Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch Chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.98 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
PHẦN I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG........................................................................7
PHẦN THỨ II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XỬ LÝ TÌNH HUỐNG......................8
1. Lý luận chung.................................................................................................8
2. Quan điểm của Đảng......................................................................................9
3. Văn bản liên quan đến đề tài........................................................................10
PHẦN THỨ III: PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG...............................12
1. Phân tích sự đúng, sai của tình huống..........................................................12
2. Nguyên nhân tình huống..............................................................................13
3. Hậu quả của tình huống................................................................................13
PHẦN THỨ IV: XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH
HUỐNG...............................................................................................................15
1. Xây dựng phương án....................................................................................15
a. Phương án 1...............................................................................................15
b. Phương án hai............................................................................................16
2. Lựa chọn Phương án tối ưu..........................................................................16
3. Các bước để thực hiện phương án đã lựa chọn............................................17
PHẦN THỨ V: KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN........................................................19
1. Kiến nghị......................................................................................................19
2. Kết luận........................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................23

2


LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách về bảo hiểm xã hội là một trong những trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội của Quốc gia và được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất
sớm. Ngay trong những ngày đầu giành được độc lập, chủ quyền dân tộc, trong
bối cảnh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, nhiều văn bản quy định về chế độ,


chính sách về bảo hiểm xã hội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Sau
khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm thời về
các chế độ BHXH. Trong thời kỳ này, các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội
đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và
lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm chiến đấu
góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bước vào
thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội đòi hỏi các chế độ, chính sách, phương thức
quản lý về BHXH phải được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. Thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền lương, các
chế độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau ngày Bộ
luật lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày
26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với
cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh
tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày
16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của
Pháp luật. BHXH Việt Nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung
ương đến tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày
01/10/1995 trên phạm vi cả nước.
Hơn 20 năm thành lập và hoạt động, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng
xây dựng, phát triển và trưởng thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính
sách về Bảo hiểm xã hội ngày càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
để đáp ứng kịp thời với xu thế phát triển của thời đại.
3


Xuất phát từ điều kiện thực tiễn đòi hỏi phải có một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến lĩnh vực bảo

hiểm xã hội, bảo vệ quyền lợi của người lao động, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ
9 ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã thông qua ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số
71/2006/ QH11có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Trải qua
08 năm tổ chức thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã bộc lộ nhiều hạn
chế cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của
đất nước. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã xem xét và sửa đổi
toàn diện Luật bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng sàn An sinh xã hội, hướng
tới đảm bảo An sinh xã hội trong dài hạn thông qua điều chỉnh các chế độ bảo
hiểm xã hội. Ngày 20/11/2014 Luật bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 đã ra đời,
thay thế Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, chính thức có hiệu lực thực hiện từ
ngày 01/01/2016.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân
nhân và người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội
Việt Nam từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công
tác thu, chi, quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách
BHXH cho các đối tượng theo Luật định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi
cho những người tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt, Ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện mạnh mẽ công tác cải cách
hành chính theo quy trình giao dịch một cửa. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, triển khai giao dịch điện tử trong công tác thu bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế và
giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người thụ hưởng. Ứng dụng thành
công công nghệ thông tin trong quản lý Quỹ bảo hiểm y tế để minh bạch công
khai chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, ngăn chặn việc lạm dụng quỹ, giảm
tiêu cực và hạn chế thất thoát quỹ bảo hiểm y tế…
4



Trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện các chính sách về bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, toàn Ngành bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều kết quả to lớn, đảm
bảo quyền tham gia và thụ hưởng, đem lại sự hài lòng cho các đối tượng người
lao động thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội, đặc biệt là những đối tượng
là người lao động đã hết tuổi lao động, đang thụ hưởng các chế độ trợ cấp hàng
tháng do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích
cực mà Ngành đã đạt được, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập, quyền lợi của người thụ hưởng
chưa được giải quyết thoả đáng, kịp thời, thủ tục hành chính còn nhiêu khê,
rườm rà dẫn đến đơn thư kiến nghị của nhân dân.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên khoá I năm
2018 do các giảng viên Học viện hành chính Quốc gia truyền đạt đã giúp tôi có
thêm nhiều kiến thức về Quản lý nhà nước, kỹ năng điều hành hội họp, kỹ năng
phân công và phối hợp trong hoạt động công vụ, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng
giải quyết tình huống… để áp dụng vào công việc hàng ngày và nâng cao kỹ
năng viết của bản thân nên tôi mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo
hiểm xã hội với đề tài: “Nợ đọng bảo hiểm xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi của người lao động”.
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân
có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong
thực tế sẽ giải đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc
thực hiện các chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã
hội mà Đảng và Nhà nước đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Kính mong được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các giảng viên Học viện
Hành chính Quốc gia và các học viên lớp góp ý kiến bổ sung để tôi có thể hoàn
thiện, nâng cao kiến thức của mình phục vụ thiết thực cho công việc chuyên
môn.
5



Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo giảng viên Học viện Hành
chính Quốc gia, các cấp lãnh đạo tỉnh Hà Giang, Lãnh đạo cơ quan BHXH tỉnh
Hà Giang và các bạn học viên lớp đã quan tâm tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện tiểu luận này
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Giang, ngày 19 tháng 5 năm 2018
Học viên thực hiện

6


PHẦN I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Chị Nguyễn Thị Quyên là công nhân của Công ty TNHH sản xuất đồ may
mặc JULIA. Tháng 1/2017 Công ty ký hợp đồng lao động làm việc 36 tháng với
chị Quyên, mức lương 4.500.000đ. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế khó khăn,
hàng hóa may mặc của Công ty sản xuất ra bị ứ đọng, không tiêu thụ được, nên
từ tháng 1/2018 Công ty đóng BHXH cho toàn bộ Công nhân, nhưng trên bảng
lương vẫn thể hiện trích đóng BHXH, BHYT, BHTN. Đến tháng 4/2018 chị
Quyên sinh con. Khi làm thủ tục đề nghị hưởng chế độ thai sản, cán bộ 1 cửa
BHXH từ chối nhận hồ sơ do Công ty mang đến vì lý do Công ty nợ BHXH 4
tháng, trả lời không đủ điều kiện giải quyết chế độ thai sản. Chị Quyên kiến nghị
với cơ quan BHXH tỉnh rằng mình trích nộp BHXH, BHYT, BHTN hàng tháng,
nhưng tại sao không được hưởng chế độ BHXH khi sinh con.

7


PHẦN THỨ II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

1. Lý luận chung
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt nam mang tính xã hội
sâu sắc và mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai
cấp công nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức;
phục vụ cho lợi ích của mọi người dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của
một giai cấp riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nước Việt Nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội,
thể chế hoá quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho
những quyền đó được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong
xã hội nhờ vào phương tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của mình, đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hội
văn minh, công bằng và dân chủ.
Luật bảo hiểm xã hội đã quy định rõ quyền của người lao động được đóng
bảo hiểm xã hội, trách nhiệm của người sử dụng lao động là phải lập hồ sơ đóng
bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Trường hợp vi
phạm pháp luật về đóng bảo hiểm xã hội tùy mức độ mà bị xử lý theo quy định
của pháp luật hành chính và hình sự.
Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật. Công cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật
và bản thân họ cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, không được làm trái
với những gì mà pháp luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có không
ít một số cán bộ công chức Nhà nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền
để sách nhiễu nhân dân hoặc do trình độ chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần
trách nhiệm, thiếu hiểu biết về chính sách của Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng
quyền lợi của người dân, thiếu công bằng xã hội, nhân dân mất lòng tin vào
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
8



2. Quan điểm của Đảng
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham
gia Bảo hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ
của Nhà nước thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều
tiết các hoạt động Bảo hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của
chính sách kinh tế xã hội.
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị
trường lao động, bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng
lao động. Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và
phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện
tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Để tăng cường
lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo luật định cần phát huy vai
trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước,
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã
hội đối với người lao động, trọng tâm là thu nộp bảo hiểm xã hội, bảo đảm
nguyên tắc có tham gia thì mới hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đồng thời,
chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải quyết chế độ chính sách cho người lao động,
đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là vấn
đề quan trọng liên quan đến hàng triệu người lao động vì vậy cần phải có biện
pháp thực hiện triệt để nhằm bảo đảm chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc
đẩy người lao động công tác tốt, tăng năng suất lao động.
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
giai đoạn 2012-2020 dđã chỉ rõ: Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là 2 chính
sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát
triển kinh tế xã hội. Mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế có bước đi, lộ trình phù hợp với phát triển kinh tế của đất nước.
Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đồng bộ với việc phát triển

9


các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế phải theo nguyên tắc có đóng, có
hưởng, quyền lợi tương ứng với nghĩa vụ, có sự sẻ chia giữa các thành viên,
đảm bảo công bằng và bền vững của hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là trách nhiệm của các
cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và mỗi người
dân.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đơn vị sử dụng
lao động để kịp thời xử lý những hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, làm ảnh hưởng đến quyền lợi thụ hưởng
của người lao động. Tích cực tuyền truyền về các chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đến mọi tầng lớp nhân dân, đảng viên, cán
bộ, chủ sử dụng lao động để họ nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các
chế độ bảo hiểm xã hội, nâng cao ý thức trách nhiệm khi thực hiện các chế độ,
chính sách của Nhà nước về bảo hiểm xã hội.
3. Văn bản liên quan đến đề tài
Như phần lý luận chung đã trình bày, chính sách Bảo hiểm xã hội hiện
hành là sự cải tiến, thừa kế các quy định nhưng đều thể hiện bản chất bảo hiểm
xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo
hiểm xã hội. Một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan áp dụng để giải quyết
tình huống:
- Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
58/2014/QH 13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 (gọi tắt là Luật BHXH năm 2014);
- Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội
bắt buộc;
10


- Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ Lao độngThương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
- Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam ban hành quy trình thu BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm
tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT;
- Quyết định số 636/QĐ-BHXH ngày 22/4/2016 của Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải
quyết hưởng các chế độ BHXH.

11


PHẦN THỨ III: PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Phân tích sự đúng, sai của tình huống
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu
kỹ, phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Vấm đề thứ nhất: Chị Nguyễn Thị Quyên đưa ra kiến nghị với cơ quan
BHXH rằng hằng tháng trên bảng thanh toán tiền lương của Công ty, chị đều
thấy bị trừ 1 khoản tiền trích nộp BHXH, BHYT, BHTN, có nghĩa là chị đã
tham gia đóng đủ BHXH, BHYT, BHTN từ khi ký kết hợp đồng tháng 1/2017
đến tháng 4/2018. Theo quy định của pháp luật BHXH, điều kiện hưởng chế độ
thai sản là đóng đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Vậy chị
Quyên đã đủ điều kiện được hưởng, vậy tại sao cơ quan BHXH lại không thanh
toán chế độ thai sản cho chị?
Vấn đề thứ hai: Đối với Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA

đóng vai trò là đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đúng Điều 21
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 đó là: Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ
bảo hiểm xã hội, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội; đóng BHXH theo quy định tại
Điều 86 của Luật BHXH và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động
theo quy định tại khoản 1 Điều 85 để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã
hội”. Đồng thời Công ty cũng đã vi phạm vào các quy định về trốn đóng, chậm
đóng BHXH theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày
22/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
Vấn đề thứ ba: Hậu quả của việc chậm đóng BHXH cho người lao động
của Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA đã ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền thụ hưởng các chế độ thai sản của chị Quyên như: khám thai định kỳ,
trợ cấp khi sinh con theo quy định của pháp luật về BHXH.

12


Vấn đề thứ tư: Bảo hiểm xã hội thành phố nhận hồ sơ giải quyết chế độ
thai sản từ đơn vị sử dụng lao động là Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc
JULIA, khi kiểm tra việc đóng BHXH của đơn vị thấy còn nợ từ tháng 1->tháng
4/2018 thì phải đề nghị và hướng dẫn đơn vị thực hiện truy đóng BHXH đầy đủ.
Sau khi đơn vị đóng đủ BHXH thì tiếp nhận hồ sơ giải quyết chế độ thai sản cho
người lao động. Việc BHXH thành phố trả lời chị Quyên không đủ điều kiện
hưởng chế độ thai sản là chưa chính xác.
2. Nguyên nhân tình huống
Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA đóng vai trò là đơn vị sử
dụng lao động đã không thực hiện đúng trách nhiệm của mình về công tác
BHXH đối với người lao động trong đơn vị. Chưa thực sự quan tâm đến quyền
lợi có tính cốt yếu đối với người lao động, nhất là những đối tượng là phụ nữ

trong độ tuổi sinh đẻ khi họ nghỉ việc tại đơn vị bị mất thu nhập thường xuyên
từ lương mà không có nguồn thu nhập nào thay thế.
Mặt khác, chính sự hiểu biết không đầy đủ của chị Quyên về quyền lợi
BHXH của mình nên đã không kịp thời phản ánh, kiến nghị với đơn vị sử dụng
lao động (Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA) có trách nhiệm thực
hiện đóng đầy đủ BHXH hàng tháng để mình được hưởng trợ cấp khi nghỉ việc
để đi khám thai hoặc sinh con.
Cán bộ làm công tác tiếp nhận hồ sơ giải quyết chế độ BHXH tại bộ phận
1 cửa BHXH thành phố còn nhầm lẫn khi giải thích về điều kiện hưởng chế độ
thai sản; chưa làm hết trách nhiệm của mình trong việc hướng dẫn, đề nghị đơn
vị thực hiện trách nhiệm nộp đầy đủ BHXH để giải quyết chế độ thai sản cho chị
Quyên.
3. Hậu quả của tình huống
Việc nghiên cứu hậu quả của tình huống nhằm giúp ta tránh được sự cứng
nhắc, nguyên tắc, giáo điều trong việc thực hiện chế độ chính sách của người lao
động. Đồng thời, lường trước được hậu quả của tình huống giúp ta có thể đề ra
giải pháp hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế nhằm giải quyết đúng, kịp thời,
13


đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó, có biện pháp xử
lý việc chấp hành không đúng qui định trong việc thực hiện chế độ chính sách
của Nhà nước và đề ra những biện pháp phù hợp tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm
xã hội.
Tôi xin nêu một số hậu quả xảy ra với tình huống trên.
- Nếu Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA không thực hiện trách
nhiệm đóng BHXH đầy đủ, kịp thời cho người lao động trong đơn vị thì sẽ ảnh
hưởng rất nghiêm trọng đến quyền thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao
động, cụ thể trong tình huống này là cá nhân chị Quyên sẽ chưa được giải quyết
hưởng chế độ thai sản khi sinh con. Khi chị Quyên nghỉ việc sinh con, Công ty

không trả lương, mặc dù bản thân đủ điều kiện hưởng theo quy định của pháp
luật (đóng BHXH đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con) nhưng
do đơn vị sử dụng lao động còn nợ đọng BHXH nên bản thân chị Quyên không
được cơ quan BHXH giải quyết cho hưởng chế độ thai sản khi nghỉ việc sinh
con, chị không có được nguồn thu nhập bù đắp vào chỗ tiền lương không được
Công ty trả khi nghỉ việc, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt hằng
ngày.
- Việc chưa năm chắc các quy định của pháp luật hoặc không linh hoạt,
giải quyết một cách máy móc, thiếu hiểu biết của cán bộ làm công tác tiếp nhận
hồ sơ tại bộ phận 1 cửa BHXH thành phố sẽ dẫn đến người lao động bị thiệt thòi
về quyền thụ hưởng chế độ BHXH.
- Nếu không điều chỉnh kịp thời những vi phạm về trách nhiệm đống
BHXH của đơn vị sử dụng lao động cũng như sự hiểu biết, trách nhiệm, thái độ
làm việc của cán bộ cơ quan BHXH thì dẫn đến người lao động bị thiệt thòi, sâu
xa hơn là người dân có thể bị mất niềm tin vào các chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về BHXH. Trong khi đó, Đảng ta chủ trương quan tâm đúng mức tới
quyền lợi của người lao động, một ưu việt của Chủ nghĩa xã hội so với chủ
nghĩa tư bản.

14


PHẦN THỨ IV: XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ
TÌNH HUỐNG
1. Xây dựng phương án
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Theo Điều 85 Luật BHXH năm 2014 quy định về mức đóng, phương
thức đóng của người tham gia BHXH bắt buộc; Điều 86 Luật BHXH năm 2014
quy định về mức đóng, phương thức đóng của người sử dụng lao động;
- Theo quy định tại Điều 38 về truy thu BHXH bắt buộc, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Theo Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định điều kiện hưởng
chế độ thai sản của lao động nữ mang thai, sinh con…phải đóng đủ bảo hiểm xã
hội 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
a. Phương án 1
BHXH thành phố không tiếp nhận thủ đề nghị thanh toán chế độ thai sản
của chị Quyên do Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA đề nghị. Trả hồ
sơ ngay về cho đơn vị sử dụng lao động và thông báo cho đơn vị biết đang trong
tình trạng nợ đọng BHXH 4 tháng, khi nào nộp đầy đủ thì thanh toán chế độ thai
sản cho người lao động.
Ưu điểm:
Tuân thủ đúng nguyên tắc có đóng có hưởng của bảo hiểm xã hội. BHXH
thu hồi được nợ đọng BHXH từ các đơn vị sử dụng lao động, buộc đơn vị sử
dụng lao động phải có các biện pháp tài chính để có tiền nộp BHXH cho người
lao động đầy đủ.
Nhược điểm:
Quyền lợi chính đáng của người lao động (chị Quyên) chưa được đảm bảo
kịp thời, dẫn đến việc chị Quyên gặp khó khăn trong cuộc sống hằng ngày khi
lương đã bị đơn vị cắt giảm.

15


b. Phương án hai
- Cán bộ tiếp nhận hồ sơ BHXH thành phố giải thích pháp luật cho Công
ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA biết rõ trách nhiệm tham gia BHXH của
mình, đồng thời đơn vị cũng đã có hành vi chậm đóng, vi phạm pháp luật hành
chính và có thể bị thanh tra xử phạt theo quy định tại Nghị định số 95/2013/NĐCP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Hành vi chậm đóng BHXH của Công ty

đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền thụ hưởng chế độ thai sản chính đáng của
người lao động nói chung và chị Quyên nói riêng.
- Cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn thủ tục truy thu tiền nợ đóng BHXH
của Công ty từ tháng 1->4/2018, yêu cầu đơn vị thực hiện ngay việc chuyển tiền
nợ BHXH trong thời hạn 02 ngày. Sau khi đơn vị nộp đầy đủ tiền nợ BHXH,
tiến hành tiếp nhận hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ thai sản của chị Quyên để
giải quyết chi trả tiền trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật.
Ưu điểm:
+ Tuyên truyền được các quy định của pháp luật về BHXH, nâng cao ý
thức trách nhiệm đóng BHXH đầy đủ, đúng thời gian quy định đối với đơn vị sử
dụng lao động.
+ Cơ quan BHXH thu được tiền nợ BHXH của đơn vị. Quyền lợi của
người lao động được giải quyết kịp thời, không làm phát sinh đơn thư kiến nghị,
phản ánh.
2. Lựa chọn Phương án tối ưu
Từ sự phân tích đánh giá ưu, nhược điểm của các phương án trên, nên
chọn phương án 2, bởi vì:
Đây là phương án hữu hiệu nhất vừa đảm bảo thực hiện đúng pháp luật
của Nhà nước, vừa giải quyết thoả đáng chế độ cho người lao động hợp tình,
hợp lý. Đồng thời, bảo đảm nguyên tắc của ngành thu đúng, thu đủ, chi đúng,
chi đủ, tránh gây thất thoát của Nhà nước. Cơ quan BHXH thực hiện tuyên
16


truyền được các quy định của pháp luật về BHXH, nâng cao ý thức trách nhiệm
đóng BHXH đầy đủ, đúng thời gian quy định đối với đơn vị sử dụng lao động.
Một mặt thu được tiền nợ BHXH của đơn vị, mặt khác quyền lợi của người lao
động được giải quyết kịp thời, không làm phát sinh đơn thư kiến nghị, phản ánh.
3. Các bước để thực hiện phương án đã lựa chọn
Bước 1: Cán bộ BHXH thành phố hướng dẫn Công ty TNHH sản xuất đồ

may mặc JULIA thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan BHXH để nộp đầy đủ
số tiền BHXH nợ từ tháng 1->tháng 4/2018
Bước 2: Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA thực hiện giao dịch
điện tử thành công, chuyển đầy đủ số tiền nợ vào tài khoản thu của cơ quan
BHXH thành phố. Tiếp theo nộp hồ sơ đề nghị thanh toán chế độ thai sản cho
chị Quyên tại bộ phận 1 cửa BHXH thành phố để cán bộ tiếp nhận kiểm tra tính
hợp lệ của hồ sơ và tiếp nhận theo đúng quy trình.
Bước 3: Thủ tục hồ sơ để giải quyết chế độ thai sản cho lao động nữ sinh
con được quy định tại Điều 9 của Quyết định số 636/QĐ-BHXH ngày 22/4/2016
của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành quy định về hồ
sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH. Bao gồm:
- Giấy khai sinh hoặc trích lục khai sinh hoặc giấy chứng sinh của con;
- Danh sách theo mẫu C70a-HD do người sử dụng lao động lập (bản
chính).
Bước 4: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ thai sản từ
Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc JULIA, chuyển ngay cho bộ phận giải
quyết chính sách trong thời hạn không quá 1 ngày kể từ khi tiếp nhận. Bộ phận
giải quyết chế độ kiểm tra hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ thai sản của đơn vị sử
dụng lao động, tiến hành xét duyệt chế độ và lập Danh sách theo mẫu C70b-HD
chuyển bộ phận Kế toán-Chi trả và Giám định bảo hiểm y tế để thực hiện chi trả.
Chuyển ngay cho đơn vị sử dụng lao động (Công ty TNHH sản xuất đồ may
mặc JULIA) bản điện tử Danh sách C70b-HD. Thời hạn giải quyết xét duyệt hồ
sơ tối đa không quá 5 ngày.
17


Bước 5: Bộ phận Kế toán-Chi trả và Giám định BHYT tiếp nhận Danh
sách theo mẫu C70b-HD, tổ chức chi trả trợ cấp thai sản đến người lao động đầy
đủ, thuận tiện và đúng thời hạn tối đa là 4 ngày kể từ ngày nhận được Danh sách
C70b-HD; tạo điều kiện thuận lợi nhất để Công ty TNHH sản xuất đồ may mặc

JULIA thực hiện trách nhiệm chi trả trợ cấp cho người lao động đầy đủ thuận
tiện đúng thời hạn quy định.
Bước 6: Trường hợp chị Quyên nhận trợ cấp thai sản thông qua đơn vị sử
dụng lao động thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày Công ty TNHH sản xuất đồ
may mặc JULIA nhận được tiền và Danh sách theo mẫu C70b-HD do cơ quan
BHXH chuyển đến phải thực hiện thanh toán đầy đủ số tiền trợ cấp thai sản do
cơ quan BHXH giải quyết. Trường hợp chị Quyên lựa chọn nhận qua tài khoản
cá nhân thì cơ quan BHXH thực hiện thủ tục chuyển tiền vào tài khoản cá nhân
cho chị Quyên theo quy định.

18


PHẦN THỨ V: KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN
1. Kiến nghị
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự
quam tâm đối với quyền lợi của người lao động. Việc thực hiện các chế độ chính
sách Bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường, dựa trên
nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH là hoàn toàn
đúng. Những năm gần đây khi nền kinh tế thị trường nước ta phát triển mạnh,
nhiều loại hình doanh nghiệp được thành lập đã thu hút, tạo công ăn việc làm
cho hàng triệu người lao động, giảm tình trạng thất nghiệp góp phần hạn chế tội
phạm nảy sinh trong xã hội, là động lực chính để kinh tế đất nước phát triển.
Bên cạnh việc đem lại việc làm, nguồn thu nhập cho người lao động, doanh
nghiệp còn đóng vai trò là đơn vị sử dụng lao động có nghĩa vụ bắt buộc đóng
bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp
(BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ, BNN) cho người
lao động theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng vi phạm
pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN ngày càng phổ biến, có chiều hướng gia
tăng, diễn biến phức tạp với các biểu hiện: nợ đọng, trốn đóng, chiếm dụng…

tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN của người lao động dẫn đến người lao động bị
xâm hại về quyền được thụ hưởng các chính sách BHXH, BHYT, BHTN do Nhà
nước ban hành.
Để khắc phục tình trạng đơn vị sử dụng lao động nợ đọng, trốn đóng
BHXH làm ảnh hưởng đến quyền thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao
động. Thông qua tình huống vừa nêu trên, tôi mạnh dạn đề xuất một vài kiến
nghị như sau:
Một là: Cần có biện pháp xử lý mạnh mẽ hơn nữa đối với các đơn vị sử
dụng lao động có hành vi cố tình trốn đóng, chậm đóng, đóng không đúng mức
quy định về BHXH, BHYT, BHTN.

19


Hai là: Bản thân người lao động cần trang bị và nâng cao hiểu biết của
mình về các chế độ chính sách về BHXH, BHYT, BHTN để kịp thời phản ánh,
kiến nghị với đơn vị sử dụng lao động để tránh quyền lợi của mình bị xâm
phạm.
Ba là: Ngành Bảo hiểm xã hội cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền, không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền các chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nước mà cần phải đẩy mạnh tuyên truyền về mọi mặt hoạt động
của hệ thống BHXH Việt Nam cũng như kinh nghiệm về BHXH trong mọi tầng
lớp người lao động và toàn xã hội, tiến tới xã hội hoá về BHXH. Thông qua đó
giúp người lao động thấy rõ được quyền lợi và nghĩa vụ và nâng cao trách nhiệm
của mình trong việc tham gia BHXH. Cần khẳng định rằng: Chỉ khi nào người
lao động có nhận thức đầy đủ về lĩnh vực BHXH thì chính họ sẽ là người giám
sát chủ sử dụng lao động trong việc chấp hành, thực hiện nghiêm túc các chế độ,
chính sách Bảo hiểm xã hội.
Bốn là: Một số đơn vị, doanh nghiệp tuy có thành lập tổ chức công đoàn,
nhưng tổ chức này mới chỉ hoạt động có mức độ, chưa nghiên cứu thật sâu các
chế độ, chính sách BHXH nên cũng chưa đòi hỏi quyền lợi cho người lao động.

Trong khi đó, các chủ sử dụng lao động vì lợi ích cá nhân, bằng mọi cách cố tình
trốn tránh nghĩa vụ tham gia BHXH. Cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tại
một số đơn vị chưa thực sự nắm bắt được các qui định về chế độ chính sách bảo
hiểm xã hội, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến những sai sót không
đáng có. Vì vậy, cần phải bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác bảo hiểm xã hội cho
các đơn vị sử dụng lao động thông qua các kênh thông tin tuyên truyền, các lớp
tập huấn…
Năm là: Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà
nước và bảo hiểm xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chế độ, chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Quản lý tốt đối tượng đóng và tham gia bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành
cùng với ngành Bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm
20


tra về đóng BHXH, BHYT, BHTN tại các đơn vị sử dụng lao động. Đẩy mạnh
công tác thanh tra chuyên ngành để kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHYT, BHTN của đơn vị sử dụng
lao động.
2. Kết luận
Bảo hiểm xã hội có vị trí quan trọng đối với công tác an sinh xã hội của
mỗi quốc gia. Cùng với yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc Cách mạng xã hội chủ
nghĩa, từng thời kỳ khác nhau, các quy định về chính sách Bảo hiểm xã hội được
sửa đổi bổ sung một cách linh hoạt, phù hợp nhằm đáp ứng, huy động tối đa về
sức người, sức của của nhân dân cho công cuộc Cách mạng, ổn định dần dần và
ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Thông qua tình huống nêu trên để thấy rằng xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau mà hiện tượng các đơn vị sử dụng lao động có hành vi trốn
đóng, chậm đống, đóng không đúng mức quy định…vẫn còn phổ biến và ngày
càng có biểu hiện gia tăng. Đã có tình trạng người lao động có đơn thư khiếu

nại, phản ánh đến cơ quan BHXH, họ cho rằng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
trích nộp BHXH, BHYT, BHTN hàng tháng, thể hiện công khai trên bảng
lương, nhưng tại sao họ không được hưởng các quyền lợi, chế độ BHXH, BHYT
theo quy định như trường hợp của chị Nguyễn Thị Quyên vừa nêu trong tình
huống trên. Đơn vị sử dụng lao động là người trước tiên phải nhận thấy trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia quan hệ lao động đó là
việc chấp hành đúng các quy định đóng đầy đủ và kịp thời BHXH, BHYT,
BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động của
pháp luật về BHXH. Nếu không thiệt thòi trước tiên thuộc về người lao động,
tiếp đến đơn vị sử dụng lao động sẽ bị các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra
về xử lý hành vi vị phạm pháp luật về BHXH theo quy định.
Trong thời điểm hiện nay khi mà tình trạng trốn đóng, nợ đọng, trục lợi,
gian lận về BHXH, BHYT, BHTN có biểu hiện gia tăng trên phạm vi toàn quốc,
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động, làm thất thoát
21


quỹ ảnh hưởng đến việc cân đối quỹ trong ngắn và dài hạn, đồng thời ảnh hưởng
đến chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta và trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật nhất là quy phạm pháp luật chứa
đựng các chế tài bắt buộc có tính chất răn đe nhằm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong lĩnh vực thực hiện các chính sách BHXH, BHYT, BHTN là một yêu
cầu cấp thiết. Hiện nay Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội
thông qua đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 lần đầu tiên quy định các nhóm tội
danh về các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN. Cá nhân,
pháp nhân thương mại vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại
các Điều 214-Tội gian lận BHXH, BHTN; Điều 215-Tội gian lận BHYT. Điều
216-Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động. Theo đó mức án
cao nhất đối với cá nhân, tổ chức có hành vi phạm tội thuộc lĩnh vực BHXH,
BHYT, BHTN là 10 năm tù giam, ngoài ra còn bị áp dụng hình phạt bổ sung

như: phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề trong thời hạn nhất định…
Bên cạnh đó Luật BHXH số 58/2014/QH13 (gọi tắt là Luật BHXH năm 2014)
có hiệu lực từ 01/01/2016 cũng lần đầu tiên quy định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN của Giám đốc BHXH
cấp tỉnh theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012. Hy vọng với các chế tài hình sự quy định hình phạt, chế tài hành chính
quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan BHXH thực
sự là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh và có tính răn đe đối với những hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN trong thời gian tới./.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
giai đoạn 2012-2020;
2. Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
58/2014/QH 13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 (gọi tắt là Luật BHXH năm 2014);
3. Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội
bắt buộc;
4. Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
5. Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam ban hành quy trình thu BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm
tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT;
6. Quyết định số 636/QĐ-BHXH ngày 22/4/2016 của Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải

quyết hưởng các chế độ BHXH.
7. Quyết định số 828/QĐ-BHXH ngày 27 tháng 5 năm 2016 của Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam Ban hành Quy định quản lý chi trả các chế độ
BHXH, BHTN.

23



×