Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

RỐI LOẠN ĐIỀU HOÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.46 KB, 11 trang )

RỐI LOẠN ĐIỀU HOÀ - SỐT
ĐỖ HOÀNG DUNG
I. ĐẠI CƯƠNG
Điều hoà nhiệt độ cơ thể là một trong những điều kiện cơ bản nhất để tiến hành các quá
trình chuyển hoá trong cơ thể sống. Dựa vào khả năng duy trì thân nhiệt, người ta chia
động vật thành 2 loại:
- Động vật máu lạnh (loài không xương sống, cá, ếch nhái, bò sát…) thân nhiệt ổn định
khi nhiệt độ môi trường ngoài thay đổi, biến nhiệt.
- Động vật máu nóng (chim, loài có vú…) thân nhiệt khá ổn định và tương đối độc lập
với những biến đổi nhiệt độ của môi trường ngoài đẳng nhiệt hay bình nhiệt. Khả năng
điều hoà nhiệt này đặc biệt hoàn thiện ở người.
Thân nhiệt của người giao động trong giới hạn từ 36,5 – 37
0
5) không phụ thuộc vào
nhiệt độ bên ngoài và không đều nhau tuỳ theo các cơ quan, tổ chức; gan bàn chân, bàn
tay (31 – 32
0
5), nách (36,2 – 37
0
) cao nhất là ở gan (39
0
5), tương đối ổn định mở miệng
(37,2 – 37
0
5) và hậu môn (36,6 – 37
0
2). Thân nhiệt được ổn định nhờ 2 quá trình điều
hoà sản nhiệt và thải nhiệt liên quan chặt chẽ và luôn cân bằng với nhau.
1. Quá trình sản nhiệt (sinh nhiệt)
Sản nhiệt chủ yếu do kết quả điều hoà quá trình chuyển hoá vật chất để tạo ra nhiệt độ
cần thiết. Biến đổi quá trình sản nhiệt phát sinh do rối loạn điều hoà của thần kinh do


kích thích từ các bộ phận nội ngoại thụ cảm, nhất là do các yếu tố nhiệt tác dụng phản
xạ đến trung tâm điều hoà hoá học. Trên cơ sở thực nghiệm, người ta đã xác định được
trung tâm điều hoà nhiệt nằm ở não trung gian, 1/3 sau của nhân sám, gồm 2 phần điều
hoà sản nhiệt và điều hoà thải nhiệt (hình 1)
Các cơ quan ngoại vi tham gia vào quá trình điều nhiệt hoá học, sản nhiệt bao gồm tất
cả các tổ chức trong cơ thể có tiến hành chuyển hoá vật chất và sinh năng lượng, tuy
nhiên bộ phận quan trọng nhất là cơ và gan.
- Hoạt động của cơ thể là nguồn gốc sinh nhiệt chủ yếu. Dưới tác dụng của nhiệt độ
thấp đối với cơ thể, hoạt động rung cơ xuất hiện thông qua cơ chế phản xạ để tạo ra một
khối lượng lớn nhiệt (có khi sản nhiệt tăng tới 20% so với mức bình thường). Khi trời
lạnh quá, động vaạt và người đều tăng cường vận động để duy trì thân nhiệt ổn định.
- Qúa trình chuyển hoá vật chất ở gan tăng cường. Cắt bỏ các sợi thần kinh chi phối gan
sẽ gây rối loan cân bằng nhiệt và giảm sản nhiệt.
2. Quá trình thải nhiệt (mất nhiệt)
Được tiến hành bằng nhiều biện pháp:
- Truyền nhiệt và khuyếch tán nhiệt chiếm 65%, xảy ra khi nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt
độ môi trường ngoài. Sự chênh lệch càng lớn thì nhiệt độ mất càng nhiều. Nếu nhiệt độ
bề mặt da là 33
0
C thì sự thải nhiệt thực tế sẽ ngừng lại khi nhiệt độ bên ngoài đạt tới
33
0
C.
Bốc nhiệt qua da (mồ hôi) và niêm mạc đường hô hấp, chiếm 30% là biện pháp thải
nhiệt chủ yếu khi nhiệt độ bên ngoài dưới 33
0
C hay khi lao động nặng, hành quân, luyện
tập…
- Hun nóng thức ăn và không khí thở vào (3%), thải nhiệt qua phân và nước tiểu (2%).
Ngoài ra quá trình thải nhiệt còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác nhưu tốc độ vận

chuyển của không khí, độ ẩm, quần áo bề dày của lớp mỡ dưới da…
Do những cơ thể thải nhiệt trên, nhiệt độ cơ thể con người thay đổi tuỳ theo nhiệt độ
trong phòng thí nghiệm (hình 2). Chỉ riêng nhiệt độ hậu môn là phản ảnh tương đối sáng
nhiệt độ bên trong cơ thể, tuy nhiên buổi sáng sớm ngày rét thường thấp hơn và khi lo
sợ hay lao động thì thân nhiệt có tăng hơn (hình 3)
Bài tiết mồ hôi được điều hoà của các sợi giao cảm tiết cholin ở phần trước
hypothalamus và chịu sự chi phối của vỏ não nên những xung đột tinh thần, xúc cảm
mạnh đều có thể ảnh hưởng rõ rệt đến sự tiết mồ hôi. Nhiệt đọ ở đầu rất quan trọng, khi
làm nóng đầu thì phản xạ dãn mạch và tiết mồ hôi xuất hiện ngay mặc dầu thân nhiệt
chưa tăng (hình 4). Ở người chỉ cần bài tiết một ngày chừng 4 lít mồ hôi là đủ để thải
nhiệt lượng sinh ra trong cơ thể tương ứng 2000 – 2500 Kcal. Ở động vật không có
tuyến mồ hôi (chó) thì thải nhiệt chủ yếu nhờ tăng nước bọt và tăng nhịp thở.
Co, dãn mạch ngoại vi có một ý nghĩa lớn trong điều hoà thải nhiệt của cơ thể từ bề mặt
da, phát sinh theo cơ chế phản xạ. Cảm xúc mạnh cũng thường gây thay đổi vận mạch.
Điều hoà thân nhiệt còn được thực hiện bằng đường hô hấp. Tuỳ theo số nhiệt lượng
cần được thải ra mà độ sâu và tần số hô hấp thay đổi. Sự ẩm ướt, các tín hiệu ánh sáng,
tiếng động nếu kết hợp nhiều lần với tác dụng nhiệt có thể trở thành những tín hiệu có
điều kiện gây thải nhiệt theo đường hô hấp.
Sự phân chia điều hoà nhiệt hoá học và vật lý không phủ nhận tính thống nhất của toàn
bộ hệ thống điều hoà nhiệt và trong điều kiện bình thường hay bệnh lý cũng đều thấy
thể hiện mối quan hệ tương hỗ giữa hai quá trình đối lập và thống nhất của điều nhiệt.
Trong quá trình tiến hoá sinh vật, vai trò của điều nhiệt hoá học (sản nhiệt) ngày càng
giảm sút và ý nghĩa của điều nhiệt vật lý (thải nhiệt) càng quan trọng đặc biệt ở người.
Trẻ con mới đẻ, khả năng đièu nhiệt vật lý còn kém, chưa hoàn thiện nên dễ bị đổi thân
nhiệt do tác dụng của nhiệt độ môi trường, khả năng điều hoà nhiệt chỉ xuất hiện đầy đủ
vào cuối đầu năm.
Nhờ có sự toàn vẹn của các trung tâm điều hoà nhiệt cũng như của các cảm thụ và
đường dẫn truyền thần kinh mà bình thường 2 quá trình sản nhiệt và thải nhiệt luôn cân
bằng nhau và thân nhiệt được ổn định. Rối loạn điều hoà nhiệt là một hiện tượng phổ
biến trong bênh lý lâm sàng, và do ảnh hưởng một phàn của hoàn cảnh khí hậu nước ta

(xứ nóng với độ ẩm cao) nên còn là hiện tượng phổ biến trong lao động sản xuất cũng
như trong chiến đấu, luyện tập quân sự. Rối loạn điều hoà nhiệt thường biểu hiện dưới 3
hình thức: thân nhiệt tăng, thân nhiệt giảm và sốt.
II. THÂN NHIỆT TĂNG
Thân nhiệt tăng phát sinh khi nhiệt độ bên ngoài quá cao hạn chế quá trình thải nhiệt,
hoặc khi tăng sản nhiệt khi lao động ở điều kiện nhiệt độ cao (lao động giữa đồng nắng
to, trong hầm mỏ, lò cao, chiến đấu trong các binh chủng pháo, tăng, hóa học, hành quân
mùa hè…). Lúc đầu cơ thể thích ứng bằng cách giảm vận động, hạn chế sản nhiệt, đồng
thời tăng cường thải nhiệt bằng cách tăng hô hấp, dẫn mạch ngoại vi, ra nhiều mồ hôi…
Nhưng nếu yếu tố nhiệt vẫn tiếp tục cơ chế thích ứng bất lực thân nhiệt sẽ tăng cao, có
thể tới 41 – 43
0
C và phát sinh nhiễm nóng. Hệ thần kinh bị hưng phấn mạnh, chuyển
hoá vật chất và các chức phận cơ thể đều tăng, các sản phẩm của chuyển hoá và
ammoniac tăng, cơ thể mất nước và muối nghiêm trọng có thể dẫn tới truỵ tim mạch.
Sau đó động vật lâm vào trạng thái ứng chế, tê liệt các phản xạ thần kinh và các chức
năng cơ chế, hôn mê, co giật và chết.
Say nắng là tình trạng nhiễm nóng do tác dụng trực tiếp của tia nắng (ngoại tím, hồng
nội) lên đỉnh đầu, gáy.
III. THÂN NHIỆT GIẢM
Thân nhiệt giảm phát sinh do nhiệt độ bên ngoài quá thấp hoặc giảm phản nhiệt do rối
loạn chuyển hoá quan trọng (sốc, mất máu nhiều, biến chứng các bệnh nhiễm trùng….)
Thân nhiệt giảm gây nhiễm lạnh. Lúc đầu cơ thể phản ứng bằng cách tăng cường sản
nhiệt (tăng các chức phận, tăng quá trình ôxi hoá, tăng hoạt động cơ…). Sau đó chuyển
sang giai đoạn ức chế, hoạt động thần kinh giảm, chuyển hoá giảm, chức phận các cơ
quan hệ thống đều giảm. Nếu nguyên nhân nhiễm lạnh vẫn tiếp tục tác dụng sẽ phát sinh
trạng thái cận sinh và tê liệt nghiêm trọng hệ thần kinh trung ương và các chức phận
quan trọng của cơ thể, hôn mê và chết khi thân nhiệt giảm dưới 25
0
C

Cơ sở của việc áp dụng giảm thân nhiên nhân tạo trong lâm sàng được rút ra từ những
công trình nghiên cứu nhằm phục hồi các cơ thể bị băng giá. ở các động vật ngủ đông
(đông miên) trong thời ngủ các chức phận cơ thể đều giảm tiêu hao tới mức tối thiểu,
chuyển hoá vật chất giảm nhu cầu ôxi giảm, tính phản ứng cơ thể giảm và thân nhiệt
thấp được coi như một thời gian nghỉ ngơi và bồi dưỡng năng lượng cho động vật.
Phương pháp giảm thể nhiệt hay đông miên nhân tạo dựa vào các nguyên lý sau: Làm
lạnh cơ thể bằng các biện pháp vật lý như: Chườm đá quanh cơ thể, ngâm lạnh, thở
không khí lạnh hoặc áp dụng một hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể để làm lạnh máu.
Trước khi làm lạnh cơ thể, để ngăn ngừa các phản ứng kích thích khi tác dụng trực tiếp
với lạnh để bảo tồn năng lượng dự trữ cho cơ thể, có thể dùng các máy gây mê có điều
chỉnh hoặc dùng các thuốc phong bế hạch và liệt thần kinh nhằm ứng chế có mức độ hệ
thần kinh trung ương và thực vật. Trong giảm thân nhiệt nhân tạo vừa phải (nhiệt độ cơ
thể 32 – 28
0
C) hoặc sâu dưới (28
0
C) cơ thể sống với mức tiêu hao tối thiểu, nhu cầu ôxi
giảm thấp (hình 5) giảm nhẹ được phản ứng cơ thể đối với thương tích cũng như đối với
các kích thích khác nên tránh được sốc, chịu đựng được những thủ thuật trên cơ thể yếu
nhược, vết thương sọ não, phẫu thuật ở trẻ em, phẫu thuật kéo dài thời gian ở các cơ
quan quan trọng (tim, gan, phổi….). Sau khi ngừng tác dụng, phải sưởi ấm cho cơ thể
tới mức thân nhiệt bình thường mới cho bệnh nhân tỉnh lại.
IV. SỐT
Sốt là phản ứng của người và động vật cao cap đối với những kích thích nguyên nhân
bệnh lý, đặc điểm là tăng nhiệt độ cơ thể. Sốt được coi như một triệu chứng chung nhất
trong các bệnh khác nhau chủ yếu là trong tất cả các bệnh nhiễm khuẩn.
Sốt điển hình chỉ thấy ở người và các động vật bình nhiệt cao cap (chó, thỏ, chuột…)
mà hệ thần kinh trung ương đạt mức độ phát triển cao và chức năng điều hoà nhiệt đã
hình thành. Tăng thân nhiệt trong sốt là sự tích luỹ tạm thời nhiệt lượng tạo thành một
mức độ bình nhiệt mới cao hơn, có tác dụng tích cực chủ động cho nên trong sốt cơ thể

chịu đựng được nhiệt độ cao hàng tuần. Trong nhiễm nóng, ngược lại các trung tâm
điều nhiệt bị rối loạn nghiêm trọng không phải được nhiệt lượng thừa nên thân nhiệt
tiếp tục tăng cao và sự chịu đựng của cơ thể thường chỉ được vài giờ.
A. NGUYÊN NHÂN GÂY SỐT.
Sốt phát sinh do các nguyên nhân nhiễm khuẩn, do các tác dụng các chất gây sốt, ngoại
sinh và nội sinh.
1. Chất gây sốt ngoại sinh
Là các chất gây sốt được bài tiết từ các vi khuẩn trong qúa trìn hoạt động sống hoặc
chết. Hoạt tính gây sốt gần như có sẵn ở tất cả các vi khuẩn gây bệnh và không gây
bệnh, có thể ở cả vi rút. Không phụ thuộc vào tính gây bệnh và độc tính của chúng.
Bằng cách chiết xuất hoá học đặc hiệu từ các vi khuẩn khác nhau, có thể tách được các
chất gây sốt ngoại sinh tinh khiết và ít độc. Cấu trúc hoá học của các chất gây sốt ngoại
sinh là mỡ – da dường và là thành phần các nội độc tố của các tế bào vi khuẩn. Chất gây
sốt ngoại sinh tinh khiết có hoạt tính với điều rất nhỏ ở người (1micro/cân) và ở thỏ
(0,01 – 0,001micro/cân). Sốt ở thỏ do chất gây sốt ngoại sinh xuất hiện sau một giai
đoạn tiền ngắn và tăng nhiệt độ giữ được vài giờ cho nên hiệu quả các chất gây sốt
thường được tiến hành trên thỏ. Hoạt tính gây sốt thấy ở ngoại độc tố (bạch cầu, liên
cầu tan máu) thường gây sốt sau một thời gian tiêm kéo dài 3 – 6 giờ.
Chất gây sốt ngoại sinh còn có tác dụng gây sốt qua các cấu trúc tế bào tổ chức tổn
thương, tức là qua sự tạo thành các chất gây sốt nội sinh.
2. Chất gây sốt nội sinh
Các tế bào và tổ chức của cơ thể khác với các tế bào vi khuẩn là không có sẵn các yếu tố
gây sốt. Chất gây sốt nội sinh chỉ được tạo ra trong các điều kiện bệnh lý phù hợp, trong
các bệnh nhiễm khuẩn và cả trong các tổn thương vô khuẩn và viêm nhiễm tổ chức, từ
các tế bào bị tổn thương dịch dị, các đạm máu biến chất, các bạch cầu trung tính, các tế
bào Lympho và tế bào nách trong các phản ứng dị ứng chậm đều có thể là nguồn gốc tạo
các chất gây sốt nội sinh. Được nghiên cứu nhiều chất là các chất gây sốt nội sinh chiết
từ các bạch cầu trung tính trong dịch di thoát từ các huyết quản bị viêm. Thành phần hóa
học gồm chất đạm và 1% chất da dường, đặc biệt là gây sốt nhanh, nhiệt độ tăng ngay
sau 10 – 15 phút và không bị quen đường thuố cỏc

B. CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA SỐT
1. Vai trò của hệ Thần kinh trung ương và các tuyến nội tiết trong cơ chế phát sinh sốt.
- Vỏ não và các trung khu dưới vỏ có một ý nghĩa quan trọng trong cơ chế của sốt.
Trong thực nghiệm có thể gây được số theo cơ chế phản xạ có điều kiện ở chó sau 10
lần tác dụng một số yếu tố vô quan kết hợp với tiêm chất gây sốt ngoại sinh vi khuẩn.
Thân nhiệt ở người có thể tăng ảnh hưởng củ thôi miên trong các bệnh tâm thần (sốt tâm
lý), trong cơn histêri nhiệt độ cơ thể có thể tăng tới 42
0
C. Sốt do xúc cảm có thể thấy ở
các diễn giả, các diễn viên, các học sinh trong kỳ thi... ở động vật mất vỏ não cả 2 bên,
sốt phát sinh với nhiệt độ tăng cao hơn so với động vật lành vì đã loại trừ ảnh hưởng ức
chế của vỏ não đối với các trung khu điều nhiệt dưới vỏ. Trong gây mê sâu, phản ứng
sốt giảm rõ rệt.
- Vùng dưới thị được coi như một trung tâm điều hoà nhiệt tự động quan trọng. Tất cả 3
nhóm nhân đều tham gia voà sự phát sinh phản ứng sống. Các nhân giữa và sau của
hypothalamus chủ yếu điều hoà sản nhiệt và giữ nhiệt lưọng trong cơ thể qua hệ thần
kinh giao cảm (tăng quá trình ôxy hoá chuyển hoá, mạch ngoại vi) và qua các phân bố
thần kinh xôma cơ - xương (tăng chương lực cơ, co cơ, rùng mình). Các nhân phần
trước khi hypothalamus chủ yếu điều hoà thải nhiệt qua các phân bổ thần kinh phó giao
cảm (dãn mạch), các sợi giao cảm thiết cholin (bài tiết mồ hôi) và các phân bổ thần kinh
xôma các cơ thở (tăng hô hấp). Tổn thương hoàn toàn hypothalamus hoặc cắt thân não
dưới hypothalamus động vật bình nhiệt bị biến đổi thành biến nhiệt và mất khả năng gây
sốt.
- Từ các trung tâm điều nhiệt, các xung động đi về tuỷ sống rồi tới các cảm thụ thần
kinh. Các nghiên cứu thực nghiệm của Vêceklin đã chứng minh cơ chế phản xạ thần
kinh là cơ chế khởi đầu của phản ứng sốt. Khi tiêm chất gây sốt cho động vật, chất gây
sốt trước hết kích thích các cơ quan cảm thụ cục bộ, một mặt vào máu đưa đi khắp cơ
thể tác dụng lên toàn bộ hệ thống các nội thụ cảm, đồng thời tác dụng trực tiếp lên trung
tâm điều hoà nhiệt để gây sốt. Cắt bỏ dây thần kinh hướng tâm ở hơi tiêm chất gây sốt
hoặc phong bế Novocain trước khi tiêm chất gây sốt phản ứng rõ rệt 8-18 giờ sau sốt

mới xuất hiện và 10-20giờ (sau sốt mới đạt mức tối đa). Binh thường sốt sau một giờ và
chỉ 10 giờ sau đã đạt mức tối đa. Duy trì phản ứng tốt trong trường hợp này chứng tỏ
ảnh hưởng trực tiếp của chất gây sốt đối với trung tâm điều nhiệt qua đường máu
Các tuyến nội tiết, hệ tuyến yên_tuyến thượng thận bị kích hoạt bởi ảnh hưởng của
các tuyến gây sốt nhưng phản ứng Stress này không tham gia vào cơ thể phát sinh sốt.
Trong ưu năng tuyến giáp thấy thân nhiệt thường xuyên hơi tăng., hocmon thyroxin gây
tăng quá trình oxy hoá trong tổ chức. ậ bệnh nhân thểu năng tuyến giáp trạng ngược lại
phản ứng sốt biểu hiện không rõ rệt.
2. Cơ chế của tăng thân nhiệt trong sốt;
Trước kia có quan niệm rằng tăng thân nhiệt trong sốt là do thừa nhiệt lượng (tăng
sản nhiệt) và tăngcường các quá trình oxy hoa chuyển hoá . Tuy nhiên trong quá trình
sốt không phải đều có tăng sản nhiệt và sản nhiệt không nhiều, không phải là yếu tố
quyết định. Tróng sốt rét, thương hàn, sản nhiệt chỉ tăng 40_60% so với bình
thường trong khi đó một người khoẻ mạnh lao động cơ vừa phải, sản nhiệt đã có thể
lên tới 100_200% nhưng không sốt do thải nhiệt mạnh (thở nhanh, ra nhiều mồ hôi) bù
đắp. ở một số bệnh nhiễm khuẩn (phó thương hàn…) nhu cầu oxy chỉ 11,1 ml/cân/phút
(bình thường 11,5ml/cân/ phút), như vậy sốt chủ yếu do quá trình thải nhiệt bị ức chế,
độc tố vi khuẩn gây rối loạn các quá trình oxy hoá và chuyển hoá năng lượng trong tế
bào. Có thể kết luận cơ chế của tăng thân nhiệt là sự tích luỹ tạm thời nhiệt lượng do
tăng sản nhịêt và ức chế thải nhiệt.
Trong cơ chế phát sinh sốt do nhiễm khuẩn có sự tham gia của các chất gây sốt ngoại
sinh và cả sự tạo thành các chất gây sốt nội sinh nữa. Còn bệnh sinh của sốt được giải
phóng từ các tổn thương (huỷ hoại, tổ chức, bỏng, tụ máu, gãy xương…). Ngoài ra hoạt
tính gây sốt còn có thể thấy ở một số chế phẩm dược lý, hormon, hợp chất keo, muối…
không phải là những kích thích chỉ đối với các trung tâm điều nhiệt mà cả từ những mắt

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×