền Đông và 7 tỉnh miền Tây, trong đó có khảo
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

9

sát ở khu vực một số cửa sông ven biển. Kết quả đã xác định được nhóm Động
vật nổi ở khu vực miền Tây Nam Bộ có 137 loài, còn ở miền Đông Nam Bộ có
178 loài; thuộc các nhóm Động vật Nguyên sinh, Trùng bánh xe, Giáp xác Râu
ngành, Giáp xác Có vỏ, Giáp xác Chân chèo, Giáp xác Bơi nghiêng, Chân chẻ,
Mười chân, Hàm tơ, Có bao và một số dạng ấu trùng [24].

1.2. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỘNG VẬT NỔI Ở
HUYỆN CẦN GIỜ - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Từ năm 1994 - 1996, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II khi thực hiện
đề tài Động vật nổi vùng cửa sông và ven biển Tiền Giang - Cần Giờ, đã tiến
hành thu mẫu ở 3 điểm thuộc vùng biển Cần Giờ. Kết quả đã xác định được tại
khu vực 3 điểm này vào mùa khô có 68 loài Động vật nổi, bao gồm các nhóm
Giáp xác Râu ngành (Cladocera), Giáp xác Có vỏ (Ostracoda), Giáp xác Chân
chèo (Copepoda), Giáp xác Bơi nghiêng (Amphipoda), Mysidacea (Chân chẻ),

Tôm quỷ (Luciferinae), Chân cánh và Chân khác (Pteropoda & Heteropoda),
Hàm tơ (Chaetognatha), Có bao (Tunicata) và ấu trùng (Larva); trong đó nhóm
Chân chèo (Copepoda) có số lượng loài nhiều nhất với 42 loài. Sinh vật lượng
trung bình của vùng này là 79,6 mg/m 3. Tuy nhiên đề tài này chỉ thu mẫu ở độ
sâu trên 5m nước [10].
Kết quả nghiên cứu nguồn thức ăn tự nhiên tại một số ao nuôi cá huyện Cần
Giờ của Nguyễn Văn Khôi (1998) đã xác định được về nhóm Động vật nổi có 26
loài trong đó Trùng bánh xe (Rotatoria) 1 loài, Thân mềm (Mollusca) 3 loài, Râu
ngành (Cladocera) 5 loài, Chân chèo (Copepoda) có 17 loài. Đề tài cũng đã xác
định được mật độ trung bình Động vật nổi ở đây là 3.213 con/m 3, theo đó đã kết
luận mật độ này là khá thấp. Tuy nhiên đề tài này chủ yếu thực hiện ở các ao nuôi
cá nằm trong vùng nội đồng chứ không phải ven biển [12].
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển An toàn Môi trường Dầu khí thuộc
Viện Dầu khí Việt Nam khi thực hiện chương trình “Xây dựng bản đồ nhạy cảm
môi trường tỷ lệ 1: 50.000 cho các các tỉnh ven biển từ Đà nẵng đến Cà Mau và
biên giới Campuchia làm cơ sở khoa học cho việc ứng phó tràn dầu từ các hoạt

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

10

động dầu khí (1998 – 2010)” có thực hiện nghiên cứu ở vùng biển Cần Giờ tại 3
điểm. Đây là một đề tài rất quy mô, kết quả đã xác định được thành phần loài
Động vật nổi ở khu vực 3 điểm này vào mùa khô có 89 loài, thuộc các nhóm
Trùng bánh xe, Giun nhiều tơ, Râu ngành, Giáp xác Có vỏ, Chân chèo, Chân

cánh và Chân khác, Chân chẻ, Hàm tơ, Có bao và một số dạng ấu trùng; trong đó
nhóm Chân chèo có số loài nhiều nhất với 52 loài. Tuy nhiên giới hạn thu mẫu tại
3 điểm ở vùng biển Cần Giờ của đề tài này là có độ sâu 5m nước trở lên [39].
Năm 2007, Trần Thị Diễm Thúy thuộc đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, đã thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài “Nghiên cứu sử dụng phiêu sinh
động vật làm chỉ thị để đánh giá chất lượng môi trường nước mặt vùng cửa sông
ven biển huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh” kết quả thu được 122 loài
thuộc các nhóm Maedusa, Polychaeta, Heteropoda & Pteropoda, Chaetognatha,
Copepoda, Cladocera, Ostracoda, Mysidacea, Tunicata và Amphipoda. Đề tài
này nghiên cứu ở 15 điểm thuộc vùng Cần Giờ nhưng chỉ có 3 điểm ở vùng ven
biển, các điểm còn lại nằm trong các sông và vùng nội đồng [37].
Năm 2012, trong chương trình quan trắc môi trường nước biển ven bờ
huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh vào hai mùa mưa và mùa khô của năm
2012, Đỗ Thị Bích Lộc, Nguyễn Văn Khôi cùng nhóm cộng sự đã ghi nhận được
102 loài Động vật nổi và 15 dạng ấu trùng thuộc 17 nhóm, trong đó: có số loài
nhiều nhất là Giáp xác Chân chèo (Copepoda) với 67 loài; xếp thứ hai là Động
vật Nguyên sinh (Protozoa) với 7 loài; tiếp theo là ba nhóm Giáp xác Có vỏ
(Ostracoda), Giáp xác Bơi nghiêng (Amphipoda), Hàm tơ (Chaetognatha) mỗi
nhóm có 4 loài; hai nhóm Giun nhiều tơ (Polychaeta) và Râu ngành (Cladocera)
mỗi nhóm có 3 loài; ba nhóm Tôm quỷ (Luciferinae), Tôm sen (Cumacea) và
Tôm cám (Mysidacea) mỗi nhóm có 2 loài; các nhóm còn lại Sứa (Hydrozoa),
Giun tròn (Nematodo), Chân đều (Isopoda), Thân mềm (Mollusca), Có bao
(Tunicata) và Cá bột mỗi nhóm có 1 loài. Mật độ Động vật nổi vùng này biến đổi
khá phức tạp mùa mưa cao hơn so với mùa khô. Đề tài cũng nghiên cứu về các
loài ưu thế ở khu vực này [25].

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33



Khóa luận tốt nghiệp

11

Phần 2.

ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là nhóm Động vật nổi (Zooplankton) ở vùng ven biển
Cần Giờ, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. ĐỊA ĐIỂM
Nghiên cứu được tiến hành theo các điểm tại vùng ven biển Cần Giờ, huyện
Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. Các điểm thu mẫu có độ sâu mực nước ≤ 2m,
vị trí các điểm được thể hiện ở bảng 2.1. và hình 2.1.
Bảng 2.1. Các điểm thu mẫu Động vật nổi vùng ven biển Cần Giờ
Stt

Điểm thu mẫu

Kí hiệu

1

Cửa sông Đồng Tranh (xã Lý Nhơn)

M1


2

Cửa sông Lòng Tàu (xã Thạch An)

M2

3

Cửa sông Cái Mép (xã Thạch An)

M3

4

Bãi triều Cần Thạnh (thị trấn Cần Thạnh)

M4

5

Bãi triều 30/4 (xã Long Hòa)

M5

6

Bãi triều Đồng Hòa (xã Long Hòa)

M6


7

Công viên Cần Thạnh (thị trấn Cần Thạnh)

M7

8

Khu du lịch 30/4 (xã Long Hòa)

M8

9

Khu du lịch Hòn Ngọc Phương Nam (xã Long Hòa)

M9

Các điểm bãi triều Cần Thạnh, bãi triều 30/4, bãi triều Đồng Hòa thu mẫu
vào lúc nước ròng (triều xuống).
Các điểm công viên Cần Thạnh, khu du lịch 30/4 và khu du lịch Hòn Ngọc
Phương Nam thu mẫu vào lúc nước lớn (triều lên).

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp


12

Hình 2.1. Sơ đồ vị trí các điểm thu mẫu Động vật nổi ở ven biển Cần Giờ

2.3. THỜI GIAN
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1/2013 đến tháng 5/2013.
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

13

Chúng tôi tiến hành thu mẫu thực địa từ tháng 1/2013 đến tháng 4/2013.
Mỗi tháng tiến hành thu mẫu một lần tại 9 điểm vào đầu mỗi tháng, sau đó đưa
về phòng thí nghiệm để tiến hành phân tích.

2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu thực địa
2.4.1.1 Phân chia các điểm theo địa bàn nghiên cứu
- Việc phân chia các điểm nghiên cứu dựa vào bản đồ địa hình, bản đồ hiện
trạng của vùng ven biển Cần Giờ, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định các điểm nghiên cứu đại diện đầy đủ các đặc trưng cho khu vực
nghiên cứu.
2.4.1.2 Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa
- Thu mẫu định tính: Sử dụng lưới hình chóp, đường kính miệng lưới 30cm,
thân lưới từ miệng tới đáy dài 1,2m; vải lưới No.25 (lỗ lưới có kích thước cạnh là
120µm). Lưới được kéo nằm ngang ở tầng mặt với tốc độ 0,5 m/giây để thu mẫu

Động vật nổi (Zooplankton) ở mỗi điểm. Mẫu vật thu được, cho vào lọ nhựa nhỏ
có dung tích 200ml và định hình ngay bằng formol sao cho đạt được nồng độ
cuối cùng trong lọ khoảng 4 - 5% formol.
- Thu mẫu định lượng: Dùng xô lấy 60 lít nước lọc qua lưới hình chóp,
đường kính miệng lưới 30cm, vải lưới No.25 (lỗ lưới có kích thước cạnh là
120µm), phần nước còn lại trong lưới (khoảng 20ml) cho vào lọ rồi dùng formol
cố định mẫu như đối với mẫu định tính.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
- Phân tích mẫu định tính: Phân tích, định loại tên khoa học bằng phương
pháp so sánh hình thái. Theo khóa phân loại lưỡng phân và mô tả của Nguyễn
Văn Khôi (1994, 2001, 2007); Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải (1980, 2001);
Shirota (1966);...Trình tự các ngành, lớp, bộ, họ, giống, loài được sắp xếp theo hệ
thống phân loại của Nguyễn Văn Khôi (2001).
+ Sau đó có sự thẩm định của chuyên gia về mẫu vật đã phân tích.

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

14

- Phân tích định lượng Động vật nổi (Zooplankton) (Nguyễn Văn Khôi,
1994): đối với Động vật nổi ở biển, mẫu định lượng thu về được lọc qua lưới có
kích thước lỗ lưới 25µm để thu toàn bộ Động vật nổi có trong mẫu, sau đó
chuyển toàn bộ mẫu này lên đĩa đếm Bogorov. Quan sát mẫu dưới kính hiển vi
soi nổi và kính hiển vi để đếm toàn bộ số lượng Động vật nổi có trong mẫu. Cách
đếm là di chuyển đĩa đếm dọc theo đường rãnh từ đầu đến cuối để đếm.

Số lượng Động vật nổi được tính theo công thức :
C x 1000
N0 =

V

N0: số lượng Zooplankton (con/m3).
C : tổng số cá thể Động vật nổi đếm được (con)
V : thể tích mẫu nước trong một đơn vị thu mẫu (60 lít)
Các mẫu định tính và định lượng sau khi phân tích được đưa trở lại vào
các lọ đựng ban đầu để bảo quản và lưu trữ.

Hình 2.2. Lưới thu mẫu Động

Hình 2.3. Đĩa đếm Bogorov

vật nổi

2.4.3 Phương pháp phân tích, tổng hợp, xây dựng các số liệu tổng hợp và
đánh giá theo nội dung yêu cầu
Số liệu được nhập và phân tích bằng chương trình Excel và PRIMER V6.
Các chỉ số được sử dụng để phân tích:

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp


15

- Chỉ số đa dạng (Shannon - Wienner, 1949):
n

H ' = −∑
i =1

ni
ni
log2
N
N

- Chỉ số đa dạng lớn nhất (Shannon - Wienner, 1963):
H’max =

log2 S

- Chỉ số điều hòa (Pielow, 1985):

J=
-

H'
H'
=
log 2 S H max

Giá trị tính đa dạng (Trần Thanh Triều, 1994):

Dv = H’ x J
Trong đó: H’: là chỉ số đa dạng Shannon - Wienner; J là chỉ số điều hòa
ni : tổng số lượng của các loài thứ i
N : tổng số lượng cá thể tại một điểm nghiên cứu
S : tổng số loài tại một điểm nghiên cứu

-

Chỉ số ưu thế (Berger và Parker, 1970):

D = N max
N

X 100

Trong đó: Nmax : là tổng số cá thể của loài có số lượng cao nhất
N

: là tổng số cá thể tại điểm nghiên cứu

- Chỉ số tương đồng Sorencen (1948):
S=
Trong đó:

2C
A+ B

C: là số loài có mặt ở cả hai khu vực A và B
A: là số loài có mặt ở khu vực A
B: là số loài có mặt ở khu vực B


Giá trị tương đồng S dao động từ 0 đến 1. Giá trị S > 0,5 biểu thị mức độ
tương đồng cao, nghĩa là giá trị này càng gần 1 thì thành phần loài ở khu vực A
và B càng giống nhau, giá trị này càng gần 0 thì thành phần loài ở hai khu vực A
và B càng khác nhau.

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

16

Phần 3.

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
3.1.1. Vị trí địa lý
Cần Giờ là huyện biển duy nhất của thành phố Hồ Chí Minh, nằm ở phía
đông nam, cách trung tâm thành phố khoảng 50km đường bộ, có toạ độ địa lý
nằm trong 10022’14’’ – 10049’09’’ vĩ bắc và 106046’12’’ – 107000’59’’ kinh đông.
Huyện Cần Giờ trải dài từ bắc xuống nam 35km, từ đông sang tây 30km.
Phía Bắc ngăn cách với huyện Nhà Bè bởi sông Soài Rạp.
Phía Nam giáp biển Đông.
Phía Tây ngăn cách với huyện Cần Giuộc và huyện Cần Đước của tỉnh
Long An, huyện Gò Công Đông của tỉnh Tiền Giang, ranh giới là sông Soài Rạp.
Phía Đông Bắc ngăn cách với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai bởi sông
Lòng Tàu.

Phía Đông Nam tiếp giáp với huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
ranh giới là sông Thị Vải [30].
3.1.2. Đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng
 Địa hình
Huyện Cần Giờ có hình lòng chảo ở khu trung tâm, nếu xét từng khu vực
nhỏ thì địa hình cũng có nhiều biến đổi nhưng độ chênh lệch không lớn lắm, đa
số địa hình cao trung bình 0,0 – 1,5m; trừ núi Giồng Chùa là điểm cao nhất
huyện có độ cao 10,1m ở Tiểu khu 14.
Do lực tương tác sông – biển tạo thành địa hình theo hai xu hướng chính:
- Trên tuyến sông Soài Rạp, do dòng chảy của sông mạnh, sự bồi tích và
lắng đọng chiếm ưu thế tại cửa sông, điểm tương tác của sông và biển. Hậu quả
tất yếu là nền đáy lòng sông cạn dần ở khu vực Lâm Viên Cần Giờ (xã Long
Hoà). Theo thời gian, hình dạng di chuyển dần về hướng Đông từ phía sông Soài

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

17

Rạp, cũng như quá trình bồi lắng đang tạo ra các vùng đất cao và dần dần nâng
cao lòng sông về hướng Tây.
- Trên tuyến sông Lòng Tàu – Gò Gia – Thị Vải hiện tượng xói lở xảy ra do
lực tương tác từ biển mạnh hơn, vì thế dần dần thấy tổng quát là hình dạng dịch
chuyển theo hướng Tây Bắc ở hệ thống sông này [5].
 Thổ nhưỡng
Huyện Cần Giờ phát triển trên một đầm mặn mới, do phù sa của hệ thống

sông Sài Gòn – Đồng Nai mang đến và lắng đọng tạo thành nền đất. Sự phát triển
của một khu rừng ngập mặn như thế tùy thuộc vào lượng mưa nhiều và mật độ
sông rạch dày đặc đan xen nhau trong khu vực, cung cấp một lượng lớn và phong
phú phù sa vào vùng cửa sông ven biển. Đất hình thành tại Cần Giờ được tạo ra
bởi tổng hợp các quá trình lắng tụ trầm tích sét, quá trình phèn hoá và quá trình
nhiễm mặn [30].
3.1.3. Đặc điểm khí hậu
Khí hậu huyện Cần Giờ mang đặc tính nóng ẩm và chịu chi phối của quy
luật gió mùa cận xích đạo với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11
và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau [30].
 Số giờ nắng - chiếu sáng
Huyện Cần Giờ có tổng số giờ chiếu sáng trong năm từ 2630 - 2710 giờ.
Mùa nắng (mùa khô) thì số giờ chiếu sáng đều đạt trên 240giờ/tháng, cao nhất là
tháng 3 với 276,3 giờ. Mùa mưa số giờ chiếu sáng đều đạt trên 170 giờ /tháng,
thấp nhất là tháng 9 với 169 giờ/tháng. Như vậy, số giờ chiếu sáng trung bình ở
huyện Cần Giờ thay đổi trong phạm vi từ 5,7 - 8,7giờ/ngày.
Với số giờ chiếu sáng cao và phân bố đều suốt cả năm như vậy đã cung cấp
một nguồn ánh sáng phong phú, thuận lợi cho quá trình quang hợp của tảo, từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thủy sinh vật nói chung và Động vật
nổi nói riêng [30].
 Nhiệt độ không khí
Chế độ nhiệt cao và khá ổn định. Nhiệt độ trung bình năm không quá 30 oC
và thấp nhất không dưới 27oC. Biên độ nhiệt độ trong ngày từ 50C – 7oC, trong
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp


18

các tháng thường nhỏ hơn 4oC. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất từ tháng 3 đến
tháng 5 và thấp nhất là tháng 12 và tháng 1. Nhiệt độ trung bình năm khoảng
28,5oC đo được ở trạm khí tượng thủy văn Đỗ Hoà [30].
 Lượng mưa
Xét trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, huyện Cần Giờ có lượng mưa thấp
nhất, không ổn định theo thời gian và phân bố không đều theo không gian.
Lượng mưa năm tăng dần theo hướng Đông Nam - Tây Bắc từ 1157mm ở xã Cần
Thạnh đến 1476mm tại xã Tam Thôn Hiệp và 1744mm ở Mũi Nhà Bè (xã Bình
Khánh). Khoảng 90% lượng mưa tập trung vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10. Mùa khô có lượng mưa trung bình khoảng 150mm/tháng [30].
 Gió
Huyện Cần giờ chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có
2 mùa mưa nắng rõ rệt. Gió mùa Đông Nam xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau với tốc độ trung bình 1 - 3m/s. Hướng gió đông nam đã góp phần đưa
nước mặn từ biển vào các sông rạch trong các tháng mùa khô, cũng như tác động
thẳng góc vào mũi Cần Giờ làm vùng này bị xói lở mạnh (nhất là từ tháng 2 đến
tháng 4). Tốc độ gió trong bão >33m/s. Do vùng ven biển Cần Giờ nhô ra phía
biển nên chịu ảnh hưởng mạnh của gió chướng tạo nên những biến đổi dị thường
về chế độ thủy văn [30].
3.1.4. Đặc điểm thủy văn
 Mạng lưới sông rạch
Cần Giờ có mạng lưới sông rạch chằng chịt, đan xen vào nhau. Nguồn nước
ngọt từ sông đổ ra là nơi hợp lưu của sông Sài Gòn và Đồng Nai ra biển bằng hai
tuyến chính là Lòng Tàu và Soài Rạp, bên cạnh đó còn có sông Thị Vải, Gò Gia
và các phụ lưu của nó. Có sự hoà trộn đáng kể giữa nước mặn và nước ngọt tại
hai cửa sông chính hình phễu là vịnh Đồng Tranh và vịnh Gành Rái.
Diện tích mặt nước rất cao, khoảng 22.836ha, chiếm 32% diện tích tự nhiên
của huyện. Mật độ sông ngòi cao từ 7 - 11km/km2. Sông Lòng Tàu là đường giao

thông thủy chính chi phối hầu hết chế độ dòng chảy của các kênh rạch khác, cho
phép tàu biển có trọng tải dưới 20.000 tấn ra vào cảng Sài Gòn [30].
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

19

 Chế độ thủy triều
Hệ thống sông rạch huyện Cần Giờ nằm trong vùng có chế độ bán nhật triều
không đều (hai lần nước lớn và hai lần nước ròng trong ngày). Biên độ triều
khoảng 2,5 m khi triều kém và 4,2 m khi triều cường. Theo quan sát, hai đỉnh
triều thường bằng nhau, nhưng hai chân triều lệch nhau. Theo âm lịch, vào các
ngày 29, 30, 1, 2, 3 và các ngày 14, 15, 16, 17, 18, mỗi ngày có 2 con nước lớn
ngập toàn bộ rừng ngập mặn Gần Giờ khi triều cường. Các ngày có thủy triều
thấp nhất trong tháng là ngày 6, 7, 8, 9 và ngày 23, 24, 25, 26 âm lịch.
Biên độ triều cực đại từ 4,0 – 4,2 m thuộc loại cao nhất của Việt Nam. Biên
độ triều có xu hướng giảm dần từ phía Nam lên Phía Bắc. Thời gian có biên độ
triều lớn nhất thường từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau với biên độ từ 3,6 – 4,1 m ở
vùng phía Nam và từ 2,8 – 3,3 m ở vùng phía bắc của huyện Cần Giờ. Đỉnh triều
cao nhất trong năm thường xuất hiện vào tháng 10 và 11, thấp nhất vào tháng 4
và tháng 5.
Thủy triều đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế thủy văn cũng như cả
hệ sinh thái của huyện Cần Giờ. Thủy triều cùng với đặc điểm địa hình có ảnh
hưởng quan trọng đến độ mặn của vùng nghiên cứu, từ đó tạo nên sự đặc trưng
về thành phần loài Động vật nổi ở vùng nghiên cứu [5].
 Độ mặn

Huyện Cần Giờ nằm trong vùng cửa sông, địa hình thấp, lại chịu tác động
mạnh mẽ của thủy triều lên xuống hằng ngày, các sông kênh rạch đều đóng vai
trò của những “kênh dẫn triều” quanh năm đưa nước mặn ngập sâu bủa khắp cả
địa bàn nên khối nước mặn của huyện này tùy theo mùa sẽ ở trạng thái mặn hay
lợ. Diễn biến ngập mặn phụ thuộc vào sự kết hợp giữa thủy triều biển Đông và
lưu lượng nước ở thượng nguồn sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Vào khoảng
tháng 4, nước biển chiếm ưu thế trong mối tương tác sông – biển, nước mặn xâm
nhập sâu hơn vào trong đất liền, độ mặn của nước trong vùng nội động được
nâng cao lên. Ngược lại, vào thời gian từ tháng 9 đến tháng 10, khi các sông giữ
vai trò ưu thế trong lực tương tác sông – biển, lúc đó nước ngọt từ sông đẩy lùi
nước mặn ra biển làm hạ bớt độ mặn của nước trong khu vực. Độ mặn diễn biến
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

20

theo hình vòng cung hướng Đông Bắc - Tây Nam. Độ mặn trên hệ sông Soài Rạp
thấp hơn hẳn so với hệ sông Lòng Tàu và sông Thị Vải do dòng sông hình thành
khác nhau. Sông Soài Rạp có độ sâu nhỏ hơn so với sông Lòng Tàu nên tác động
từ biển Đông vào sông soài Rạp yếu hơn vào sông Lòng Tàu. Độ mặn được chia
làm 3 vùng:
- Vùng 1: vùng Bắc huyện Cần Giờ, trung bình từ 8 - 13‰.
- Vùng 2: vùng giữa huyện có độ mặn từ 13 - 14‰ thích hợp cho nuôi tôm
sú và tôm thẻ vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau.
- Vùng 3: vùng ven biển có độ mặn từ 24 - 30‰. Độ mặn này ít dao động,
ngoài ra cũng cần chú ý thêm độ mặn ở tại mũi Cần Giờ và mũi Đồng Hòa. Căn

cứ vào số liệu điều tra được từ phòng Nông Nghiệp huyện Cần Giờ thì:
+ Tại mũi Cần Giờ độ mặn quanh năm trên 18‰ biên độ nhỏ và khá ổn
định, trong mùa khô độ mặn thường không khác biệt nhau nhiều, trung bình từ 26
- 29‰. Mùa mưa từ 20 - 25‰.
+ Tại mũi Đồng Hòa: độ mặn của mũi Đồng Hòa thấp hơn mũi Cần Giờ
từ 1 - 3‰ trong mùa khô và từ 4 - 8‰ trong mùa mưa. Sự khác biệt này chủ yếu
do lượng nước ngọt đổ ra theo ngã Soài Rạp nhiều hơn ngã Lòng Tàu [5].
Độ mặn là một yếu tố sinh thái quan trọng quyết định đến thành phần loài
Động vật nổi ở vùng nghiên cứu.
 Đặc tính thủy lí, thủy hóa của nước vùng ven biển Cần Giờ
Theo kết quả quan trắc môi trường của Chi cục Bảo vệ môi trường thành
phố Hồ Chí Minh thì vùng ven biển Cần Giờ hầu hết các chỉ tiêu đều đạt quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về nước mặt ven bờ ở mức cho phép. Nhiệt độ tầng
nước mặt của khu vực này trong khoảng từ 29,5 - 31 oC, nhìn chung thì đây là
khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của thủy sinh vật. pH
cũng là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống của
thủy sinh vật. Độ pH ở vùng này là khá thuận lợi dao động trong khoảng 7,1 7,5. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) đạt từ 4,6 - 5,5mg/l. BOD 5 dao động từ 1,9 4mg/l. Tổng hàm lượng các chất lơ lửng (TSS) từ 80 - 280mg/l. Nitơ và photpho
là một trong những dưỡng chất quan trọng trong sự phát triển của các thuỷ sinh
Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

21

vật. Vùng ven biển Cần Giờ có tổng hàm lượng nitơ từ 0,41 - 1,87mg/l và tổng
hàm lượng photpho từ 0,017 - 0,155mg/l [2].


3.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
Huyện Cần Giờ có 6 xã là An Thới Đông, Bình Khánh, Long Hòa, Lý
Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Thạch An và 1 thị trấn Cần Thạnh. Trung tâm hành chính
huyện đặt tại thị trấn Cần Thạnh.
3.2.1. Dân số và lao động.
Dân số huyện Cần Giờ tính đến cuối năm 2011 là 70.697 người, tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên đạt 0,9%. Mật độ dân cư trung bình của huyện thưa nhất ở các
tỉnh phía Nam (83 người/km2), Cần Giờ thay đổi theo hướng hình thành các cụm
dân cư tập trung với cơ sở hạ tầng nông thôn tương đối phát triển.
Nguồn lao động của huyện có khoảng 25.385 người chiếm tỷ lệ khá cao so
với dân số (gần 50%). Tuy nhiên số lao động chưa có việc làm ổn định còn cao,
chiếm khoảng 25% lực lượng lao động và tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên
môn thấp [40].
3.2.2. Phát triển kinh tế
Tổng giá trị sản xuất năm 2012 ước đạt 4.735 tỷ đồng, tăng 11,8%; trong đó
khu vực kinh tế nông nghiệp tăng 5,7%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng
8,7% và khu vực dịch vụ tăng 21,5%.
Thu ngân sách Nhà nước năm 2012 ước đạt 40,5 tỷ đồng. Tổng mức đầu tư
toàn xã hội ước đạt 2.469 tỷ đồng.
- Hoạt động thương mại dịch vụ: tổng doanh số bán ra ngành thương mại
dịch vụ năm 2012 ước đạt 5.518 tỷ đồng. Tổng doanh thu cung ứng dịch vụ vận
tải, bưu chính viễn thông ước đạt 554 tỷ đồng tăng 21,3% so với năm 2011
- Hoạt động nông nghiệp: tổng giá trị sản xuất thủy sản năm 2012 ước đạt
1.035 tỷ đồng, tương ứng với tổng sản lượng thủy hải sản khai thác 44.770 tấn.
Sản xuất nông nghiệp - phát triển nông thôn ước đạt 43,6 tỷ đồng, tăng 30,7%.
Ngư nghiệp đối với Cần Giờ đóng vai trò quan trọng nhất và là động lực
cho sự phát triển kinh tế – xã hội, giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với kim

Trần Vĩnh Hoàng


Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

22

ngạch xuất khẩu thủy sản huyện. Những tiềm năng về ngư nghiệp hiện đang
được khai thác chủ yếu gồm khai thác biển và nuôi trồng thủy sản.
Ngoài ra ở Cần Giờ còn có các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác như
trồng lúa, trồng cói, cây ăn trái, làm muối, trồng rừng. Diện tích ruộng muối toàn
huyện khoảng 1.857 ha và có khoảng 600 hộ làm nghề muối. Toàn huyện có hơn
33.000 ha rừng và đất rừng. Ngành lâm nghiệp có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ và
phát triển rừng phòng hộ với diện tích hiện nay lên đến 26.651 ha. Rừng sản xuất
chỉ chiếm một phần nhỏ khoảng 600 ha.
- Hoạt động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Giá trị sản xuất ngành công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước đạt 156,3 tỷ đồng; tăng 13% so với năm 2011.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng khá, chủ yếu ở khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đạt 144,4 tỷ đồng; tăng 14,7%; khu vực kinh tế quốc doanh đạt 11,9
tỷ đồng [40].
3.2.3. Văn hóa - xã hội
- Giáo dục - đào tạo: Năm học 2011 - 2012, ở bậc tiểu học, học sinh hoàn
thành chương trình tiểu học đạt 100%, hiệu suất đào tạo đạt 96,1%; bậc trung học
cơ sở kết quả tốt nghiệp đạt 100%, hiệu suất đào tạo đạt 90,28%; bậc trung học
phổ thông tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,08%, tăng 2,24% so với năm học trước.
- Lĩnh vực y tế: Công tác tư vấn, truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh
sản và kế hoạch hóa gia đình được quan tâm thực hiện xuyên suốt, nhằm nâng
cao ý thức cộng đồng về thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, góp
phần giảm tỷ lệ bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên là 5,4% [40].


Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

23

Phần 4.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. DANH LỤC THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT NỔI
Trong thời gian nghiên cứu, đã xác định được 64 loài Động vật nổi
(Zooplankton) của 46 giống, 33 họ, 15 bộ thuộc 7 ngành. Trong đó có thể phân ra
thành 13 nhóm bao gồm: Giáp xác Chân chèo (Copepoda) có số loài nhiều nhất
với 37 loài, 27 giống thuộc 14 họ; kế đến là Trùng bánh xe (Rotifera) có 6 loài, 5
chi, 5 họ; Giun nhiều tơ (Polycheata) có 4 loài, 4 chi, 4 họ; Động vật Nguyên
sinh (Protozoa) có 3 loài, 2 chi thuộc 2 họ; còn lại các nhóm Chân cánh
(Pteropoda), Giáp xác Râu nhánh (Cladocera), Giáp xác Có vỏ (Ostracada), Giáp
xác Bơi nghiêng (Amphipoda), Tôm cám (Mysidacea), Tôm quỷ (Luciferinae),
Hàm tơ (Chaetognatha), Có bao (Tunicata) chỉ có 1 loài, 1 giống, 1 họ và ấu
trùng (Larva) có 5 loài. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Danh lục thành phần loài Động vật nổi (Zooplankton) vùng ven biển Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh
Stt

Tên khoa học

(I)


NGÀNH ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH
- PROTOZOA

Điểm thu mẫu
M1

M2

x

x

M3

M4

M5

M6

M7

M8

M9

x

x


x

LỚP NOCTILUCAE
Bộ NOCTILUCIDA
(1)
1

Họ Noctilucaceae
Noctiluca miliaris Suriray, 1816

x

LỚP LOBOSA
Bộ ARCELLINIDA
(2)

Họ Difflugiidae

2

Difflugia acuminata Ehrenberg, 1838

x

3

Difflugia urceolata Carter, 1864

x


(II)

x
x

NGÀNH TRÙNG BÁNH XE ROTIFERA
LỚP EUROTATORIA
Bộ MONGONONTA

(3)

Họ Brachionidae

Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

4

24

Brachionus calyciflorus Pallas, 1766

x

Bộ FLOSCULARIACEAE
(4)

5
(5)
6
(6)
7
(7)

Họ Filiniidae
Filinia opoliensis (Zacharias,1898)

x

Họ Lecanidae
Lecane elasma Harring & Myers, 1926

x

Họ Synchaetidae
Polyarthra vulgaris Carlin, 1943

x

Họ Trichocercidae

8

Trichocerca cylindrica (Imhof, 1891)

9


Trichocerca similis (Wierzejski, 1893)

x

x

x
x

NGÀNH GIUN ĐỐT - ANNELIDA
(III)

LỚP GIUN NHIỀU TƠ
-POLYCHAETA
Bộ PHYLLODOCIDA

(8)

Họ Alciopidae

10

Naiades cantrainii Delle Chiaje, 1828

(9)

Họ Nereidae

11


Platynereis dumerillii Audouin &
Edwards, 1834

(10)
12

x

x

x

x

Họ Lopadorhynchidae
Maupasia gracilis (Reibisch, 1893)

x

Bộ PHYLLODOCIDA
(11)
13

Họ Phyllodocidae
Eulalia viridis (Linnaeus, 1767)

x

NGÀNH THÂN MỀM - MOLLUSCA
LỚP CHÂN BỤNG - GASTROPODA

(IV)
(12)
14

Bộ CHÂN CÁNH - PTEROPODA
Họ Cavoliinidae
Creseis virgula Rang, 1828

x

NGÀNH CHÂN KHỚP ARTHROPODA
LỚP GIÁP XÁC - CRUSTACEA
(V)
(13)
15
(VI)

Bộ RÂU NHÁNH - CLADOCERA
Họ Daphnidae
Moina macrocopa (Straus, 1820)

x

PHÂN LỚP CÓ VỎ - OSTRACODA
Bộ MYODOCOPIDA

(14)

Họ Cypridae


Trần Vĩnh Hoàng

Lớp Sinh K33


Khóa luận tốt nghiệp

16
(VII)

25

Heterocypris anomala Klie, 1934

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

PHÂN LỚP CHÂN CHÈO COPEPODA
Bộ CALANOIDA

(15)

Họ Eucalanidae

17

Canthocalanus pauper (Giesbrecht,
1888)

18

Eucalanus subcrassus Giesbrecht, 1888

(16)

x
x

x

x

Họ Paracalanidae

19


Paracalanus crassirostris Dahl, 1894

x

x

x

20

Paracalanus parvus (Claus, 1863)

x

x

x

21

Bestiolina similis Sewell, 1914

x

x

x

22


Acrocalanus gibber Giesbrecht, 1888

x

23

Acrocalanus gracilis Giesbrecht, 1888

(17)

x
x

x

Họ Pseudocalanidae

24

Clausocalanus arcuicornis (Dana, 1849)

x

x

x

25


Clausocalanus pergens Farran, 1926

x

x

x

(18)

Họ Pseudiaptomidae

26

Pseudodiaptomus incisus Shen & Lee,
1963

27

Schmackeria dubia (Kiefer, 1908)

(19)
28
(20)
29
(21)

x

x


x
x

Họ Temoridae
Temora turbinata (Dana, 1849)

x

Họ Centropagidae
Centropages tenuiremis Thompson &
Scott, 1903

x

x

x

x

x

Họ Pontellidae

30

Calanopia minor A. Scott, 1902

31


Labidocera sinilobata Shen & Lee, 1963

x

32

Labidocera sp.

x

33

Pontella fera Dana, 1849

(22)

x

x

x

x

x

x

x

x
x

Họ Acartiidae

34

Acartia negligens Dana, 1849

x

35

Acartia spinicauda Giesbrecht,1889

36

Acartia tsuensis Cerl, 2007

x

37

Acartiella sinensis Shen & Lee, 1963

x

x
x


x

x

x

x

x

x

x

x

Bộ CYCLOPOIDA
(23)
38

Họ Oithonidae
Oithona fallax Farran, 1913

Trần Vĩnh Hoàng

x

x

Lớp Sinh K33



×