Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận toàn cầu hóa kinh tế ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với ngành sản xuất đồng hồ tại thụy sỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.49 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ NGÀNH SẢN XUẤT ĐỒNG HỒ TẠI THỤY SỸ....................7
CHƯƠNG 2 ẢNH HƯỞNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NGÀNH SẢN
XUẤT ĐỒNG HỒ CỦA THỤY SỸ................................................................................................... 9
2.1 Ảnh hưởng của toàn cầu hóa lần thứ nhất (từ 1492 đến 1800)..................10
2.1.1 Làn sóng nhập cư vào Thụy Sỹ............................................................................. 10
2.1.2. Nhu cầu hàng hải làm tăng nhu cầu sử dụng đồng hồ...........................12
2.2 Ảnh hưởng của toàn cầu hóa lần thứ hai (từ 1800 đến 1914)...................... 13
2.2.1. Công nghệ sản xuất đồng hồ của Mỹ đã vượt Thụy Sỹ.........................13
2.2.2. Thụy Sỹ đã vượt Mỹ như thế nào?..................................................................... 14
2.3 Ảnh hưởng của toàn cầu hoá lần thứ ba (từ năm 1980 đến nay)...............16
2.3.1 Công nghệ thạch anh và mối nguy cơ tiềm tàng đối với ngành sản xuất đồng

hồ Thuỵ Sĩ....................................................................................................................................... 16
2.3.2 Ngành đồng hồ Thuỵ Sĩ trên bờ vực sụp đổ.................................................. 18
2.3.3 Sự phục hồi của ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ..............................19
2.3.4 Những thị trường mới mở ra: các nền kinh tế mới nổi............................. 23
CHƯƠNG 3 BÀI HỌC TỪ NGÀNH SẢN XUẤT ĐỒNG HỒ THỤY SỸ.................24
3.1 Tận dụng lợi thế vị trí địa lý................................................................................................ 24
3.2 Thu hút nhân tài từ mọi nơi trên thế giới.................................................................... 25

3


3.3 Các chiến lược sáng tạo, đột phá và phù hợp với từng thời điểm.............27
3.3.1 Chiến lược tận dụng nguồn lao động giá rẻ................................................... 27
3.3.2 Chiến lược đầu tư vào công nghệ và các ý tưởng mới...........................27
3.3.3 Chiến lược tập trung vào phân khúc cao cấp: tôn vinh những chiếc đồng hồ



cực sang trọng, với thiết kế tinh xảo theo phong cách truyền thống............28
LỜI KẾT...................................................................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................... 30

4


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế có vai trò rất quan trọng với một quốc gia. Đóng góp cho sự phát triển của
mỗi nền kinh tế là bộ máy vận hành của các doanh nghiệp, không chỉ tạo ra công ăn việc làm
cho nguồn nhân lực tại mỗi quốc gia, mà còn đóng góp cho vị thế của quốc gia đó trong mỗi
lĩnh vực. Thụy Sỹ đã và đang là một cường quốc với nền kinh tế luôn dẫn đầu trên thế giới,
mức sống cao, thu nhập ổn định và thịnh vượng. Để đạt được thành tựu đó, không thể không
nhắc đến những ngành công nghiệp then chốt đã ghi dấu ấn của Thụy Sỹ trên toàn thế giới,
và một trong số đó chính là ngành sản xuất đồng hồ. Đứng trước bối cảnh không chỉ Thụy
Sỹ, mà còn rất nhiều quốc gia khác có trình độ tay nghề cao, công nghệ kỹ thuật hiện đại
như Mỹ, Nhật Bản, nhưng không vì thế mà ngành sản xuất đồng hồ tại đây bị bão hòa, mà
thay vào đó lại ngày càng phát triển với những dấu ấn riêng của mình. Và thông qua bài tiểu
luận này, cùng những kiến thức đã được trang bị trên lớp, nhóm chúng em muốn tìm hiểu
liệu những tác động toàn cầu hóa nào đã ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy
Sỹ và giải pháp của quốc gia này. Vì vậy nhóm chúng em xin chọn đề tài “Ảnh hưởng của
toàn cầu hóa đối với ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ”.

“Lịch sử sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ như thế nào?”, “Toàn cầu hóa có tác động gì
tới ngành này”, “Làm thế nào để ngành sản xuất đồng hồ có thể tiếp tục phát triển vững
mạnh?”. Đây đều là những câu hỏi mà nhiều chuyên gia đầu ngành đã đặt ra, đi tìm câu
trả lời và cũng có rất nhiều đáp án. Vì vậy, với đề tài này mà nhóm chúng em lựa chọn
nghiên cứu dưới đây, tiểu luận sẽ lấy những thông tin về quá trình phát triển của ngành,
để chứng minh làn sóng toàn cầu hóa có ảnh hưởng to lớn và giúp Thụy Sỹ ghi dấu ấn

trong lĩnh vực này như thế nào.

Với đề tài “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với ngành sản xuất đồng hồ
tại Thụy Sỹ”, nội dung bài tiểu luận có cấu trúc bao gồm 3 phần:
Phần 1: Lịch sử ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ
Phần 2: Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ

5


Phần 3: Bài học từ ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành, nhóm chúng em đã cố gắng
tham khảo, tìm tòi tài liệu và vận dụng những kiến thức đã tích lũy để thực hiện
đề tài một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, nhóm chúng em cũng nhận được sự
giúp đỡ tận tình từ cô giáo trong suốt quá trình làm đề tài. Chúng em xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình này.
Do vốn kiến thức còn hạn chế cùng với khoảng thời gian hạn hẹp, bài tiểu luận
chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp
của các bạn cũng như thầy cô để đề tài được trở nên hoàn thiện nhất.

Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn.

6


CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ NGÀNH SẢN XUẤT ĐỒNG HỒ TẠI THỤY SỸ
Đồng hồ, hơn tất cả những mặt hàng nào khác từng được sản xuất, luôn gắn liền với
tên tuổi của người chế tạo. Câu chuyện đằng sau chiếc đồng hồ Thụy Sỹ là câu chuyện về
những người đã kết hợp sự thành thạo, khả năng sáng tạo đột phá và các kỹ năng kinh

doanh thành một nền công nghiệp thực thụ, và luôn sẵn sàng đương đầu với thực trạng hỗn
loạn từ thể chế chính trị - xã hội, vốn có thể khuất phục bất kỳ doanh nghiệp nào. Quả thực
nếu các thợ thủ công lành nghề không buộc phải trốn chạy sang Thụy Sỹ - đa phần từ Pháp
hoặc các khu vực xung đột trên khắp châu Âu – ngành sản xuất đồng hồ tại Thụy Sỹ chắc
chắn sẽ không tồn tại.

Năm 1747, Abraham Louis Breguet, người được xem là nhân vật quan trọng nhất
trong lịch sử chế tạo đồng hồ, đã chào đời tại Neuchatel. Năm 15 tuổi, ông được người
cha dượng gửi đến Versailles để học làm đồng hồ. Sau khi kết thúc học việc, ông lưu lại
Paris và mở các phân xưởng Breguet. Trong khi các đồng môn của ông tập trung sản
xuất những chiếc đồng hồ bấm giờ chính xác hơn dùng khi đi biển, Breguet đã khám phá
ra một thị trường hoàn toàn mới – đó là các khách hàng thuộc giới quý tộc hay thậm chí
xuất thân từ tầng lớp hoàng gia, những người đặt hàng ông những chiếc đồng hô với
kiểu dáng và chức năng mới – như lịch ngày tháng hay chuông báo giờ. Khác với các đối
thủ, ông rất chủ trọng vào vẻ ngoài của từng chiếc đồng hồ - phẩm chất sau này đã trở
thành thương hiệu của riêng ông, dù với đồng hồ quả lắc hay với đồng hồ bỏ túi.

Tuy nhiên, đến thời cách mạng tư sản Pháp, những mối liên hệ mật thiết với
giới quý tốc vô tình đã trở thành mối họa. Tháng Tám năm 1793, Breguet bất đắc dĩ
phải bỏ trốn về quê hương Thụy Sỹ với con trai và con dâu. Một năm sau đó, quân
đội Thụy Sỹ đã chiến đấu nhằm bảo vệ mạng sống của vua Louis XVI cùng hoàng
tộc, và chịu cảnh thảm sát vì nghiệp chướng của họ.

7


Thậm chí ngay tại Geneva, thành phố cách xa biên giới mà quân Pháp luôn thèm
muốn, Breguet cũng không cảm thấy an toàn. Breguet đã chuyển đến Le Locle, nơi sau này
trở thành trung tâm của ngành chế tạo đồng hồ Thụy Sỹ, tại đây, ông đã dựng một phân
xưởng nhỏ, và tiếp tục cung cấp đồng hồ cho hoàng gia Anh Quốc và Nga.


Với chỉ nửa tá nhân công người Thụy Sỹ, Breguet không làm được gì nhiều tại Le
Locle, nhưng ông đã không để hai năm lưu lạc của mình bị uổng phí. Trong thời gian
này, ông đã vạch ra các kế hoạch liên quan đến một số phát minh quan trọng nhất trong
ngành chế tạo đồng hồ cơ, vốn luôn phải chịu phép trước trọng lực – thứ quyền năng tự
nhiên khiến đồng hồ mất dần sự chính xác.
Năm 1795, Breguet đã cảm thấy khá an tâm để quay về Paris. Tại Versailles, bạo loạn
cách mạng đã trả lại tương lai cho ngành chế tạo đồng hồ, và Breguet đã đươc chào đón hết
sức nồng nhiệt. Mọi người đều tin rằng, với sự trợ giúp của ông, cơ nghiệp của họ sẽ được
vực dậy – bởi sau cùng, bô binh và hải quân vẫn cần xem giờ hàng ngày. Breguet tất nhiên
cũng nhìn thấy cơ hội khôi phục vận may, nhưng ông lại quyết đòi hỏi một thỏa thuận đầy
khó khăn. Ông sẵn sàng chấp nhận lời đề nghị, với điều kiện được hoàn lại công việc kinh
doanh cũ và được bồi thường cho những tổn thất trước kia. Không chỉ thế, ông còn bảo lãnh
cho các nhân viên được miễn nghĩa vụ quân sự để có thể gây dựng một cơ nghiệp càng
nhanh càng tốt.

Thời hoàng kim của Breguet bắt đầu từ đó, và ông cũng xúc tiến chế tạo các
loại đồng hồ gắn liền với những phát minh ông hằng ấp ủ trong những ngày tháng
lưu lạc. Tầm quan trọng trong sự nghiệp của Breguet không chỉ thể hiện ở những
phát minh đột phá và chất lượng cao dành cho giới quý tộc, mà còn bởi vì ông đã tạo
nên dấu ấn trong ngành chế tạo đồng hồ Thụy Sỹ - một quốc gia nhỏ bé nổi danh
khắp thế giới về những ý tưởng và tài năng đặc biệt.
Vào năm 1541, nhà thần học John Calvin đã nắm được quyền kiểm soát Geneva và
ông đã đưa ra một đạo luật cấm tất cả người dân nơi đây được đeo trang sức. Đạo

8


luật này đã làm cho những người thợ kim hoàn chuyên chế tạo trang sức thời bấy giờ
đứng trước nguy cơ phá sản, tuy nhiên họ nhận ra rằng đồng hồ là thứ "trang sức hợp

pháp" duy nhất còn được cho phép đeo lúc bấy giờ vì tính năng hữu dụng của nó, vậy là
họ quyết định chuyển sang nghề chế tạo đồng hồ.

CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NGÀNH SẢN

XUẤT ĐỒNG HỒ CỦA THỤY SỸ

Hình 2.1 Xuất khẩu đồng hồ Thụy Sỹ giai đoạn 1890 - 2013
(Nguồn: Swiss foreign trade Statistics)
Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với ngành sản xuất đồng hồ của Thụy Sỹ qua các

cuộc làn sóng toàn cầu hóa:
Cung cấp nguồn lao động từ các nước trên thế giới về Thụy Sỹ.
Tiến bộ công nghệ phát triển nhanh và có thể bắt chước giữa các nước.

9


Giao thương phát triển khiến các sản phẩm của các nước cạnh tranh
trực tiếp với nhau.
Mở rộng ra các thị trường mới nổi với đồng hồ Thụy Sỹ.
2.1 Ảnh hưởng của toàn cầu hóa lần thứ nhất (từ 1492 đến 1800)
2.1.1 Làn sóng nhập cư vào Thụy Sỹ
Ngành chế tạo đồng hồ tại Thụy Sỹ cũng có bước khởi đầu khiêm tốn. Các thợ
đồng hồ đã xuất hiện tại Thụy Sỹ từ thế kỷ XIV, khi chiếc đồng hồ cơ đầu tiên được phát
minh; tuy nhiên, họ lại thường phô diễn khả năng của mình trong các ngành chế tạo
truyền thống, như rèn đúc hay làm súng. Thuở ban đầu, các thợ thủ công tạo ra những
chiếc đồng hồ có kích thước rất lớn, vốn thường chỉ sử dụng cho tháp chuông nhà thờ
hay treo trên các cổng thành. Nổi bật nhất trong số đó là Liechti, một gia tộc làm đồng hồ

đến từ Winterhurn, với 12 thế hệ làm nghề từ năm 1514 đến 1857. Khi kỹ thuật được cải
tiến, những chiếc đồng hồ nhỏ hơn bắt đầu xuất hiện. Trước khi các loại đồng hồ sắt kiểu
Gô – tích được trang hoàng trong dinh thự các gia đình giàu có và quyền lực, những
người thợ đóng gỗ và thợ mộc đã phổ biến hàng loạt các phiên bản đồng hồ khác nhau
được làm bằng gỗ.
Mãi đến cuối thế ký XVI, Thụy Sỹ vẫn chỉ là một trong nhiều quốc gia sở hữu ngành
sản xuất đồng hồ. Tuy nhiên, làn sóng chống đạo Tin Lành dấy lên tại Pháp đã thay đổi tất
cả. Những tín đồ Tin Lành đào thoát từ Pháp đã tìm ra chốn nương thân tại Thụy Sỹ, và
mang theo họ những bí quyết giả kim và chế tạo đồng hồ có khả năng thay đổi bộ mặt các
ngành nghề tại Thụy Sỹ. Làn sóng nhập cư trên bắt đầu diễn ra từ tháng 8 năm 1572, khi 20
nghìn tín đồ Tin Lành bị hành quyết tại Paris trong sự kiện được gọi là “Cuộc Thanh trừng
Ngày lễ Thánh Bartholonew”. Cuộc tị nạn chính trị thứ hai từ Pháp lại là hậu quả của bộ luật
Fontainebleau ban hành tháng Mười năm 1685, nhằm phế bỏ quyền tự do tôn giáo được quy
định trong Bộ luật Nantes (1598), đồng thời tước đi mọi quyền lợi của các tín đồ Tin Lành.

10


Đây quả thực là vận may hiếm có đối với nền kinh tế công nghiệp nôn trẻ tại
Thụy Sỹ. Các tín đồ Tin Lành đã tôi luyện trong họ rất nhiều phẩm chất giá trị. Họ
sẵn sàng làm việc vất vả hòng cải thiện chất lượng cuộc sống. Họ là những người
thủ công lành nghề và tận tâm với công việc của mình. Không những thế, họ còn
là một tập thể đoàn kết, với mạng lưới quan hệ trọng yếu, điển hình như Glasgow,
London, Naples và Paris.
Rất nhiều nạn dân bị ngược đãi kể trên đã tìm thấy được sự bình yên ở
Geneva; khi ấy, địa phận của cộng đồng Tin Lành này vẫn chưa thuộc về Thụy
Sỹ, mà chỉ là đồng minh của Zurich và Bern. Thành phố tràn ngập những người
theo học thuyết Calvin; do ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo, những người luyện
vàng không được phép chế tạo trang sức, do đó, rất nhiều người trong số họ đã
chuyển sang ngành làm đồng hồ.

Tuy nhiên, chính nguồn cung quá mức từ các xưởng làm đồng hồ đã buộc họ tự đặt ra các giới
hạn. Năm 1610, đạo luật đầu tiên dành cho giới chế tạo đồng hồ đã được ban hành tại Geneva; và
chính những quy định khắt khe này đã khiến không ít người phải rời thành phố và thử vận tại nơi khác.
Nghề làm đồng hồ bắt đầu lan ra các thị trấn. Nhiều thợ thủ công đã chọn Neuchatel làm điểm dừng
chân; những người khác lại xây dựng cơ nghiệp tại những vùng hẻo lánh như Vallee de Joux và Val
de Travers.

Các thợ đồng hồ nhập cư và thế hệ sau của họ không chỉ là những người thợ - họ còn
là các doanh nhân. Khi tìm kiếm nhân công, họ thường lựa chọn các gia đình nông dân đang
phải vật lộn với cuộc sống trên dãy núi cao Jura, và hầu như không thể ra khỏi nhà khi mùa
đồng đến. Với nguồn lao động hăng hái sẵn sàng chấp nhận mức lương thấp này, câc thợ
đồng hồ bắt đầu lắp ghét nên một dây chuyền sản xuất hàng loạt được phân cấp rõ ràng.
Mỗi nhân công sẽ thu thập nguyên vật liệu từ mua thu, tiến hành những công đoạn tỉ mỉ trong
suốt mùa đông dài lạnh giá, và phân phối thảnh phẩm ngược về các cửa hàng lắp ráp linh
kiện dưới thung lũng khi xuân về.

11


2.1.2. Nhu cầu hàng hải làm tăng nhu cầu sử dụng đồng hồ

Hình 2.2 Một chiếc đồng hồ dùng cho đi biển
Thời đại Khám phá hay Những khám phá lớn về địa lý là cách gọi thông thường về
những khám phá địa lý đạt được trong khoảng giữa thế kỉ 15 và thế kỉ 16, đặc biệt là sự kiện:
bơi thuyền vượt qua Mũi Hảo Vọng của Bartolomeu Diaz vào năm 1488, việc Cristoforo
Colombo phát hiện ra Châu Mĩ vào năm 1492, rồi sau đó là việc xâm chiếm nó, cuộc du hành
của Vasco da Gama đến Ấn Độ vào năm 1498 và chuyến viễn du vòng quanh thế giới của
Ferdynand Magellan trong những năm 1519-1522. Những sự kiện này đã mở đầu cho một
loạt các chuyến đi thám hiểm và khám phá khác, để rồi chúng đã mở rộng thêm nhiều cho
cái gọi là chân trời địa lý của người châu Âu.

Việc các nước đế quốc đầu tư rất lớn cho các cuộc chinh thám những vùng đất mới dã kéo theo
nhu cầu sử dụng đồng hồ tăng vọt. Về cơ bản, đồng hồ hàng hải là một chiếc đồng hồ cơ (ngày nay là
đồng hồ điện tử) có độ chính xác cao được đặt trong một chiếc hộp dùng để xác định vị trí của tàu
biển qua kinh độ. Với cơ chế cơ học đặc biệt, đồng hồ được đặt trên các khớp hồi chuyển để duy trì vị
trí nằm ngang bất kể chuyển động của tàu như thế nào, qua đó đảm bảo độ chính xác cao nhất. Trong
làn sống toàn

12


cầu hóa lần thứ nhất, phần lớn đồng hồ Thụy Sỹ, vốn nổi tiếng bởi độ chính
xác cao, được sản xuất để phục vụ nhu cầu này.
2.2 Ảnh hưởng của toàn cầu hóa lần thứ hai (từ 1800 đến 1914)

2.2.1. Công nghệ sản xuất đồng hồ của Mỹ đã vượt Thụy Sỹ
Dấu ấn đậm nét nhất trong giai đoạn cạnh tranh và biến đổi khốc liệt này đã xuất
hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi các nhà sản xuất Thụy Sỹ đã không nhận ra các đối thủ Mỹ
đã bỏ xa họ đến thế nào. Mãi đến năm 1876, Thụy Sỹ mới cử đại diện đến hôi tham dự
Hội chợ Triển lãm Quốc tế tại Philadelphia nhằm tìm hiểu lý do tại sao xuất khẩu đồng hồ
của Thụy Sỹ vào Mỹ từ 18 triệu USD năm 1872 giảm xuống còn 5 triệu USD năm 1875.
Những người đến tham dự đã phát hiện công nghiệp chế tạo đồng hồ tại Mỹ đã phát
triển đến mức đe dọa. Jacques David, người khởi xướng giai đoạn phát triển công nghệ
tại Longines đã nhận được thông điệp từ Mỹ, nơi ông đại diện cho ngành công nghiệp
đồng hồ Thụy Sỹ tham dự Hội chợ, và đến thăm các nhà máy sản xuất của đối phương
sau đó. Ông nhận ra các đối thủ như Waltham từ Boston hay Elgin từ Chicago đã hệ
thống hóa quy trình sản xuất hiệu quả đến mức các bộ phận của họ có thể dùng thay thế
cho nhau. Không những thế, những chiếc đồng hồ bỏ túi tại Mỹ còn vô cùng chính xác,
được thiết kế tinh xảo, đẹp đẽ và có giá thành phải chăng hơn hẳn sản phẩm Thụy Sỹ.

Ngành sản xuất đồng hồ của Mỹ phát triển đến mức:

Với 40,000 công nhân, Thụy Sỹ sản xuất khoảng 230,000 đồng hồ/năm,
tương ứng với mức 6 đồng hồ/công nhân
Với 1,6000 công nhân, Elgin và Waltham sản xuất 200,000 đồng hồ/năm, tương ứng
với 125 đồng hồ/công nhân. Hay nói cách khác, các hãng sản xuất đồng hồ lớn của
Mỹ có năng suất cao gấp 21 lần so với hãng đồng hồ Thụy Sỹ.

13


Hình 2.3 Chiếc đồng hồ của Elgin Almanac (Mỹ) năm 1874
David nhận ra người Thụy Sỹ phải tham gia cuộc đua một cách tích cực hơn. Sau hội
chợ Philadelphia, ông đã viết một báo cáo khẳng định ngành kinh doanh đồng hồ nội địa chỉ
có thể đứng vững trước sự cạnh tranh từ thị trường nước ngoài nếu họ có thể sản xuất các
linh kiện với số lượng lớn cùng sai số cực nhỏ, và có thể lắp ráp trong bất kỳ chiếc đồng hồ
nào, thay vì chỉ được chế tác riêng cho mỗi chiếc một lần.

2.2.2. Thụy Sỹ đã vượt Mỹ như thế nào?
Nền sản xuất đồng hồ của Thụy Sỹ tiếp tục bị đe dọa khi ngành sản xuất đồng hồ tại
Mỹ phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, làn sóng thay đổi đã đến trong hai thập niên đầu tiên của
thế kỷ mới. Cuộc Chiến tranh Thế giới I và Chiến tranh thế giới II đã làm gián đoạn việc giao
thương, trao đổi thương mại giữa các quốc gia, làm gián đoạn làn sóng toàn cầu hóa. Trớ
trêu thay, chính nhờ hai cuộc Chiến tranh Thế giới đã giúp cho Thụy Sỹ vực dậy và vượt qua
các hãng sản xuất đồng hồ của Mỹ.
Không chỉ nhờ nhu cầu khổng lồ phát sinh trong Thế chiến I, mà còn bởi các nhà chế
tạo Thụy Sỹ đã xúc tiến và dồn hết khả năng sáng tạo ra một loại sản phẩm mới – đồng hồ
đeo tay – và phân phối chúng với số lượng lớn; các doanh nghiệp Thụy Sỹ sau cùng đã trở
thành thế lực thống trị thế giới trong ngành chế tạo đồng hồ.

14



Hình 2.4 Đồng hồ đeo tay sản xuất bởi Rolex
Trên mặt trận, chiếc đồng hồ đeo tay cũng trở thành vật bất ly thân của các binh sĩ. Tuy các loại
đồng hồ cỡ nhỏ đã được sản xuất đại trà từ năm 1850, nhưng hầu như chỉ có các y tá bệnh viên
thương xuyên sử dụng chúng nhằm kiểm tra mạch đập của bệnh nhân. Nhưng bất ngờ thay, binh sĩ
trong các chiến hào và các phi công chiến đấu lại có cách nghĩ khác. Nguyên nhân chính là: đồng hồ
đeo tay có thể cứu tính mạng của họ. Cùng với radio, đồng hồ đeo tay được xem là thiết bị tối quan
trọng nhằm điều động quân đôi trên khoảng cách xa. Bên cạnh đó, nguy cơ kẻ thù xâm nhập cũng
được tính toán bằng cách quan sát chiếc kim dây di chuyển từ thời điểm ánh sáng phát ra từ họng
pháo đến khi có tiếng nổ. Khi chiến tranh kết thúc, chiếc đồng hồ đeo tay đã trở thành biểu tượng của
bản lĩnh đàn ông, và sản phẩm này lại được thiết kế ngày càng mạnh mẽ qua các thập kỷ. Tuy nhiên,
bước đột phá của chiếc đồng hồ đeo tay – sản phẩm đã cứu ngành sản xuát đồng hồ Thụy Sỹ không
phải là một phát minh mang tính công nghệ - mà là sự thay đổi nhu cầu thị trường do xu hướng của
chiến tranh.

Đến cuối thập niên 1930, nền công nghiệp Thụy Sỹ đã phát triển khá mạnh mẽ, và sẵn
sàng trục lợi từ các đối thủ yếu ớt trên toàn cầu do sức tàn phá của Thế chiến II.

15


Thụy Sỹ đã cung cấp đồng hồ đeo tay và đồng hồ bấm giờ cho tất cả các bên tham
chiến. Thành công nổi bật nhất phải kể đến loại đồng hồ dễ xem giờ dành cho phi công
chiến đấu, vốn được trang bị lớp bảo vệ từ tính, nhằm đảm bảo tính chính xác của chúng
không bị ảnh hưởng do lực từ trường cực mạnh trên máy bay.

2.3 Ảnh hưởng của toàn cầu hoá lần thứ ba (từ năm 1980 đến nay)
Với tầm nhìn cụ thể, nguồn năng lượng và lao động giá rẻ, cùng với quyền tự do trí tuệ, các thợ
chế tạo đồng hồ Thuỵ Sĩ đã phát triển hưng thịnh đến mức họ hầu như quyết định và thống trị toàn bộ
thị trường đồng hồ cơ trên toàn thế giới trong hai thế kỉ


- từ chi phí sản xuất thấp cho đến chức năng hoàn thiện. Thậm chí, cho đến giữa thế kỉ XX,
vào những năm thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70, dấu hiệu nhận biết một chiếc đồng hồ chất lượng
là dòng chữ “Sản xuất tại Thuỵ Sĩ” (Made in Swisss) trên mặt kính.

Tuy nhiên, từ sau năm 1973, công nghệ sản xuất đồng hồ mới (công nghệ thạch
anh) với làn sóng toàn cầu hoá thứ ba, sản lượng sản xuất và xuất khẩu đồng hồ Thuỵ
Sĩ bắt đầu giảm dần. Ngành chế tạo động hồ đã bắt đầu chuyển sang chiến lược tự động
hoá và công nghệ mới dựa trên các dao động điện tử trong đá thạch anh.Đến năm 1983,
ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ đứng trên bờ vực sụp đổ bởi các công ty Thuỵ Sĩ
không ý thức được luật chơi đã thay đổi.Nhưng một lần nữa, Thuỵ Sĩ cho cả thế giới
chứng kiến sự hồi sinh ngoạn mục và sự phát triển hưng thịnh trong ngành sản xuất
đồng hồ của mình.

2.3.1 Công nghệ thạch anh và mối nguy cơ tiềm tàng đối với ngành sản
xuất đồng hồ Thuỵ Sĩ
Vào những năm cuối thập kỉ 60 thể kỉ XX, các kỹ sư đồng hồ của Seiko, Nhật Bản đã phát minh
thành công công nghệ thạch anh trong cơ chế hoạt động của đồng hồ. Công nghệ này dựa trên khả
năng dao động điện từ của tinh thể thạch anh hình chữ U theo một tần suất nhất định khi có dòng điện
chạy quakhiến những chiếc đồng hồ được chế tạo ra không chỉ hoạt động chính xác hơn mà còn góp
phần hạ thấp giá thành và

16


chi phí sản xuất.Hiển nhiên, công nghệ mới này là một tiềm năng to lớn. Dưới tác
động của toàn cầu hoá, công nghệ thạch anh trong sản xuất đồng hồ được lan
rộng sang nhiều nước, trong đó có Mỹ và Thuỵ Sĩ. Người Thuỵ Sĩ đã nhanh
chóng nắm bắt và dẫn đầu trong xu phong trào phát triển đồng hồ đá thạch anh.
Tưởng như họ đã sáng suốt tiến lên thống trị một phân khúc mới mẻ và thú vị trên

thị trường. Nhưng thực tế, điều nó không xảy xa.

Bảng 2.1 Bảng giá trị sản xuất và xuất khẩu đồng hồ đeo tay và đồng hồ
bỏ túi của Nhật Bản (Nguồn: Japan trade statistics)
Qua nhiều thập kỉ, người tiêu dùng đã đặt ra giả thiết rằng: độ chính xác của đồng hồ được
phản ánh qua giá của chính chiếc đồng hồ đó. Thế nên những nhà sản xuất đồng hồ Thuỵ Sĩ hẳn
nhiên đặt giá cao cho mặt hàng đồng hồ thạch anh của họ dù trên thực tế công nghệ thạch anh giúp
giảm chi phí sản xuất. Với sự tác động của toàn cầu hoá, thị trường trên thế giới được mở rộng hơn
và liên kết với nhau hơn, các sản phẩm đồng hồ thạch anh từ Nhật Bản, Mỹ, Đức, Pháp với giá thành
rẻ hơn rất nhiều được đưa ra ngoài thế giới. Theo thống kê ở bảng dưới, có thể nhận thấy rằng ngành
sản xuất đồng hồ tại Nhật Bản nổi lên nhanh chóng, cả về số lượng lẫn giá trị. Chính vì vậy, các sản
phẩm đồng hồ của Thuỵ Sĩ gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ đồng hồ giá rẻ sản

17


xuất tại Nhật Bản, Mỹ, Đức và Pháp. Ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ đang
đối mặt với nguy cơ tiềm tàng bị thay thế.
2.3.2 Ngành đồng hồ Thuỵ Sĩ trên bờ vực sụp đổ
Công nghệ thạch anh ra đời với tác động của làn sóng toàn cầu hoá, ngành sản
xuất đồng hồ của Thuỵ Sĩ rơi vào nguy cơ sụp đổ do sự cạnh tranh từ ngành sản xuất
đồng hồ Nhật Bản, Mỹ và do thiếu một chiếc lược cạnh tranh cụ thể nhằm khác biệt hoá
thương hiệu của chính mình. Thuỵ Sĩ đã từng cố gắng phản công nhưng kết quả đưa
đến là sự thất bại. Bằng chứng là năm 1979, ETA (Doanh nghiệp chế tạo đồng hồ lớn
nhất và hàng đầu Thuỵ Sĩ)đã cho ra mặt một loại đồng hồ thạch anh mỏng nhất trên thị
trường, “Delirium 4”, với độ dày chưa đến 1 milimet. Delirium được sản xuất như để cạnh
tranh lại với đồng hồ lõi thạch anh của Nhật Bản, nhằm chứng minh Thụy Sỹ cũng có thể
tạo ra những chiếc đồng hồ thạch anh tốt nhất. Nhưng sản phẩm này lại quá đắt đỏ và
thiếu thực tế: trên cổ tay, nó có thể bị bẻ cong dưới áp lực nhỏ nhất và lập tức ngừng
hoạt động.


Hình 2.5 Chiếc đồng hồ Delirium 4 của ETA
Đến năm 1983, ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ thực sự trên bờ vực sụp đổ: sản lượng
sản xuất giảm khoảng 5 lần so với mười năm trước (năm 1973), hơn 60.000 công nhân trên
tổng số 90.000 người đã mất việc làm; và hầu như đã xóa sổ nguồn lực xuất khẩu quan
trọng nhất của Thụy Sỹ, cũng như lòng kiêu hãnh của họ.

18


2.3.3 Sự phục hồi của ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ
2.3.3.1 Quá trình vực dậy ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ
Vào những năm đầu những năm 80 của thập kỉ XX, ASUAG và SSIH (hai tập đoàn
hàng đầu tại Thuỵ Sĩ trong ngành sản xuất đồng hồ) đi đến bờ vực phá sản, họ không
còn khả năng trả lương và phụ cấp thường niên trong tháng Mười Hai cho công nhân.
Họ buộc phải hạ mình nài xin một khoản vay từ ngân hàng, và các ngân hàng đã nhân ra
đây là thời điểm cần thiết kế hợp một kế hoạch giải cứu. Điều cần thiết lúc này cho cả hai
hãng là triệu tập một công ty cố vấn độc lập nhằm đánh giá tình hình kinh doanh và cứu
vãn những gì còn sót lại. Cuối cùng, công ty tư vấn Hayek Engineer tại Zurich do
Nicholas Hayek làm chủ được lựa chọn. Và chính Nicholas Hayek là người vực dậy
ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ với những chiến lược xuất sắc, nhìn ra trông rộng
của ông.

Khởi đầu cho công cuộc tái thiết ngành đồng đồ tại Thuỵ Sĩ, Nicholas Hayek
quyết định sát nhập hai công ty đồng hồ lớn là ASUAG và SSIH, tái cơ cấu về tài
chính và vạch ra một chiến lược kinh doanh mới.

19



Về vấn đề tài cơ cấu tài chính, Nicholas Hayek đã thành công trong việc thuyết phục
hơn 100 ngân hàng cùng các chủ nợ khác chung tay vì sự nghiệp giải cứu ngành công
nghiệp đồng hồ đang hấp hối tại Thuỵ Sĩ. Các ngân hàng đã huy động được khoảng 860
triệu franc Thuỵ Sĩ, sau khi trừ đi mọi khoản nợ, cổ phiếu mới, các khoản vay phát sinh và
các dòng chảy tín dụng mới. Sau khi ASUAG và SSIH sát nhập, tất cả các công ty con khi đó
đều chịu tổn thất, và Hayek đã ký kết một thoả thuận với các ngân hàng với phương án mua
lại 51% cổ phần của tập đoàn mới dưới tên SMH vào năm 1985. Kể từ đó, Hayek nắm quyền
chi phối SMH để từ đó toàn quyền đưa ra các quyết định để tạo ra phép màu hồi sinh cho
ngành đồng hồ Thuỵ Sĩ.
Mục tiêu của ông lúc đầu nhắm đến đối tượng khách hàng tiềm năng hoàn toàn mới.
Với ý tưởng tạo ra những chiếc đồng hồ cho khách hàng ở độ tuổi 18-30. Đồng hồ Thụy Sỹ
đời mới cần phải đáp ứng được các tiêu chuẩn "sành điệu" như giày thể thao Nike, áo sơ mi
Gap hay áo len mác Benetton. Hayek bắt đầu đưa ra những quan điểm mới và cho rằng
đồng hồ cũng như bất cứ đồ vật nào mà giới trẻ hâm mộ và có thể là thứ sưu tập được.
Chính từ đây, Hayek đã biến đồng hồ trở thành món vật dụng mà một người có thể mua vài
chiếc vào những dịp khác nhau hoặc mua chỉ vì thấy thích và muốn sưu tập. Và một điều
quan trọng khác để vực dậy nền công nghiệp đồng hồ Thụy Sỹ, đó chính là tên thương hiệu.
Ông cần một cái tên xúc tích, ngắn gọn mà vẫn truyền tải được tinh thần chất lượng của
đồng hồ Thuỵ Sĩ. Và cái tên Swatch (Swiss Watch) ra đời, vừa ngắn gọn, dễ đọc với nhiều
ngôn ngữ và mang trong mình cả một ý chí dân tộc đằng sau nó. Swatch chính là thứ sản
phẩm khiến cả thế giới phải rung chuyển và giúp vực dậy ngành công nghiệp Thuỵ Sĩ.Chiến
lược sản xuất của Swatch là giữ lại những nhãn hiệu đã nổi tiếng trước đó đồng thời phát
triển mạnh thương hiệu Swatch với giá thành hợp lý dành cho giới trẻ thanh thiếu niên.
Tuy pha trộn những yếu tố đặc trưng của nhóm thương hiệu mang tính thời trang này, nhưng
Swatch khác các loại hàng hoá dành riêng cho giới trẻ ở điểm có thể thu hút khách hàng ngay cả khi
anh ta đã giàu có hơn hay trưởng thành hơn, thức nó đáp

20



ứng nhu cầu của nhiều đối tượng trong thị trường. Swatch được ra đời với
đúng những thách thức và tiêu chí mục tiêu đề ra, tạo tiền đề cho các phân
khúc theo sau nó, hướng đối tượng khách hàng và bao trọn phân khúc giá rẻ
cạnh tranh trực tiếp với các hãng đồng hồ bên ngoài thế giới.
Năm 1991, Swatch giới thiệu một thiết kế mới. Họ đã ra mắt một mẫu đồng hồ
cơ tự lên dây mang thương hiệu Swatch, với mặt sau trong suốt cho phép người
dùng quan sát rõ cách vận hành của những bánh răng – đây quả thực là một ý tưởng
phi thương, đến mức những nhãn hiệu cao cấp và xa xỉ hơn cũng phải sao chép lại.
Và yếu tố phi thường nhất trong sản phẩm Swatch – ít nhất cũng theo quan điểm của
chính công ty – là công nghệ nhựa plastic phức tạp và đắt giá đến mức không đối thủ
nào có thể sao chép được.

Hình 2.6 Đồng hồ sản xuất bởi Swatch thập niên 90s
2.3.3.2 Thành tựu đạt được và lối đi của ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ
Từ năm 1983, sản lượng sản xuất và xuất khẩu đồng hồ của Thuỵ Sĩ bắt đầu tăng trở
lại và tang đều trong các năm tiếp theo. Tháng 10 năm 1982, Swatch đã tiến hành khảo sát
tại thị trường Texas; chỉ một năm sau, họ đã ra mắt toàn châu Âu và lập tức lan đến Bắc Mỹ.
Năm 1985, 10 triệu chiếc đồng hồ đã xuất xưởng, và đến năm 1988,

21


con số này là 50 triệu. Vào thời kỳ đỉnh cao, những tín đồ của Swatch sẵn sàng xếp hàng giơ
liền, hoặc ngủ qua đêm vì biết trước một mẫu thiết kế mới sắp được lên kệ.
Ngày nay, tập đoàn Swatch là nhà sản xuất và cung cấp đồng hồ lớn nhất thế giới, chiếm hơn
25% thị phần trên thị trường. Năm 2001, tập đoàn xuất xưởng 114 triệu chiếc đồng hồ, doanh thu đạt
3,3 tỷ USD với nhiều nhà máy ở Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc. Ngoài mặt
hàng truyền thống là đồng hồ, Swatch Group còn tham gia vào lĩnh vực vi điện tử, máy tính và thiết bị
y tế. Nhưng dù sao, cái tên Swatch nổi tiếng trên thế giới như một nhãn hiệu đồng hồ Thụy Sỹ mới,
vẫn là những chiếc đồng hồ chính xác và sang trọng, nhưng giờ đây nó đã có thêm yếu tố thời trang.


Có được những thành tựu trên bởi Swatch đã có những bước đi chiến
lược đúng đắn, trong đó phải kể đến ba chiến lược sau:
- Đổi mới và nâng cấp sản phẩm của mình: Đồng hồ Swatch, ngoài thiết kế tạo hình mới mẻ và
sáng tạo, hãng đã dùng nhựa cứng thay thế thép không rỉ để làm vỏ đồng hồ. Vận dụng kỹ thuật mạ
nhựa hiện đại, mạ vỏ đồng hồ thành màu vàng, màu bạc, bóng sáng lấp lánh khó phân biệt thật giả.
Thay đổi như vậy khiến độ dày và trọng lượng của đồng hồ giảm hẳn, trở nên xinh xắn, giá thành cũng
giảm đáng kể. Đồng thời, pin có thể thay mới, vừa chạy chính xác lại phòng được chấn động, chống
nước.
- Giá cả hợp lý: Swatch cho rằng sở dĩ các loại đồng hồ thạch anh và đồng hồ điện tử của Nhật
và Mỹ nhanh chóng chiếm được thị trường chủ yếu là do giá rẻ, hàng đẹp. Nhắm đúng điểm này, đồng
hồ Swatch, thông qua gia công tinh xảo, giảm thiểu vật liệu, cải cách kỹ thuật, khiến giá thành giảm
mạnh. Hãng áp dụng sách lược lãi mỏng nhằm đạt được danh tiếng và thị trường, định giá mỗi chiếc
khoảng 25-35 USD, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh cao so với đồng hồ thạch anh của Nhật
Bản. Rất nhiều khách hàng trước đây sử dụng đồng hồ Nhật Bản thì giờ đây đã đến với đồng hồ Thuỵ
Sỹ. Chỉ riêng tại thị trường Mỹ, mỗi năm Swatch đã tiêu thụ trên một triệu chiếc.

22


- Phân khúc khách hàng và chính sách tiêu thụ khéo léo:Khách hàng ngày nay có tâm
lý cho rằng, các cửa hàng bề thế đều bán sản phẩm đồng hồ tốt. Nhận thức được điều này,
Swatch chỉ bày bán ở các công ty lớn và cửa hàng đồng hồ hạng nhất, xây dựng trong mắt
khách hàng hình ảnh bề thế đáng tin, giá cả lại thấp hơn những loại đồng hồ danh tiếng khác
khiến khách hàng cảm thấy đồng hồ Swatch vừa rẻ, đẹp, tốt và vì vậy lượng tiêu thụ đồng hồ
cũng tăng mạnh. Ngày nay, nhãn hiệu Swatch có thể được tìm thấy ở mọi đối tượng từ học
sinh, sinh viên, cán bộ cho tới các chính khách, doanh nhân và những người đẹp tài năng nổi
tiếng nhất thế giới. “Swatch là biểu tượng của sự thành công. Swatch là sự tươi mát, trẻ
trung và cũng là niềm tự hào của những dân chơi đồng hồ nổi tiếng - đồng hồ Thụy Sỹ”.


2.3.4 Những thị trường mới mở ra: các nền kinh tế mới nổi
Với tác động của toàn cầu hoá, việc mở rộng thị trường ra ngoài phạm vi lãnh thổ là một trong
những chiến lược thiết yếu của các công ty lớn trên thế giới. Khi các thị trường cũ của ngành sản xuất
đồng hồ Thuỵ Sĩ như Bắc Mỹ, Châu Âu, … gặp nhiều sự cạnh tranh của các hãng đồng hồ khác từ
Nhật, Mỹ, Pháp, Đức, ngành đồng hồ Thuỵ Sĩ bắt đầu tìm đến thị trường mới tại Châu Á, trong đó phải
kể đến nhất là Trung Quốc. Với dân số chiếm 20% dân số thế giới và tốc độ tăng trưởng ổn định luôn
ở mức hai con số (năm 2010 đạt 30%), Trung Quốc là thị trường tiềm năng mà nhiều hãng muốn
hướng đến. Công ty tư vấn quản lý toàn cầu McKinsey dự báo đến năm 2015, Trung Quốc sẽ trở
thành thị trường xa xỉ phẩm lớn nhất thế giới, chiếm 20% doanh số bán hàng toàn cầu, với giá trị
tương đương 180 tỉ nhân dân tệ (27 tỉ USD).Theo McKinsey, có 2 yếu tố lý giải cho tốc độ phát triển
chóng mặt của thị trường xa xỉ phẩm Trung Quốc. Thứ nhất, thái độ mua sắm của người tiêu dùng
Trung Quốc đã thay đổi. Kinh tế tăng trưởng ổn định ở mức 2 con số suốt một thời gian dài đã tạo ra
một tầng lớp người tiêu dùng thượng lưu mới, số lượng có thể đến hàng chục triệu. Với thu nhập
trung bình từ 30.000-46.000 USD/năm, họ sẵn sàng chi ra 11% để sở hữu những sản phẩm cao cấp.
Thứ hai, việc nhiều thành phố vươn lên trở thành trung tâm tài chính mới của

23


vùng cũng tạo ra thị trường mới cho hàng xa xỉ. Doanh số tại những thành phố mới như
Thanh Đảo và Vô Tích vào năm 2015 được dự báo ngang bằng với mức hiện tại của Hàng
Châu và Nam Kinh, hai “kinh đô hàng xa xỉ” của Trung Quốc hiện nay. Chính vì vậy, ngành
sản xuất đồng hồ không thể đứng ngoài và bỏ qua một thị trưởng béo bở như vậy. Theo
thống kê, năm 2010, lượng đồng hồ Thụy Sĩ nhập vào Trung Quốc và Hồng Kông tăng 75%
chỉ trong 7 tháng đầu năm. Riêng Piaget, 4 năm gần đây, doanh số tại thị trường Trung Quốc
của hãng đồng hồ này tăng đến 4 lần.

CHƯƠNG 3
BÀI HỌC TỪ NGÀNH SẢN XUẤT ĐỒNG HỒ THỤY SỸ
3.1 Tận dụng lợi thế vị trí địa lý


Nguồn: cacnuocchauau.com

Dù Thuỵ Sĩ không sát biển để thuận tiện cho phát triển giao thương hảng hải, Thuỵ Sĩ
lại là “trái tim của Châu Âu”. Nằm giữa các nước láng giềng thiên tài xuất chúng là Ý, Áo,
Đức, Pháp và công quốc Liechtenstein, Thuỵ Sĩ là trung tâm địa lý, giao thoa văn hoá và
công nghệ. Thuỵ Sĩ đã tận dụng được vị trí địa lý của mình để mở

24


rộng thị trường tiêu thụ của mình cũng như thu hút các nguồn lực khác như lao
động, công nghệ từ các nước khác.
Bên cạnh đó, dù không tiếp giáp với biển thuận tiện cho thương mại hàng hải,
Thuỵ Sĩ đã khắc phục yếu điểm này bằng cách thành lập đội thương thuyền quốc gia
gồm 32 tàu lớn và vô số thuyền bè hoạt động ở những cảng nước ngoài và cảng
Basel ở song Rhine. Rhine là con sông lớn nhất nhưng chỉ phù hợp cho những hoạt
động thương mại hàng hải giữa Basel và Rheinfelden.
Từ trường hợp của Thuỵ Sĩ, có thể thấy rằng vị trí địa lý chiếm một phần quan trọng
trong quá trình thương mại quốc tế. Các nước cần biết tận dụng tối đa các lợi thế địa lý của
mình và đồng thời tìm những cách khắc phục yếu điểm. Áp dụng vào trường hợp của Việt
Nam, Việt Nam có đường biển dài, là điều kiện thuận lợi phát triển các ngành hải sản và
cảng giao thương với các nước khác. Vì thế Việt Nam cần tập trung khai thác triệt để ưu thế
này của mình. Bên cạnh đó, việc nằm sát biển cũng như nằm trong đường vành đai núi lửa
Thái Bình Dương gây ra nhiều thiên tai mất mát cho Việt Nam. Việt Nam cần khắc phục và
giảm thiểu các tác hại đó.

3.2 Thu hút nhân tài từ mọi nơi trên thế giới
Chính việc cho phép mọi công dân, vùng miền, các hình thái chính trị đa dạng,
chủ sử dụng lao động, người lao động tham gia vào quá trình ra quyết định đã biến

Thụy Sỹ thành nơi trú ẩn của sự ổn định, sáng tạo và thịnh vượng. Ngoài ra quá trình
hội nhập liên tục của các dân tộc từ khắp nơi trên thế giới đã đem lại nguồn động lực
giúp Thụy Sỹ không ngừng đổi mới, trong khi vẫn giữ nguyên những nguyên tắc bất
biến như lối tư duy và hành động cẩn trọng, hay thái độ bảo vệ thiểu số và tôn trọng
suy nghĩ của thiểu số. Thụy Sỹ cũng thu hút không ít cá nhân không rõ quốc tịch,
những người được tự do phát huy tài năng của họ trong môi trường trung lập của
quốc gia này.

25


Những nhân vật có đóng góp quan trọng trong ngành sản xuất đồng hồ
tại Thuỵ Sĩ đó là:

Hans Wilsdorf là thợ chế tạo đồng hồ người
Đức. Thế nhưng, ông này đã sáng lập và
điều hành doanh nghiệp và sau đã trở
thành một trong các hãng đồng hồ giá trị
nhất Thụy Sỹ - hàng Rolex.

Hans Wilsdorf (1881 – 1960)
Nicolas Hayek là một doanh nhân người Li
– băng, một tượng đài trong ngành chế tạo
đồng hồ tại Thụy Sỹ. Ông là người có công
lớn trong việc vực dậy ngành sản xuất đồng
hồ của Thụy Sỹ bằng việc sáng tạo ra sản
phẩm Swatch.

Nicolas Hayek (1928 – 2010)


Từ ngành sản xuất đồng hồ tại Thuỵ Sĩ, có thể thấy rằng việc thu hút nhân tài cho sự
phát triển ngành cũng như phát triển kinh tế là một điều vô cùng quan trọng. Chính nhờ sự
đóng góp của tri thức là động lực thúc đẩy nền kinh tế vượt qua điểm dừng và tăng trưởng
mạnh mẽ hơn. Chính phủ các nước cần tạo được môi trường thuận tiện cùng những đãi ngộ
phù hợp để tránh được tình trạng chảy máu chất xám cũng như thu hút được nguồn lực chất
lượng cao từ nhiều nơi khác.

26



×