Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.15 MB, 208 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ GIANG THU

XÂY DỤNG
■ VÀ HOÀN THIỆN
■ KHUNG PHÁP LUẬT

THỊ TRƯỬNG CHÚNG KHOÁN ở VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật kinh tế
M ã số

: 5.05.15

THƯ VIỆN
ĨRƯỜNG ĐA! HOC LlÌÂT HÀ NÔI
PHỎNG G V

6^3

LUẬN ÁN TIẾN S ĩ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa h ọc: 1. TS. Nguyễn M inh Mẫn
2. TS. Phạm Trọng Bình

HÀ NÔI - 2002


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận ấn chưa tìừig được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Thị Giang Thu


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

Chưomg 1 :

1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ THỊ TRƯỜNG CHÚNG

7


KHOÁN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG
CHÚNG KHOÁN

1.1.

Khái quát về thị trường chứng khoán

7

1.2.

Quan niệm về khung pháp luật thị trường chứng khoán

24

1.3.

Đặc điểm cơ bản của quá trình hình thành khung pháp luật thị
trường chứng khoán Việt Nam

51

1.4.

Vai trò của khung pháp luật thị trường chứng khoán

60

Chương 2:


68

THỰC TRẠNG KHUNG PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

2.1.

Về các nguyên tắc pháp lý cơ bản của khung pháp luật thị

68

trường chứng khoán
2.2.

Thực trạng pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam

81

Chương 3:

137

ĐỊNH HƯỚNG, GIẨI PHÁP c ơ BẢN NHẰM HOÀN
THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

3.1. Những căn cứ cho việc đề ra định hướng và giải pháp xây dựng,

137


hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán
3.2. Một số định hướng cơ bản của việc tiếp tục xây dựng, hoàn

144

ihiện khung pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam
3.3 Những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật thị trường
chứng khoán Việt Nam

157

KẾT LUẬN

192

NHŨNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG Bố

194

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

195


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán hình thành và
phát triển như một tất yếu, khi nền kinh tế ấy đạt những tiêu chuẩn nhất định.
Tuy nhiên, mức độ phát triển cụ thể thị trường chứng khoán từng quốc gia lại
phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Sự khác nhau về mức độ phát triển nền kinh tế - xã hội, tính hoàn thiện, tính
hiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định cho
việc vận hành bình thường thị trường chứng khoán.
Ở nước ta, từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hình
thành và phát triển từng bước thị trường chứng khoán.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra yêu cầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị
trường chứng khoán phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo đó, khung pháp luật thị trường chứng khoán nước ta
dần được hình thành và đang đi vào cuộc sống. Thị trường chứng khoán ở
nước ta còn là vấn đề mới mẻ trong khoa học pháp lý. Vì vậy, việc nghiên cứu
làm sáng tỏ bản chất, cơ cấu thị trường chứng khoán, trên cơ sở đó thể chế hóa
kịp thời, đầy đủ những yêu cầu thị trường chứng khoán đặt ra có ý nghĩa quan
trọng. Ở phương diện này, khung pháp luật và khung pháp luật thị trường
chứng khoán nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu
để tìm ra những luận cứ khoa học, những định hướng và giải pháp cho việc
xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam là
đòi hòi bức thiết cả về lý luận và thực tiễn.


2

2. Tình hình nghiên cứu đ ề tài
Trên thế giới, thị trường chứng khoán và pháp luật về thị trường chứng
khoán đã hình thành và được vận hành từ lâu. Thị trường chứng khoán gắn với

kinh tế thị trường, là đối tượng được nhiều nhà khoa học pháp lý, kinh tế
nghiên cứu. Chẳng hạn như các kết quả nghiên cứu pháp luật, kinh tế của các
chuyên gia Công ty tài chính quốc tế, các trung tâm nghiên cứu luật thị trường
chứng khoán quốc gia thuộc ủ y ban Chứng khoán Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc.
Ở nước ta, sự ra đời của thị trường chứng khoán gắn với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế. Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị
trường chứng khoán đang được sự quan tâm đông đảo của các nhà khoa học
thuộc nhiều lĩnh vực. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề khung pháp luật thị
trường chứng khoán như: Một số chế định liên quan đến phát hành và kinh
doanh chứng khoán của TS Nguyễn Minh Mẫn; Pháp luật điều chỉnh thị trường
chứng khoán ở Việt Nam của TS Vũ Bằng; Phát hành chíữig khoán và những
qui định điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng của TS Phạm
Trọng Bình; Tăng cườỉig hoàn thiện khung pháp lý thị trường clubig khoán của
TS Trần Cao Nguyên; Thực trạng pháp luật về chíùig khoán, thị trường chứng
khoán ở Việt Nam và đôi nét hoàn thiện của TS Đinh Dũng Sĩ; Đổi mới và
hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt
Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh Mẫn; Xây dipig và hoàn thiện
khung pháp luật thị trườĩig chíữig khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của
Phạm Thị Giang Thu.
Ngoài ra, vấn đề khung pháp luật thị trường chứng khoán còn thu hút
sự chú ý của nhiều đề tài khoa học như: Dự án Tăng cường năng lực pháp luật
tại Việt Nam VTE/94/001, Dự án VIE/98/001; Nhữỉìg vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp lý của quá trình hợp tác và hội nhập quốc t ế - khu vực của Việt Nam,


3

đề tài khoa học cấp Nhà nước của Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật;

Cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán ở Việt Nam của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập
đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của khung pháp luật thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu ở cấp tiến sĩ luật
học mang tính lý luận về khung pháp luật thị trường chứng khoán và nhất là
thực trạng khung pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam, trên cơ sở đó
đưa ra những kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường
chứng khoán thì cho đến nay vẫn chưa có.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán, từ thực tiễn xây dựng
pháp luật trong thời gian qua, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ
quan niệm về khung pháp luật thị trường chứng khoán, vai trò và đặc điểm của
khung pháp luật thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán vận hành
đồng bộ. Trên cơ sở đó tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ yêu cầu của đề tài là xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam nên luận án đưa ra cơ cấu cơ bản của
khung pháp luật thị trường chứng khoán nói chung, đánh giá với thực trạng khung
pháp luật thị trường chứng khoán nước ta, tìm ra những bộ phận hoặc những
nội dung còn thiếu hoặc chưa đạt yêu cầu so với tiêu chuẩn đã chọn. Những
nội dung chưa có, chưa hoàn chỉnh, cần phải xây dựng mới hoặc tiếp tục xây
dựng cho hoàn chỉnh thêm. Những nội dung đã đạt yêu cầu bước đầu, cần phải
tiếp tục giữ vững và hoàn thiện cùng với yêu cầu thực tế. Đó chính là quá trình
vừa xây dựng, vừa hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán nước ta.


4


Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thị trường chứng khoán như là
đối tượng điều chỉnh của khung pháp luật thị trường chứng khoán.
- Nghiên cứu, lý giải khái niệm, cơ cấu, đặc điểm khung pháp luật thị
trường chứng khoán; từ đó xác định vai trò khung pháp luật thị trường chứng
khoán đối với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của khung
pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đây cũng chính là những thành
tựu đã đạt được cũng như một số vấn đề còn tồn tại của quá trình xây dựng
khung pháp luật thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian qua.
- Đề ra những định hướng, giải pháp nhàm xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và có quan hệ mật thiết với
nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phương tiện
quan trọng nhất đảm bảo thị trường chứng khoán vận hành bình thường và
phát huy tác dụng. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung nghiên cứu trong khuôn
khổ khung pháp luật kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường chứng khoán
mà không nghiên cứu toàn bộ vấn đề liên quan tới cơ chế kinh tế và cũng
không nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng gián tiếp tới thị trường chứng
khoán. Khái niệm khung pháp luật thị trường chứng khoán được đề cập trong
luận án là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các nguyên tắc pháp lý cơ bản của
khung pháp luật thị trường chứng khoán cùng tổng thể các qui phạm pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có quan hệ trực tiếp đến quá trình
hình thành và vận động của thị trường chứng khoán.
Mặc dù chứng khoán và thị trường chứng khoán có mối quan hệ không
tách rời nhau, nhưng trong khuôn khổ đề tài này, luận án chỉ giới hạn nghiên


5


cứu chứng khoán như là một loại hàng hóa của thị trường chứng khoán mà
không nghiên cứu mọi vấn đề liên quan đến chứng khoán nói chung. Cụ thể
là, luận án này chỉ nghiên cứu những vấn đền chính liên quan đến thị trường
chứng khoán, trong đó chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán.
Khi nghiên cứu khung pháp luật thị trường chứng khoán, luận án cũng
tập trung nghiên cứu những nội dung có liên quan trực tiếp nhất đến sự hình
thành và hoạt động thị trường chứng khoán. Vì vậy, hướng nghiên cứu của
luận án luôn bám sát những yêu cầu thị trường chứng khoán mà pháp luật cần
phải thể chế hoá và đảm bảo thực hiện.
Tác giả luận án cũng nhận thức được, để hoàn thiện khung pháp luật
thị trường chứng khoán, cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau như cải cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý của đội
ngũ cán bộ, cải cách thủ tục hành chính, tạo tiền đề về cơ sở vật chất cho thị
trường... Đó là những vấn đề rất phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu ở
các công trình khoa học pháp lý tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềm
năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án
vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, của lý
luận nhà nước và pháp luật trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Trong đó, luận
án đặc biệt chú ý vận dụng phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử để
phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề
mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án có những điểm mới sau:



6

- Luận án là công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ luật học một cách
có hệ thống lý luận về khung pháp luật thị trường chứng khoán. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu của nhiều đề tài khoa học, công trình nghiên cứu chung về
khung pháp luật, luận án xác định khung pháp luật thị trường chứng khoán
bao gồm:
+ Hệ thống các nguyên tắc pháp lý cơ bản chi phối toàn bộ bộ phận
pháp luật thị trường chứng khoán.
+ Hệ thống các văn bản pháp luật thực định điều chỉnh thị trường
chứng khoán.
- Luận án phân tích, đánh giá thực trạng khung pháp luật thị trường
chứng khoán một cách toàn diện ở nước ta hiện nay.
- Luận án đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện những nội
dung pháp luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc vận hành và phát
triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Về thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng khung pháp luật thị trường
chứng khoán, luận án đưa ra những đề xuất cụ thể góp phần vào hoạt động xây
dựng pháp luật thị trường chứng khoán trong thời gian tới.
7.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 3 chương.


7

Chương 1

NHŨNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ KHUNG PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG CHÚNG KHOÁN

1.1. KHÁI QUÁT VỂ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.1. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán - hàng hoá của thị
trường chứng khoán
Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ chứng khoán (stock, security) được
tìm hiểu theo những yêu cầu, mục đích khác nhau. Đây là khái niệm phức tạp
vì bản thân nó đã hàm chứa một loạt quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh giữa
người cần vốn và người có vốn.
Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc
vốn của tổ chức phát hành. Hình thức tồn tại của chứng khoán rất đa dạng, phụ
thuộc vào thực tế phát triển nền kinh tế. Chứng khoán có thể có hình thức
chứng chỉ, hình thức bút toán ghi sổ dần phát triển do yêu cầu của nhà phát
hành và sở hữu chứng khoán. Khi công nghệ phát triển, hình thức điện tử cũng
được ghi nhận như một dạng tồn tại của chứng khoán. Một số nhà nghiên cứu
kinh tế cho rằng chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển
nhượng được. Với cách hiểu này, đối tượng được coi là chứng khoán thực sự
đa dạng: cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tại thị trường tiền tệ như tín phiếu
kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các loại thương phiếu. Cách hiểu này cũng có
thể dẫn tới khả năng thống nhất các bộ phận của thị trường tài chính: thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán thành một thị
trường chứng khoán duy nhất. Tuy nhiên, nếu xem xét cấu trúc thị trường tài
chính, việc tiếp tục tồn tại những bộ phận thị trường như hiện tại là hoàn toàn
cần thiết. Điều này xuất phát từ yêu cầu tác động, phương pháp tác động của


8


Nhà nước đến các bộ phận thị trường là khác nhau. Đối với thị trường tiền tệ,
bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng như một biện pháp hữu hiệu và trực tiếp để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Những liệu pháp như tái cấp vốn, nghiệp
vụ thị trường mở, các giao dịch liên ngân hàng không thể áp dụng chung cho
mọi đối tượng trên thị trường tài chính nói chung. Mặt khác, nhìn chung các
quốc gia trên thế giới đều coi ngân hàng trung ương (Ngàn hàng Nhà nước đối
với Việt Nam) là cơ quan quản lý thị trường tiền tệ. Đồng thời, những giao dịch
ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền tại thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
không thể điều chỉnh giống các giao dịch chứng khoán thông thường.
Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng
có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét theo phương
diện pháp lý. Cho dù chứng khoán có hình thái biểu hiện cụ thể như thế nào
thì đều có chung đặc tnmg là xác nhận quyền chủ nợ hoặc quyền sở hữu đối
với chủ thể phát hành ra nó.
Để nhận diện chứng khoán với các đối tượng khác, thường phải dựa
trên đặc điểm của chúng. Đặc điểm quan trọng đầu tiên của chứng khoán là
tính sinh lời. Tính sinh lời thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho
người sỏ hữu chứng khoán một khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình
quyền sử dụng vốn. Tính sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người
đầu tư mua chứng khoán, và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Nhưng
nếu chỉ dừng lại ở tính sinh lời thì cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưa
đạt được. VI vậy, gắn liền với chứng khoán là tính thanh khoản, tức khả năng
chuyển đổi được thành tiền. Tính thanh khoản tạo cho người sở hữu chứng khoán
chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khoán sang tiền thông qua một giao dịch tại
thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân hàng. Tính thanh khoản tạo
ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thỏa mãn nhu cầu của họ đồng thời cũng
hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán. Có thể nói rằng,
khả năng thanh khoản của mỗi chứng khoán là khác nhau, điều đó cũng có ý



9

nghĩa trong việc xác định hiệu suất vốn đầu tư của nền kinh tế đồng thời tạo ra
sức cạnh tranh cho các chủ thể phát hành. Tính thanh khoản của một loại chứng
khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và sự
biến động của thị trường. Cuối cùng, nói tới chứng khoán, đồng thời cũng phải
nói tới tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu
tư vốn. Cũng như bất kỳ hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh
chứng khoán là "đầu tư một lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi
trong tương lai" thì cả quãng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng
rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những
yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối
quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.
Chứng khoán rất đa dạng về chủng loại và phong phú về cách thức biểu
hiện. Đày cũng là một trong những lý do mà pháp luật nhiều quốc gia không
đưa ra một định nghĩa cụ thể về chứng khoán. Mặc dù vậy, có thể khái quát một
số loại chứng khoán tiêu biểu, hiện đang được phát hành và giao dịch phổ biến.
Chíữig khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và quyền
liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khoán đối với đối tượng
phát hành ra nó. Chứng khoán vốn tồn tại dưới hai dạng cơ bản là cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ đầu tư. Ngoài ra, còn có các chứng khoán phái sinh từ loại
chứng khoán vốn như chứng quyền.
Cổ phiếu (stock, share) là loại chứng khoán xác nhận số cổ phần mà
cổ đông đó nắm giữ tại một công ty cổ phần và quyền được hưởng một phần
lợi nhuận dưới hình thức cổ tức cũng như quyền tham gia quản lý công ty. cổ
phần là phần lợi ích sở hữu của cổ đông đối với tổ chức phát hành, cổ phần
trong công ty rất đa dạng về thể loại và tính chuyển nhượng, cổ phần phổ
thông (common stock) không qui định trước về cổ tức mà cổ đông có thể được

hưởng và gắn liền với kết quả kinh doanh của công ty nhưng cổ đông nắm giữ


10

lại được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích so với các loại cổ phần khác, c ổ phần
ưu đãi (preference stock) xác nhận một số ưu đãi (về tài chính, về một số
quyền ưu tiên khác), đồng thời cũng chịu những hạn chế nhất định về quản lý
công ty. Do nội dung ưu đãi khác nhau nên cũng hình thành nhiều loại cổ
phiếu ưu đãi khác nhau như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
Trong đời sống kinh tế, tùy mục đích của nhà phát hành, còn có thể tồn tại
nhiều hình thái cổ phiếu khác, với tính chất là sản phẩm của quá trình phát
triển, cải tiến nhằm mang lại khả năng lựa chọn rộng rãi cho các nhà đầu tư,
đồng thời cũng tạo ra cơ hội cạnh tranh cho các nhà phát hành.
Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc
các quỹ đầu tư phát hành, xác nhận phần vốn góp và quyền hưởng lợi của
người đầu tư đối với quỹ. Mỗi quốc gia có thể có mô hình quỹ đầu tư hoặc
công ty quản lý quỹ đầu tư khác nhau nên quyền và lợi ích của người sở hữu
chứng chỉ quỹ đầu tư đối với công ty quản lý quỹ có sự khác biệt nhất định
nhưng về bản chất, chứng chi quĩ đầu tư đều là chứng khoán vốn. Tùy thuộc
vào bản chất trong mối quan hệ giữa công ty quản lý quỹ với quỹ đầu tư chứng
khoán mà giá trị của chứnơ chỉ quỹ đầu tư có điểm khác nhau. Trường hợp
quỹ đầu tư tồn tại độc lập, có tư cách pháp nhân thì chứng chỉ quỹ đầu tư về
bản chất không khác so với cổ phiếu. Trường hợp quỹ đầu tư không tồn tại độc
lập, không có tư cách pháp nhân, mặc dù đều là chứng khoán vốn; chứng chỉ
quỹ đầu tư khác với cổ phiếu ở chỗ chứng chỉ quỹ đầu tư mang lại cho người
đầu tư lợi nhuận không trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể
phát hành mà từ toàn bộ hoạt động đầu tư của quỹ.
Một loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn định tương đối trong
giao dịch trên thị trường là trái phiếu. Trái phiếu (bond, bill, notes) là phương

tiện vay nợ, theo đó chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi
vào một thời gian nhất định trong tương lai. Với tính chất là một hợp đồng
vay, người cấp vốn được hưởng khoản lãi cố định không phụ thuộc vào kết


11

quả sử dụng vốn của người nhận vốn; nhưng không có quyền tham gia hoạt
động quản lý đối với bên nhận vốn. Do có sự khác biệt về mệnh giá, về lãi
suất, về quyền đối với chủ thể phát hành mà người đầu tư có thể lựa chọn hình
thức đầu tư phù hợp nhất.
Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại trái phiếu khác nhau, tùy thuộc vào
vị thế của người phát hành cũng như các cam kết đi kèm của nhà phát hành.
Vị thế của một loại trái phiếu có liên quan trực tiếp đến tính thanh khoản của
trái phiếu và mức độ sôi động của thị trường. Trái phiếu chính phủ có độ an
toàn cao, lãi suất loại trái phiếu này thường là cơ sở để các doanh nghiệp tính
toán lãi suất trái phiếu dự định phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp do doanh
nghiệp phát hành nhằm tăng vốn vay để mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới
công nghệ, có những khác biệt nhất định so với trái phiếu của các tổ chức tín
dụng. Trong mỗi loại trái phiếu, tùy mục đích thu hút đầu tư mà nhà phát hành
có thể lựa chọn những loại trái phiếu cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, trái phiếu
chuyển đổi, trái phiếu Lãi suất thả nổi, trái phiếu thu nhập, trái phiếu trả trước
thường có khả năng thu hút đầu tư nếu xét dưới góc độ cơ hội sinh lời. Trái
phiếu chính phủ, trái phiếu có bảo đảm có khả năng thu hút đầu tư nếu xét
theo góc độ an toàn.
Ngoài những chứng khoán cơ bản nêu trên, có những loại chứng khoán
khác như chứng quyền (rights) hoặc bảo chứng phiếu; hợp đồng lựa chọn, hợp
đồng giao sau. Chứng quyền hay bảo chứng phiếu đều nhằm tới quyền mua
chứng khoán của sở hữu chủ chứng khoán hiện hữu của nhà phát hành, mặc dù
nội dung cụ thể có khác nhau. Hợp đồng lựa chọn và hợp đồng giao sau

thường chỉ được giao dịch ở các thị trường phát triển và hình thức thể hiện cụ
thể cũng có nhiều lai tạp.
Như vậy, nhu cầu vốn đã làm nảy sinh rất nhiều loại chứng khoán khác
nhau. Các chủ thể có liên quan sẽ lựa chọn cho mình những loại chứng khoán
thích hợp nhất để phát hành trên cơ sở đặc tính những loại chứng khoán đó và


12

mục đích huy động vốn của mình. Mặt khác, nhà đầu tư dựa trên khả năng
thực tế sẽ quyết định loại chứng khoán phù hợp nhất, đảm bảo tính hiệu quả,
tính an toàn đối với quyết định đầu tư.
1.1.2. Khái quát về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cũng như các thị trường khác, thị
trường chứng khoán cũng qua những bước phát triển sơ khai ban đầu, sau đó
ngày càng đa dạng, phức tạp dần theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế xã
hội. Trong nền kinh tế, luôn có sự tồn tại hai thái cực: một cực có vốn cần đầu
tư, một cực cần vốn để thực hiện đầu tư kinh doanh. Khi kênh dẫn vốn trực
tiếp giữa hai cực đó với nhau được hình thành theo nguyên tắc đầu tư, cũng
đồng nghĩa với việc hình thành thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi các giao dịch chứng khoán được tiến
hành bởi những đối tượng khác nhau. Đây là thị trường đặc biệt, lưu hành loại
hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Sự khác biệt cơ bản đó làm cho nguyên tắc,
tổ chức, quản lý thị trường chứng khoán cũng có sự khác biệt so với các thị
trường thông thường.
Thị trường chứng khoán được hình thành, phát triển trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể. Đó là nền kinh tế thị trường với những qui luật vốn có
của nó. Tại đó, cơ hội kinh doanh, khả năng chuyển đổi mới hình thành và tồn
tại. Đối với nền kinh tế tập trung không thực hiện được những hoạt động này.

Nếu trong thời kỳ đầu, thị trường chứng khoán chỉ xuất hiện ở các nước có
nền kinh tế tự do phát triển như Hà Lan, Anh, Đức, Hoa Kỳ... thì hiện nay mô
hình thị trường này đã lan rộng và trở thành hiện tượng phổ biến của các quốc
gia có nền kinh tế thị trường. Mặc dầu vậy, phù hợp với trình độ phát triển nền
kinh tế, thực lực nền kinh tế mà mức độ phức tạp, đa dạng cũng như mức độ
sôi động của thị trường chứng khoán các quốc gia là khác nhau. Sự khác biệt
ấy không chỉ dừng lại giữa các quốc gia, ngay ở những khu vực phát triển kinh


13

tế khác nhau trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn của các bộ phận thị trường
(mang tính địa phương) cũng khác nhau rõ rệt. Điều đó có thể thấy rất rõ qua
hoạt động của các loại thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang
Đức, Úc, Nhật Bản... Cùng với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế, hoạt động
của thị trường chứng khoán các quốc gia ngày càng trở nên gần nhau hơn, thông
qua các liên kết giao dịch, nhu cầu kinh doanh, đầu tư của tất cả các đối tượng.
Hình thái tồn tại, hoạt động cụ thể của thị trường chứng khoán rất đa
dạng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đối tượng tham gia, đặc tính của hàng
hóa giao dịch tại thị trường... và do vậy có nhiều cách phân loại khác nhau.
Nếu xét theo tiêu chí lưu thông chứng khoán, có thể phân ra thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tại thị trường sơ cấp, các chứng khoán lần đầu
tiên được bán cho các nhà đầu tư nên còn được gọi là thị trường phát hành.
Điều đó cũng có nghĩa, thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới
thực sự được chuyển cho nhà phát hành. Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch
chứng khoán chưa được thanh toán. Bộ phận thị trường này không làm tăng
nguồn vốn mới cho nền kinh tế nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khả năng
thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành và tăng tối đa hiệu suất sử dụng vốn
của nhà phát hành. "Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc
đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư

có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư" [14]. Thông qua thị trường thứ cấp,
các bên tham gia đều mong muốn đạt tới hiệu ích kinh tế của mình. Hai bộ
phận thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp có mối quan hệ nội tại, mật thiết: thị
trường sơ cấp là cơ sở, tiền đề; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị
trường sơ cấp thì không có chứng khoán để vận hành thị trường thứ cấp; ngược
lại, nếu không có thị trường thứ cấp sẽ khó khăn trong việc phát hành vì chứng
khoán hầu như không có khả năng thanh khoản khi chưa đến hạn thanh toán.
Nếu xét theo phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán
bao gồm thị trường tập trung và không tập trung.


14

Thị trường chíùig khoán tập trung diễn ra các hoạt động mua hoặc bán
chứng khoán, hoặc tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán, được
tồn tại dưới hình thức phổ biến là Sở giao dịch chứng khoán hoặc các sàn giao
dịch chứng khoán. Thị trường không tập trung (OTC) diễn ra hoạt động giao
dịch chứng khoán không có đủ điều kiện giao dịch tại thị trường tập trung, có
thể tiến hành thông qua những hình thức đa dạng khác nhau như hệ thống giao
dịch nối mạng hoặc là giao dịch chứng khoán riêng lẻ. Khi xem xét mô hình
hoạt động của các bộ phận thị trường theo phương diện này, điều dễ nhận thấy
là, các bộ phận thị trường khác nhau thể hiện mức độ phát triển của thị trường
chứng khoán. Thị trường chứng khoán tập trung có giá trị như "bộ mặt" thị
trường chứng khoán quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng
của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hóa của thị trường tập trung cũng là
những hàng hóa có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng hóa của thị
trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay
rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị trường.
Việc nhìn nhận đúng về cách thức, phương thức hoạt động của từng loại
hình thị trường như trên giúp cho cơ quan quản lý nhà nước có sự đánh giá

đúng đắn về vai trò, hình thức và mức cần thiết phải can thiệp vào thị trường;
vừa tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán vận động theo đúng qui luật vốn
có của nó, vừa giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Trong thực tế, hoạt động
của từng bộ phận thị trường còn có thể xem xét chi tiết hơn theo đối tượng giao
dịch tại thị trường như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường trái
phiếu chính phủ, thị trường giao dịch kỳ hạn, thị trường giao dịch tương lai...,
nhưng chủ yếu được xem xét ở những nơi có khối lượng giao dịch lớn.
Để hoạt động bình thường, thị trường chứng khoán phải tuân thủ những
qui định rất nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các giao dịch chứng khoán về hình thức
bên ngoài có vẻ "hỗn loạn", nhưng thực chất lại là những giao dịch trật tự với
những nguyên tắc nhất định.


15

Từ cơ cấu thị trường chứng khoán có thể cho thấy nguyên tắc công
bằng, công khai, trung gian được thể hiện trong các giao dịch, nhưng ở các bộ
phận thị trường khác nhau thì yêu cầu của những nguyên tắc này là khác nhau.
Nguyên tắc công bằng yêu cầu các giao dịch phải đảm bảo quyền lợi
của tất cả các bên dưới các hình thức khác nhau ở các bộ phận thị trường. Chẳng
hạn, trong giai đoạn phát hành chứng khoán, nếu đó là chứng khoán phát hành
ra công chúng thì yêu cầu phải dành tỷ lệ chứng khoán tối thiểu cho các nhà
đầu tư phổ thông. Tại thị trường tập trung, phương thức đấu giá là hình thức
thực hiện nguyên tắc công bằng. Theo đó, có thể thực hiện đấu giá liên tục
hoặc đấu giá theo định kỳ nhưng đều đi đến một kết quả duy nhất là người bán
sẽ bán được với giá cao nhất và người mua sẽ mua được với giá thấp nhất, không
phân biệt các chủ thể đó là ai. Như vậy, nguyên tắc đấu giá tạo ra sự bình đẳng
giữa các chủ thể cùng có nhu cầu như nhau. Nguyên tắc công bằng đối với thị
trường riêng lẻ phản ánh trong cơ cấu hoạt động và phân phối các lợi ích giữa
các nhà đầu tư riêng lẻ.

Nguyên tắc công khai đòi hỏi trước hết các thông tin liên quan đến
chứng khoán phải được cung cấp cho tất cả các đối tượng quan tâm. Phương
thức cung cấp thông tin và nội dung thông tin phải đảm bảo đáp ứng được yêu
cầu tìm hiểu về cung cầu thị trường đối với từng loại chứng khoán, giá trị thực
của các loại chứng khoán để có thể đưa ra được những quyết định đầu tư có
hiệu quả. Đòi hỏi của nguyên tắc công khai đối với từng bộ phận thị trường
cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với thị trường tập trung, nguyên tắc công khai
được chính quyền các quốc gia qui định rất chặt chẽ về phương thức, nội dung;
nhưng đối với thị trường riêng lẻ, hình thức và nội dung chủ yếu do chính chủ
thể phát hành chứng khoán xác định trước trên cơ sở không trái luật.
Nguyên tắc trung gian chỉ coi là bắt buộc đối với phát hành ra công
chúng và giao dịch tại thị trường tập trung, đòi hỏi các giao dịch mua bán phải
qua chủ thể trung gian. Nguyên tắc này "đảm bảo người đầu tư có những thông


16

tin chính xác để lợi ích của mình không bị tổn thương bởi những hành vi lừa
đảo" [12, tr. 181]
Thị trường chứng khoán ra đời do nhu cầu của chính đời sống kinh tế,
xuất hiện và tồn tại khách quan. Tham gia vào thị trường có rất nhiều loại chủ
thể khác nhau; mỗi chủ thể tham gia với những mục đích khác nhau: quản lý,
đầu tư, phát hành, giao dịch.
Thị trường chứng khoán là thị trường rất nhạy cảm, năng động, có khả
năng gày ảnh hưởng nghiêm trọng và tức thì đối với các thị trường khác cũng
như đối với nền kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cần phải có những biện pháp tác
động hữu hiệu cũng như có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp và tác
động này không phải bằng những biện pháp hành chính thuần túy mà thông
qua hệ thống pháp luật, thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Các kết quả nghiên cứu kinh tế, pháp lý liên quan đến thị

trường chứng khoán đều thống nhất cho rằng, thị trường chứng khoán là sản
phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường, phải vận hành theo các qui luật của
kinh tế thị trường mà không thể áp dụng các biện pháp hành chính cứng nhắc.
Vì vậy cơ quan quản lý thị trường cũng phải có những cách thức và biện pháp
phù hcp. Do thị trường chứng khoán gồm nhiều bộ phận hợp thành nên yêu
cầu và mức độ quản lý các bộ phận đó cũng là khác nhau.
Trong thị trường chứng khoán, dù ở giai đoạn phát triển nào và ở bộ
phận nào của thị trường thì cũng tồn tại hai loại chủ thể chủ yếu là nhà phát
hành và nhà đầu tư chứng khoán. Nhà phát hành là tất cả chủ thể huy động vốn
bằng cách bán chứng khoán cho người đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể, pháp
luật mối nước qui đinh rõ những đối tượng nào là "nhà phát hành". Ở thị trường,
thường là các doanh nghiệp (bao hàm cả các tổ chức tín dụng) và Chính phủ
(bao g5m cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phươnơ). Đối tượng
thứ hai là nhà đầu tư chứng khoán - những chủ thể có nhu cầu đầu tư bằng
cách nua các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Loại chủ thể đầu


17

THƯVIẸN
TRƯƠNG ĐAI HOC LỦÂĩ^À NỘI
PHÒNG GV
bx>

tư này rất đa dạng và đông đảo, mục đích của các nhà đầu tư cũng không giống
nhau. Thường thì người ta chia nhà đầu tư thành hai nhóm cơ bản: nhà đầu tư
có tổ chức và nhà đầu tư cá thể. Nhà đầu tư có tổ chức có thể chỉ chiếm số lượng
nhỏ so với nhà đầu tư cá thể nhưng đối tượng này lại có tiềm năng lớn, khả năng
phân tích đánh giá chứng khoán tốt. Nhà đầu tư cá thể chiếm tỷ trọng đông đảo
về số lượng nhưng lại là đối tượng thường được quan tâm của nhà quản lý với

mục đích bảo vệ quyền lợi cho họ.
Để tạo ra tính thanh khoản của chứng khoán, hiệu suất sừ dụng vốn
của nền kinh tế, các giao dịch thứ cấp được rất nhiều nhà kinh doanh quan tâm
và coi đây là nghiệp vụ kinh doanh chính của mình. Hành vi kinh doanh
chứng khoán cũng nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận như hành vi kinh doanh
khác, nhưng do đặc điểm của chứng khoán rất phức tạp và rủi ro dây chuyền
nên chủ thể thực hiện kinh doanh chứng khoán thường phải đạt những tiêu
chuẩn nhất định, cho dù mỗi quốc gia có thể cho phép tổ chức và cá nhân
cùng kinh doanh hoặc chỉ cho phép tổ chức kinh doanh. Chủ thể kinh doanh
chứng khoán thường tồn tại dưới hình thức công ty chứng khoán hoặc những
hình thức cá biệt khác.
Ngoài những chủ thể chủ yếu trên còn có thể có một số đối tượng khác
như các ngân hàng thương mại (tham gia với tư cách là trung gian thanh toán),
các đại lý phát hành chứng khoán...
Như đã đề cập, tham gia thị trường chứng khoán một quốc gia chỉ thực
sự coi đã có thị trường chứng khoán khi đã hiện diện thực tế mô hình thị
trường tập trung mặc dù có qui mô khác nhau: Sở giao dịch chứng khoán hoặc
Trung tâm giao dịch chứng khoán. Pháp luật các nước đều qui định tổ chức thị
trường tập trung này có tư cách pháp nhân, mặc dù có thể thuộc về những hình
thức sở hữu khác nhau. Đây là tổ chức có cơ cấu chặt chẽ, tồn tại nhằm cung
cấp dịch vụ cho các giao dịch chứng khoán như niêm yết, công bố thông tin và
nhiều dịch vụ khác với mục đích phi lợi nhuận hoặc tìm kiếm lợi nhuận.


18

Tóm lại, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng
khoán giữa các chủ thể có liên quan, có cấu trúc phức tạp và vận hành theo
những nguyên tắc nhất định. Trong các bộ phận, thị trường chứng khoán tập
trung có giá trị mang tính đại diện và các quốc gia có thị trường đều phải kiểm

soát chặt chẽ bộ phận thị trường này.
1.1.3.

Những điều kiện kinh tẻ xã hội để hình thành thị trường

chứng khoán
Nếu chỉ xem xét thị trường chứng khoán với những biểu hiện đơn giản
nhất là có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là cách nhìn không đầy đủ.
Chúng tôi đã chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán bao giờ cũng có những biểu
hiện bề nổi, mang tính "bộ mặt", đó là các giao dịch tại thị trường chứng khoán
tập trung, các giao dịch nội bộ chưa phản ánh đầy đủ tính chất của thị trường
chứng khoán. Nhưng để thị trường tập trung có thể vận hành ổn định và bình
thường được, cần phải hội đủ những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Thứ nhất, nền kinh tế của quốc gia có thị trường phải phát triển đến mức
độ nhất định. Xuất phát từ nguồn gốc ra đòi của chứng khoán, đó là nhu cầu về
vốn giữa người cần vốn và người có vốn. Mặc dù vậy, nguồn vốn có thể cung và
nguồn vốn cần thiết cho nền kinh tế phải đạt đến giới hạn nhất định. Nếu không
đạt đến các giới hạn đó, các nhà kinh doanh (và kể cả các nhà đầu tư) sẽ không lựa
chọn vốn qua thị trường chứng khoán mà sẽ lựa chọn những thị trường khác đơn
giản và an toàn hơn (như thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối, thị trường bất
động sản). Trong thực tế, đánh giá về tốc độ phát triển nền kinh tế được xem xét
ở những khía cạnh cụ thể khác nhau. Trước hết, thông qua các chỉ số phát triển
kinh tế (GDP, GNP); cơ cấu ngành, miền. Chỉ số này phải phản ánh được đó là
nền kinh tế phát triển thực (tức phải xem xét trong mối tương quan với chỉ số giá
cả). Các chuyên gia kinh tế cho rằng, để ra đời thị trường chứng khoán ở các nước
đang phát triển, vấn đề hoạch định nền kinh tế và xem xét tình hình phát triển
kinh tế là rất cần thiết cho sự ổn định thị trường. Thực tế đã cho thấy, đối với thị


19


trường các nước đang phát triển, sự biến động về phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng
tức thì đến giao dịch tại thị trường và không loại trừ trường hợp làm vỡ thị trường.
Liên quan đến yêu cầu kinh tế, sự tham gia của các tổ chức kinh tế vào
thị trường là hết sức quan trọng. Các tổ chức kinh tế được xem là những nhà
đầu tư có tổ chức và nhiều tiềm năng hơn nhà đầu tư riêng lẻ, là đối tượng có
nhu cầu vốn thường xuyên. Sự tham gia của họ vào thị trường sẽ làm cho nguồn
vốn giao dịch tăng, đây chính là yếu tố kích ứng mức sôi động của thị trường.
Mặt khác, tổ chức kinh tế cũng đồng thời là người có khả năng sử dụng vốn
với hiệu suất cao nhất, là nhà kinh doanh lành nghề. VI vậy, cần phải có
những biện pháp phù hợp cho họ có cơ hội tham gia thị trường. Các tổ chức
kinh tế được xem xét ở đây có thể là doanh nghiệp thông thường, các tổ chức
tài chính... Qui mô vốn, năng lực thực tế của các tổ chức kinh tế quyết định
sức thanh khoản và lành mạnh của thị trường.
Thứ hai, phải có sự ổn định chính trị xã hội. Thị trường chứng khoán
có độ nhạy cảm cao đối với bất kỳ sự biến đổi hay bất ổn định nào về chính
trị, xã hội. Sự ổn định chính trị là tiền đề cho ổn định đầu tư; người đứng đầu
bộ máy nhà nước có thể ảnh hưởng tới luồng chu chuyển vốn giữa các ngành
và khu vực kinh tế. Thực tế đời sống chính trị của Hoa Kỳ, Nhật Bản, khu vực
Trung Đông, trong những năm qua cho chúng ta rất nhiều bài học về ổn định
chính trị và vai trò của người đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước đối với thị
trường chứng khoán. Sự ổn định không chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia mà còn là sự ổn định về vị trí chính trị của quốc gia đó trên trường
quốc tế. Hoặc sự can thiệp của Tổng thống Bush vào ngành thép Hoa Kỳ
không chỉ gây ra mối quan ngại trong giao dịch thương mại quốc tế với các
quốc gia có xuất khẩu thép vào thị trường Mỹ mà còn ảnh hưởng rõ nét tới giá
chứng khoán ngành thép Hoa Kỳ.
Thị trường chứng khoán ở các quốc gia hình thành từ nhu cầu nội tại.
Nếu dùng ngôn ngữ triết học, có thể nói, nó hình thành theo con đường cổ



20

sinh, đi theo sự tiến hóa dần và có nhu cầu hợp lại với nhau, dần hoàn thiện.
Đối với Việt Nam, thị trường chứng khoán được xây dựng có rất nhiều yếu tố
từ bên ngoài. Mặc dù có một số yếu tố nội tại trong đó, song nó không hoàn
toàn mang yếu tố hình thành tự thân. Đây cũng là yếu tố chi phối tới khung
pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam và cũng phản ánh vai trò của pháp
luật đối với thị trường chứng khoán nước ta.
1.1.4. Vai trò của thị trường chứng khoán
Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu của
nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đó.
Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán và thị trường
chứng khoán, có thể khẳng định, thị trường chứng khoán là công cụ quan trọng
ưong việc huy động vốn trung và dài hạn. Với chi phí thấp, khả năng chủ động
trong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn cần thiết cũng như hình thức huy
động vốn, thị trường chứng khoán có vai trò rất lớn trong việc trợ giúp cho các
doanh nghiệp thu hút, huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh một
cách dễ dàng. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán các quốc gia đã
chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán tạo ra sự cạnh tranh với các bộ phận thị
trường truyền thống mà đại diện là thị trường tín dụng. Nếu như trước đây các
tổ chức tín dụng là chỗ dựa tiềm tàng về vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn
vốn nhỏ nhất trong thời gian ngắn nhất đến nguồn vốn lớn nhất trong thời gian
dài nhất theo nhu cầu thì thị trường chứng khoán đã mở ra cơ hội huy động
vốn mới cho các doanh nghiệp. Nội dung, hình thức huy động vốn của doanh
nghiệp thông qua thị trường chứng khoán rất đa dạng, không đơn thuần là nguồn
vốn vay; bản thân các nguồn vốn kèm theo cam kết của doanh nghiệp phát
hành cũng thể hiện nhu cầu và tính cạnh tranh to lớn.
Không chỉ đóng vai trò là công cụ huy động vốn, thị trường chứng
khoán còn là môi trường đầu tư thuận lợi của công chúng. Thị trường chứng

khoán là môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Những


21

nguồn tiền tiết kiệm của dàn cư được sử dụng với hiệu suất cao nhất thông qua
việc lựa chọn các loại chứng khoán với mực độ an toàn và lưu hoạt khác nhau
khiến cho các nhà đầu tư có thể lựa chọn phù hợp với khả năng và sở thích của
mình. Cũng chính vì sự lựa chọn đó mà bản thân các nhà phát hành cũng được
"tính đếm" trong quyết định của nhà đầu tư. Có thể nói, thị trường chứng khoán
là một trong những cơ sở đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của nền kinh tế
một cách tổng hợp (kể cả giá trị hữu hình và giá trị vô hình) thông qua các chỉ
số giá chứng khoán trên thị trường. Tất cả các giao dịch về vốn trên thị trường
là kết quả của quá trình canh tranh, đảm bảo cho hiệu suất sử dụng vốn của
doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung đạt mức độ cao nhất.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc đánh giá nền kinh tế thông qua thị trường
chỉ thực sự phát huy hiệu quả đối với những thị trường phát triển, hoạt động
ổn định. Đối với những thị trường mới hình thành, mức độ giao dịch còn nhỏ,
các giao dịch vốn truyền thống vẫn còn là phổ biến thì vai trò này của thị
trường chứng khoán chưa thực sự phát huy. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Thứ hai, thị trường chứng khoán còn là công cụ thực hiện chính sách
tài chính tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mô khác. Thị trường chứng
khoán phản ánh các giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các ngành
kinh tế. Mức độ dao động giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu và kết quả đầu
tư của nền kinh tế, không loại trừ cả những dấu hiệu tiêu cực. Chính vì vậy, có
thể nói rằng, thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế và là
một công cụ để Chính phủ điều hành việc thực hiện các chính sách vĩ mô.
Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ thực hiện "cân đối lại" ngân
sách nhà nước bằng việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ. Đây chính là
nội dung quan trọng nhằm thực hiện chính sách tài chính quốc gia. Việc thực

hiện tốt chính sách tài chính quốc gia tạo căn cứ chắc chắn cho việc ổn định
giá trị đồng tiền, là nội dung cơ bản và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ
quốc gia. Chính vì thế, có thể nói rằng, thị trường chứng khoán tạo môi trường


×