Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.61 KB, 7 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Phú Ninh
Tên đề tài sáng kiến:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO
HỌC SINH LỚP 2.
1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến :
2- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giảng dạy lớp 2.
Sáng kiến này có thể sử dụng trong các tiết học chính và các tiết ôn luyện
nhằm giúp học sinh viết đúng chính tả.
3- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử : Năm học
2019 - 2020
4- Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Chính tả là lối viết đúng, viết hợp với chuẩn của một ngôn ngữ. Trong các
loại hình văn bản, chính tả phải thống nhất trên toàn quốc và giữa các thế hệ.
Phân môn chính tả là một trong những phân môn quan trọng, góp phần hỗ trợ
cho học sinh học tốt bộ môn Tiếng Việt.
Viết chính tả đòi hỏi học sinh nắm vững được các quy tắc về chính tả và
ngữ pháp; hiểu biết về từ vựng và ngữ nghĩa; có một số vốn từ ngày càng phong
phú; kỹ năng viết phải đạt tới tốc độ nhanh dần; đảm bảo tính chính xác và thẩm
mĩ. Các mức độ cần đạt ở từng kỹ năng, không chỉ được sắp xếp từ thấp đến
cao, mà còn được nâng dần theo mỗi lớp để đảm bảo yêu cầu phát triển trình độ
học tập của học sinh từ lớp đầu đến lớp cuối cấp bậc Tiểu học.
Như chúng ta đã biết, chữ Quốc ngữ là chữ viết ghi âm vị , xây dựng trên cơ
sở chữ cái La tinh, là chữ viết được sử dụng hiện nay của người Việt ở tất cả các
cấp học, ngành học, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chữ viết ghi âm
được đặt ra là để ghi lại ngôn ngữ âm thanh. Nhưng ngôn ngữ âm thanh của con
người thì luôn biến đổi theo thời gian, còn chữ viết thì lại có xu hướng tồn tại
vững chãi. Qua thời gian, sự khác biệt giữa âm và chữ tích tụ ngày càng nhiều


gây khó khăn cho chính tả.
Do đặc thù của địa phương là một vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam, học sinh
nói tiếng địa phương là chính. Vì thế việc viết sai lỗi chính tả là không tránh
khỏi, nhất là đối với những em học yếu. Đối với học sinh lớp 2 thì môn Chính tả
là một phân môn đáng lo, đặc biệt là ở phần nghe - viết. Do đặc thù là học sinh
lớp 1 mới lên lớp 2 còn nhiều bỡ ngỡ. Là giáo viên đứng lớp nên thấy rõ là rất
khó, nhất là đối với học sinh vùng quê nghèo, ba mẹ suốt ngày lo làm lụng vất
vả để kiếm cái ăn và “giao” luôn con cái của mình cho nhà trường. Là một giáo


viên tiểu học, tôi rất buồn mỗi khi chấm bài của các em. Bài Tập làm văn hay
Chính tả của các em không dài thậm chí có bài chỉ 3- 5 câu nhưng để đọc và sửa
lỗi cho các em thì thật vất vả. Chất lượng học tập, tỉ lệ các em đạt hoàn thành tốt
ở phân môn tiếng việt cao hay thấp phần lớn dựa vào việc viết đúng chính tả. Có
viết đúng chính tả thì các em mới học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học
khác. Việc dạy học sinh viết đúng chính tả là một việc làm vô cùng khó khăn, nó
đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều yếu tố, nhiều biện pháp ,
phương pháp và hình thức dạy học. Chính điều này đã thôi thúc tôi cố gắng tìm
giải pháp để điều chỉnh bớt lỗi chính tả cho các em. Đó là lí do tôi chọn đề tài :
Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2
4.2 Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết:
1. Chính tả giúp học sinh hình thành và phát triển một số kĩ năng nghe và
viết; đồng thời giúp các em nhận thức được các quy tắc chính tả, ngữ pháp;
không những thế mà còn buộc các em phải hiểu được từ vựng, ngữ nghĩa,...
2. Mục tiêu của phân môn chính tả nhằm:
- Rèn kỹ năng viết và nghe chính tả.
- Kết hợp kỹ năng viết chính tả với việc rèn luyện kỹ năng phát âm, củng
cố nghĩa của từ; trau dồi về ngữ pháp Tiếng Việt; góp phần phát triển một số tư
duy cho các em (nhận xét, so sánh, ghi nhớ, liên tưởng,...).

- Bồi dưỡng một số đức tính và thái độ trong công việc như: cẩn thận,
chính xác, thẩm mỹ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm.
3. Biện pháp nâng dần học sinh yếu phân môn chính tả, phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 5, phù hợp với chương trình quy định của Bộ Giáo
dục & Đào tạo, phù hợp với trình độ và khả năng tiếp thu của các em.
4. Qua phân môn chính tả, nhằm góp phần bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt
và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt; điều này
nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4.3 Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp:
Căn cứ vào nguyên nhân trên, để giải quyết vấn đề khó, theo tôi cần nghiên
cứu 2 nội dung sau: phần giải pháp và phần các bước thực hiện.
1. Phần giải pháp:
a. Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả:
Như chúng ta đã biết: đọc thông thì viết mới thạo. Học sinh đọc còn chậm và
sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả. Vì vậy, đối với những học sinh này,
trước hết phải luyện đọc cho các em, bằng cách:
- Gọi các em đọc bài nhiều lần, không chỉ ở môn Tập đọc mà còn ở tất cả các
môn khác: Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu, Khoa học, Lịch sử, Địa lí,…
- Phân công học sinh giỏi ngồi cùng bàn với các em để khi luyện đọc nhóm
đôi sẽ kịp thời chỉnh sửa.
- Giao bài cho các em luyện đọc và viết ở nhà (cả lớp), ngày hôm sau ban
cán sự lớp hoặc giáo viên kiểm tra.

2


b. Tập phát âm cho đúng: nghĩa là phát âm theo những từ phân biệt đã được
ghi nhận trong chính tả.
Khi phát âm những tiếng có âm đầu “s” thì các em đọc uốn lưỡi, hơi nặng,

không xì hơi. Khi phát âm những tiếng có âm đầu “x” thì các em đọc không uốn
lưỡi, hơi nhẹ, đọc xì hơi. Qua đó tôi cho các em ghi nhớ cách phát âm này.
Khi đọc tiếng có dấu ngã thì đọc hơi nặng hơn những tiếng có dấu hỏi.
c. Cố gắng nhớ từng từ một:
Nắm vững chính tả là một rèn luyện cực kỳ lâu dài, thông qua các hoạt động
học, viết hằng ngày và đây là một phương pháp khó thấy ngay kết quả, đòi hỏi
học sinh phải nhẫn nại, khổ công.
d. Hướng dẫn học sinh dùng các mẹo chính tả:
Ở lớp 1, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 2 các em
vẫn thường xuyên ôn lại. Nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để
viết chính tả.Nhiều em chưa nắm vững các quy tắc,mẹo luật chính tả, có em phát
âm sai dẫn đến bài viết sai nhiều lỗi chính tả, có em phát âm sai dẫn đến bài viết
sai nhiều lỗi chính tả.
Mạt khác một số e dothiếu cẩn thận nên để thừa hoặc thiếu một số nét,thiếu
dấu dẫn đến sai lỗi chính tả.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
Sau khi đưa bàn bạc chất lượng, thực trạng phân môn chính tả. Tổ chuyên
môn đã thống nhất cho phép GVCN lớp 2/4 tiến hành thực nghiệm các giải pháp
sau:
a. Luyện viết chính tả thông qua con đường từ phụ huynh:
Trong buổi họp phụ huynh đầu năm do nhà trường tổ chức, tôi thông báo đến
phụ huynh tình hình học tập của học sinh và bàn để thống nhất một số biện
pháp, cách thức rèn luyện viết chính tả cho các em lúc ở nhà, nhằm để cùng giáo
viên chủ nhiệm tháo gỡ những khó khăn đã nêu; với nội dung như sau:
+ Nhấn mạnh tầm quan trọng của phân môn chính tả, tác dụng và ích lợi của
nó.
+ Thông báo thời khóa biểu trong một tuần (2 tiết).
+ Thông báo kết quả về bài kiểm tra và lỗi chính tả của các em thường mắc
phải.
Lỗi về dấu thanh:

Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học
sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này
không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ:
Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,…
*Lỗi phụ âm đầu:
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ c/k: Céo co…
+ng/qu: ông quại (ngoại), bên quài(ngoài)
+ g/gh: Con ghà , gê gớm…
+h/qu: quảng hốt (hoảng hốt), phá quại (phá
hoại)
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…

3


+ s/x: Cây xả , xa mạc…
* Lỗi âm cuối, vần:
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc…
+ an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...
+âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)...
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…
+ư/ươi: con ngừ , hai mư...
+ Phổ biến cách hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà ( chủ yếu là yêu
cầu các em chép trước bài tập đọc hoặc bài chính tả sẽ học vào hôm sau).
+ Phụ huynh cho học sinh phát hiện từ khó và luyện viết từ khó (giám sát).
+ Phụ huynh chấm bài cho các em sau mỗi lần viết.

+ Phụ huynh hướng dẫn các em “cố gắng nhớ từng từ” - như đã nêu ở trên.
+ Giáo viên kiểm tra bài viết ở nhà của các em trong 15 phút đầu giờ.
b. Luyện viết chính tả thông qua con đường GVCN:
+ Luyện phát âm và phân tích cách phát âm:
- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng,
đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh,
các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết
Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết
học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn….
+ Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:
Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu
tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau
để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo viên yêu
cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- làng = l + ang + thanh huyền
- làn = l + an + thanh huyền.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”, tiếng “làn” có
âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
+ Phân biệt bằng nghĩa từ:
Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh
hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết
Tập đọc, Luyện từ và câu…nhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích
cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu
tạo tiếng.
Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn): Bàn= cái bàn – bàng =cây
bàng hoặc phân biệt Bác và bát : bác=anh của ba, Bác Hồ - bát = đồ dùng ăn
cơm (bát đũa)
Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong
văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.

+ Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:
Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp
cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các
4


em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ
kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie.
Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẽ,
sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng
một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2
nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang- sắc =
hỏi/ Huyền- nặng = ngã
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang
thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ:
Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ…
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ…
Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã
Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác
như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật
đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum,
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn,
châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu

bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt,
sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc,
sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh,
khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng,
lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,
pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng,
thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã
khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
+ Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để
giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ
trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc
chính tả để các em ghi nhớ.
Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh
không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các
môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này phải
5


được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng
“viết đúng” trong mọi tình huống.
Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời là rất cần
thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả
là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ. Giáo
viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ,

quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ…Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan
sát, kiểm tra, … từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi
mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
Đây là con đường rèn luyện cho các em thường xuyên lâu dài, mọi lúc, mọi
nơi: khi giờ ra chơi, lúc đầu buổi, ở các buổi dạy hai buổi/ ngày, hoặc hướng dẫn
các em về nhà tự học theo bài tập giáo viên cho sẵn về nhà. Tập phát âm đúng,
dùng các mẹo chính tả.
Song song với việc rèn luyện, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa
lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho
các em đổi vở soát lỗi cho nhau: dùng bút chì gạch chân lỗi của bạn đã viết sai
rồi trả vở để bạn sửa lỗi ngay dưới bài viết. Đối với học sinh viết sai nhiều (trên
5 lỗi), tôi cho em đó viết lại bài chính tả và nhận xét lần nữa. Vở chính tả của
các em, tôi thường tranh thủ giờ ra chơi để chấm hết cả lớp. Khi trả vở, tôi tuyên
dương những em có tiến bộ, khen ngợi những em soát lỗi chính xác.
Bên cạnh đó việc chấm chữa bài cho học sinh sau khi viết chính tả cũng
không kém phần quan trọng thường giáo viên thu tất cả vở học sinh rồi tự mình
chấm. Nhưng như vậy giáo viên đã bỏ qua bước cho học sinh tự sửa lỗi trên vở
của mình hoặc của bạn. Như vậy việc bản thân tự sửa lỗi chính tả cho mình hoặ
cho bạn sẽ giúp
Học sinh khắc sâu và nhớ lâu hơn những lỗi sai mà mình mắc phải.
Viết đúng chính tả không chỉ là cách viết đúng tiếng từ mà gồm cả cách viết
hoa, cách dùng dấu câu. Vì thế tôi luôn nhắc nhở học sinh không viết hoa tùy
tiện và kết hợp phân môn luyện từ và câu để hướng dẫn học sinh sử dụng dấu
câu.
Điều quan trọng nhất là lúc nào giáo viên cũng trang bị cho học sinh, nhắc
nhở học sinh viết đúng chính tả ở tất cả các phân môn khác và chú ý lỗi chính tả
cho học sinh mặc dù đang học phân môn khác và rèn luyện chữ viết cho học
sinh.
Giáo viên phải hòa mình gần gũi với học sinh khuyến khích động viên các
em học tập, khen thưởng kịp thời, phê bình đúng lúc.

Tổ chức trò chơi cho các em hứng thú học tập.
Tạo cho học sinh niềm vui, niềm tin trong học tập. Các em cảm nhận nhà
trường là mái ấm là niềm vui không thể thiếu. Các em ngày càng yêu trường
mến lớp và ham thích học tập hơn.
c. Bố trí chỗ ngồi:
Bố trí các em viết còn yếu ngồi ở các dãy bàn trên và ở ngoài đầu bàn, nhằm
để giáo viên chủ nhiệm dễ kiểm soát, kiểm tra tốc độ viết, kiểm tra sai sót hoặc
các em gặp khó khăn khi đang viết nhằm để nhắc nhở uốn nắn kịp thời. Thực tế
trong lớp tôi xếp cho em Anh Quốc, Quý Bảo ngồi ngay bàn đầu, trước mặt giáo
6


viên; em Duy, Nhân, Nin đều ở bàn thứ hai hoặc ba nhưng đầu bàn rất dễ kiểm
tra, giám sát.
4.5 Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Dưới đây là kết quả rèn luyện mà học sinh lớp 2/4 của tôi đã đạt được từ
giữa kì I đến cuối kì I như sau:
Tổng số học sinh : 33
Học sinh viết còn sai nhiều lỗi: 15
Đến giữa HKI: còn 10 em
Cuối HKI: còn 7 em
5- Những thông tin cần được bảo mật : không có
6- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau khi tôi thực hiện cách làm này, chất lượng viết chính tả của học sinh yếu
đã có nét chuyển biến đáng kể. Điều làm tôi phấn khởi nhất là em Quý Bảo và
em Anh Quốc đã biết tự đánh vần được để viết, giảm đáng kể lỗi sai. Và nhiều
emkhacs trong lớp không còn nhầm lẫn giữa tiếng địa phương và tiếng phổ
thông nữa. Ngoài ra, trong giờ học các em rất sôi nổi luôn thi đua viết đúng
chính tả, đôi khi còn đố nhau cách viết những từ rất khó và lạ nữa. Cụ thể là qua

bài cuối học kì 1 vừa qua. Tôi tin tưởng rằng, cứ đà này thì đến cuối học kì II,
chất lượng phân môn chính tả lớp tôi sẽ cao hơn nữa.

7



×