Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.14 MB, 203 trang )


lộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Tư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








HOÀNG THỊ SƠN

THỰC HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ GÀO

TRONG Tố tụng hình sự




Chuyên ngành : Luật hình sự
M ã số

: 5.05.14

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAI HOCUĨÂTilẦ NÔI
PHÒNG G V


___

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Kiều Đình Thụ
2. PGS.TS Trần Văn Độ

H À N Ộ I - 2003


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hoàng Thị Sơn


M Ụ C LỤC


Trang
MỞ ĐẨU

1

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỂ QUYỂN BÀO CHỮA

8

CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

1.1.

Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

8

1.2.

Ý nghĩa của việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo

18

1.3.

Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của chế định về

24


quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Chương 2:

CÁC HÌNH THỨC

VÀ YẾU T ố

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

40

QUYỂN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

2.1.

Các hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo

40

2.2.

Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo

90

l

Chương 3 ĩ


THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỂN BÀO CHỬA CỦA

116

BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUYỂN BÀO CHỮA

3.1.

Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo

116

3.2.ỵ Những hạn chế và vướng mắc trong việc thực hiện quyền

134

bào chữa của bị can, bị cáo và nguyên nhân
3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa

164

của bị can, bị cáo
KẾT LUẬN

184

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG B ố CÓ LIÊN


186

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

187


NHỮ NG T ừ V IẾ T TẮ T T R O N G LU Ậ N ÁN

BCVND

Bào chữa viên nhần dân

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BNV

Bộ Nội vụ

BTP

Bộ Tư pháp


CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

LTTHS

Luật tố tụng hình sự

NBC

Người bào chữa

NĐDHP


Người đại diện hợp pháp

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

QBC

Quyền bào chữa

TA

rp \

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

TỐ tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng


VKS

Viện Kiểm sát

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

/

Tòa án


Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan...; việc phán quyết của
Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người
bào chữa, bị cáo, nhân chứng... để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quỵ định.
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham
gia vào quá trình tô' tụng; tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án,
tranh luận dân chủ tại phiên tòa...
Phát triển và kiện toàn đội ngũ luật sư,... có đủ năng lực và phẩm
chất đạo đức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; đến năm 2005 cơ bản cố đủ cán
bộ làm nhiệm vụ bổ trợ tư pháp.

(Trích: Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới)


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của
đời sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Do vậy, mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách
của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật trước hết là phải có những
quy định chặt chẽ về việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, trong đó có quyền bào chữa (QBC). Điều 50 Hiến pháp
1992 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng thể
hiện ở các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật".
Việc quy định này cũng chỉ là hình thức nếu nó không được thực hiộn trong
thực tế. Bảo vệ quyền con người là mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của các
thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả các
quyền công dân đã được pháp luật quy định là tiêu chí để đánh giá sự văn
minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại.
QBC của bị can, bị cáo là một trong những quyền quan trọng của
quyền công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo. Bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo là một nguyên tắc hiến định được thể chế trong các
bản Hiến pháp của nước ta. Đồng thời là một nguyên tắc đặc thù của Luật
tố tụng hình sự (LTTHS) được quy định tại Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự

(BLTTHS) với nội dung: "Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình. Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát
(VKS) và Tòa án (TA) có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ". Quyền này tiếp tục một lần nữa được ghi nhận tại


2

Điều 34 của BLTTHS. Cùng với sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự
(TTHS), QBC ngày càng được tôn trọng và mở rộng hơn, đồng thời tạo
những điều kiện tốt nhất để bị can, bị cáo thực hiện quyền này. Điều đó thể
hiện bản chất dân chủ của pháp luật nước ta.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua cho
thấy mặc dù pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng
QBC của bị can, bị cáo chưa được triệt để tôn trọng và chưa được cơ quan
tiến hành tố tụng (CQTHTT) tạo điều kiện để bị can, bị cáo thực hiện. Tình
trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can, bị cáo; xử oan người vô tội, xét
xử sai... vẫn còn xảy ra là hậu quả của việc chưa nhận thức đúng đắn ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo. Một số
người tiến hành tố tụng (NTHTT) còn chưa nhận thức được việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho người vô tội cũng
có ý nghĩa và tầm quan trọng như việc xử lý nghiêm minh đối với người
phạm tội. Do vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử họ thường chú ý
khía cạnh khồng bỏ lọt tội phạm hơn là khía cạnh không làm oan ngưòi vô
tội và xem việc tham gia tố tụng của người bào chữa (NBC) tại phiên tòa
như một sự "trang trí" cho đúng thủ tục tố tụng mà thôi. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo, dẫn đến tình trạng
oan sai trong tố tụng. Điều này là không thể chấp nhận, làm mất lòng tin
của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật. Thực hiện QBC của bị can, bị
cáo hiện nay không chỉ là mối quan tâm của riêng bị can, bị cáo hay gia

đình họ và những người làm công tác bảo vệ pháp luật mà nó còn là sự quan
tâm của toàn xã hội.
Nghiên cứu đề tài thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS có
ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, hạn chế tình trạng oan sai, giúp CQTHTT giải quyết vụ án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, "khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu


3

tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai,
xét xủ không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân" [26, tr. 56].
Mặt khác, hiện nay "chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa
ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công
dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ
quan tư pháp" [7]. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề thực hiện QBC của bị
can, bị cáo trong TTHS góp phần vào việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới mà Nghị quyết 08-NQ/TW đã
đề ra, nó không những chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn
sâu sắc. "Tinh thần Nghị quyết 08 toát lên từ nội dung, tư tưởng chỉ đạo của
Bộ Chính trị là tính thòi sự, bức xúc của việc đưa vào cuộc sống, tổ chức
thực hiện những chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay" [76] khi mà đất nước đang bước vào giai đoạn mới với tốc độ phát
triển ngày càng nhanh của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
khi mà tội phạm xảy ra ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
Trong thời gian qua đã có một số tác giả làm luận văn thạc sĩ liên
quan đến QBC của bị can, bị cáo như: Tác giả Nguyễn Thu Thủy với đề tài:
Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Việt Nam; tác giả Võ Văn Hòa với đề tài: Chức năng buộc tội và bào chữa

trong tố tụng hình sự Việt Nam; tác giả Vũ Văn Thìn với đề tài: Người bào
chữa trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, còn một số tác giả cũng nghiên cứu về
vấn đề này như: luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải với cuốn sách: Đảm bảo
quyền bào chữa của người bị buộc tội’, tác giả Nguyễn Văn Tuân với cuốn
sách: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự...
Tuy nhiên, với những đề tài trên các tác giả chỉ đề cập đến một số vấn
đề nhất định có liên quan đến QBC của bị can, bị cáo. Do đó có thể khẳng
định rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một


4

cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về việc thực hiện QBC của bị can,
bị các trong TTHS và luận án này không trùng lặp vói bất cứ một công trình
nào khác.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận án
Từ việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về QBC, phân tích,
đánh giá, so sánh và tổng hợp những quy định của pháp luật về QBC của bị
can, bị cáo và thực trạng thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS, tác
giả đưa ra những đề xuất thiết thực nhằm tôn trọng và bảo đảm thực hiện
QBC của bị can bị cáo có hiệu quả tối đa.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, nhiệm vụ yêu cầu được đặt
ra là:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về thực hiện QBC của bị
can, bị cáo như khái niệm QBC, cơ sở quy định QBC, ý nghĩa của việc thực
hiện QBC.
+ Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển chế định bào chữa.
+ Nghiên cứu các hình thức thực hiện QBC.
+ Nghiên cứu các yếu tố bảo đảm thực hiện QBC.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện QBC của bị can, bị cáo,

làm sáng tỏ những hạn chế, vướng mắc và rút ra các kết luận cần thiết.
+ Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những kiến nghị
khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện QBC của bị can, bị cáo.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc thực hiện QBC của bị can,
bị cáo trong TTHS. Trong luận án tác giả không chỉ nghiên cứu, phân tích
những quy định của pháp luật về QBC của bị can, bị cáo mà còn chú trọng
khai thác một số vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của chế định này vào


5

những năm gần đây, một số mâu thuẫn không thống nhất giữa những quy
đinh của pháp luật và thực tiễn để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện chế định về QBC của bị can, bị cáo trong thời gian tới, góp phần vào
việc ban hành, sửa đổi BLTTHS cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và
yêu cầu của hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu luận án của tác giả chỉ dừng lại ở việc phân tích,
đánh giá, so sánh những vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc
thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam những năm gần
đây. Khi phân tích vai trò của NBC trong TTHS, luận án tập trung vào sự
tham gia của luật sư với tư cách là NBC là chính mà không đi sâu phân tích
sự tham gia của bào chữa viên nhân dân (BCVND) và người đại diện hợp
pháp (NĐDHP) của bị can, bị cáo vì thực tiễn cho thấy những người này ít
khi tham gia với những lý do khác nhau. Để góp phần hoàn thiện chế định
về QBC và thực hiện QBC có hiệu quả, tác giả đã trình bày một số quan điểm
cá nhân và khuyến nghị chứ không có tham vọng trình bày tất cả mọi vấh đề
CÓ liên quan đến chế định bào chữa mà chỉ dừng lại ở vấn đề thực hiện QBC
của bị can, bị cáo trong TTHS. Việc đưa ra các khuyến nghị trên cơ sở nghiên
cứu, phân tích, đánh giá, giải quyết mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn khi

thực hiện chế định này được coi là hậu quả tất yếu của việc hoàn thiện chế
định bào chữa cho phù hợp với tiến trình dân chủ trong giai đoạn đổi mới
toàn diện mà trước mắt là góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải
cách tư pháp; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân [22].
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận án, tác giả đã dựa trên cơ sở vận dụng các quan
điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm


6

của Đảig và Nhà nước ta về pháp luật, về quyền con người nói chung và
quyền công dân trong xã hội, phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện quyền
công dâi có hiệu quả.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh;
phương pháp quan sát; phương pháp đàm thoại sâu (thăm dò, trao đổi ý kiến
với nhũng chuyên gia, những người làm công tác thực tiễn); phương pháp
kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là một công trình đầu tiên đề cập và giải quyết một cách hệ
thống, toàn diện vấn đề thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS mà từ
trước đéh nay chưa được giải quyết một cách triệt để hoặc chỉ giải quyết ở
một khía cạnh nào đó của vấn đề. Trong luận án tác giả đưa ra khái niệm
QBC, cơ sở để quy định QBC, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện QBC
ở nước ta và đưa ra các kiến nghị của mình về hoàn thiộn pháp luật và giải
pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện QBC của bị can, bị cáo ở nước ta.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Đây là một công trình được tác giả nghiên cứu rất công phu và cố
gắng trong nhiều năm mới có thể hoàn thành. Luận án là một công trình
nghiên cứu khoa học lần đầu tiên tại Việt Nam trình bày một cách có hệ
thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong
TTHS. Trong quá trình hoàn thành luận án, tác giả đã dày công nghiên cứu
những công trình nghiên cứu khoa học, những tài liệu của hội thảo liên
quan đến luận án, những bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí, các
báo như: Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp chí Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND), báo Pháp luật, báo Pháp luật thành phố Hồ Chí
Minh..

các báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao


7

(TANDTC), của TAND cấp huyện và cấp tỉnh ở một số địa phương; của các
đoàn luật sư...; của Vụ Luật sư và Tư vấn pháp luật của Bộ Tư pháp (BTP).
Ngoài ra, tác giả còn khai thác một cách công phu những thông tin trên
mạng có liên quan đến luận án; trực tiếp trao đổi với một số thẩm phán, luật
sư của một số tỉnh trong cả nước.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, từ thực trạng thực hiện QBC
của bị can, bị cáo phong phú và rất đa dạng đã được nghiên cứu, tác giả đưa
ra những kiến nghị nhằm thực hiện QBC của bị can, bị cáo một cách có
hiệu quả nhất. Những kiến nghị mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như một
đề xuất mang tính khoa học góp phần hoàn thiện chế định về QBC của bị
can, bị cáo trong TTHS Việt Nam, vừa có giá trị thực tiễn góp phần vào việc
thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian
tói mà Nghị quyết 08-NQ/TW đã đề ra.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được chia thành 3 chương, 8 mục.


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỂ QUYỂN

bào chữa

CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

1.1. KHÁI NIỆM Q UYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

1.1.1. Khái niệm
Trong xã hội ngày nay, con người luôn là vốn quý và cần được bảo
đảm bằng các biện pháp của Nhà nước. Để bảo đảm quyền con người trong
xã hội các bản Hiến pháp của nước ta đã có quy định về quyền công dân,
trong đó không thể không kể đến QBC và các bảo đảm cần thiết để các
quyền đó được thực hiện trong thực tế.
QBC của bị can, bị cáo là một trong những chế định quan trọng và
phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Vấn đề này từ
trước đến nay đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Song xung

quanh khái

niệm, nội dung, đối tượng của QBC thì còn nhiều ý kiến khác


nhau. Đặc biệt là việc thực hiện quyền này trong thực tế như thế nào thì hầu
như chưa được đề cập đến. Do vậy, việc xác định khái niệm QBC của bị
can, bị cáo trên cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với quy định của
BLTTHS nói riêng và pháp luật nói chung là cần thiết nhằm không ngừng ,
phát huy dân chủ, củng cố cơ sở pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có những
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của công dân. Những quyền đó được
Nhà nước bảo đảm thực hiện, đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ phải tôn
trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện
quyền công dẩn được Nhà nước bảo đảm thực hiện chính là quyền được bảo
vệ mình trước cơ quan pháp luật, trong đó có QBC. QBC được ghi nhận trong
BLTTHS là cần thiết, giúp CQTHTT giải quyết vụ án được khách quan và


9

tránh được việc làm oan người vô tội. Hơn nữa việc tranh tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu
quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là
một trong những cơ sở giúp Tòa án (TA) giải quyết vụ án được chính xác.
Xung quanh khái niệm QBC, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, QBC là tổng hòa các hành vi tố tụng
đối với việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc làm
giảm trách nhiệm của bị can [37, tr. 14].
Quan điểm thứ hai cho rằng, QBC được hiểu rộng hơn, nó không
chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay
làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc bảo
đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng
không trực tiếp liên quan đến việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can

trong vụ án [37, tr. 18].
Chúng tôi cho rằng, hai quan điém trên là quá hẹp và không chính
xác. Một người tham gia tố tụng với tư cách là bị can khi cơ quan có thẩm
quyền có đủ căn cứ xác định họ là người đã thực hiện hành vi phạm tội và
ra quyết định khỏi tố bị can đối với họ, Trong TTHS khái niệm bị can chỉ
tồn tại cho đến thời điểm trước khi TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Sau đó họ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo. Phải chăng từ khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử họ không có QBC nữa hay sao. Thực tiễn cho thấy,
chính giai đoạn này QBC của họ mới được thể hiện rõ nét nhất, vì họ được
bình đẳng, công khai đưa ra các chứng cứ; được tham gia tranh luận tại
phiên tòa... để thanh minh, bác bỏ lời buộc tội và bào chữa.
Quan điểm thứ ba cho rằng, QBC không chỉ thuộc về bị can, bị cáo
mà còn thuộc về người bị tình pghi phạm tội, người bị kết án, NBC, bị đơn
dân sự và NĐDHP của họ [135].


10

Quan điểm thứ tư cho rằng, "QBC trong TTHS là tổng hòa các hành
vi tố tụng do người bị tam giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên
cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay
toàn bộ sự buộc tội của CQTHTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm
của mình trong vụ án hình sự" [37, tr. 29-30].
Quan điểm thứ năm cho rằng, trong TlHS, bị can, người bị tình
nghi cũng như những công dân tham gia trong TTHS với tư cách khác,
trong đó có cả người bị hại đều cần tới sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm
hại [37, tr. 17]. Như vậy, theo tác giả thì QBC thậm chí có cả trong trường
hợp mà ở đó không có sự buộc tội. Cùng với quan điểm này, một số tác giả
khác cũng cho rằng, "không chỉ có bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến
việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng

vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại" [133, tr. 107].
Khác với quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai, quan điểm thứ
ba, quan điểm thứ tư và thứ năm cho rằng, QBC không chỉ thuộc về bị can
mầ còn thuộc về những người tham gia tố tụng khác nữa như bị cáo, người
bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự... Chúng tôi cho rằng, nếu hiểu QBC như vậy là quá rộng, không
hoàn đúng với nghĩa bào chữa trong TTHS.
Ngoài những quan điểm rất khác nhau như trên về QBC của bị can,
bị cáo, trong BLTTHS của các nước khác nhau cũng có những quy định
khác nhau về chủ thể của QBC. Cụ thể là:
Theo BLTTHS của Nhật Bản thì QBC chỉ thuộc về bị cáo và người
bị tình nghi, đó là: "Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn luật sư
bào chữa bất kỳ lúc nào" (Điều 30).
BLTTHS của Bungari quy định QBC thuộc về bị can, bị cáo trong
đó QBC của bị can bị hạn chế, vì họ chỉ có quyền nhờ NBC trong một số
trường hợp cụ thể (Điều 73). Đó là:


11

- Bị can là người chưa thành niên;
- Bị can là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, không
thể tự mình bào chữa được;
- Khi có sự đồng ý của Viện kiểm sát, nếu sự tham gia của NBC
không gây khó khăn cho việc xác định chân lý khách quan về vụ án.
BLTTHS của Sài Gòn trước đây quy định: "Trong giai đoạn điều tra
sơ vấn, nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải được cho biết ngay là phạm
tội gì và có quyền được luật sư dự kiến" (Điều 38).
BLTTHS Liên bang Nga quy định: "NBC được tham gia tố tụng từ
khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị tình

nghi thực hiện tội phạm bị tạm giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam trước khi khởi tố bị can thì từ khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc
quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam" (Điều 47).
Khoản 1, Điều 36 BLTTHS Việt Nam quy định: "NBC tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can. Trong những trường hợp cần phải giữ bí mật điều
tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSND
quyết định để NBC tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra".
Như vậy, hiện nay khái niệm QBC trong TTHS được hiểu rất khác
nhau và thực tế nó cũng được quy định khác nhau trong BLTTHS của các
nước. Qua việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau về QBC cũng như
những quy định về QBC trong BLTTHS của một số nước, chúng tôi hoàn
toàn đồng ý với quan điểm của BLTTHS Việt Nam hiện nay, QBC chỉ thuộc
về bị can, bị cáo chứ không thuộc về bất kỳ một đối tượng nào khác và
quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo. Đối với việc bảo vộ các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan
đến việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo
trong vụ án thì không thuộc phạm vi QBC. Tuy nhiên, khi đã bào chữa cho


12

bị can, bị cáo trong vụ án thì NBC cũng đồng thời giúp bị can, bị cáo trong
việc bảo vệ các quyền đó của họ.
Khác với những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình sự, bị
can, bị cáo tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn, việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều ta, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự cho thấy không phải mọi trường hợp buộc tội đối với
bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn còn có trường hợp buộc tội oan, buộc

tội không đúng vì những nguyên nhân khác nhau khó có thể chấp nhận. Do
vậy, QBC thuộc về bị can, bị cáo là một yêu cầu khách quan trong TTHS
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, tránh được
việc làm oan người vô tội.
Để bị can, bị cáo có điều kiện thực hiện QBC của mình, pháp luật
cho phép họ được hưởng những quyền nãng tố tụng nhất định quy định tại
Điều 34 và các điều luật khác liên quan của BLTTHS. Đó là những quyền
mà bị can, bị cáo được phép sử dụng để bảo vệ mình như quyền đưa ra
chứng cứ và những yêu cầu, quyền được tham gia xét hỏi và tranh luận tại
phiên tòa v.v... Những quy định về quyền này thực chất là tạo điều kiện để
bị can, bị cáo sử dụng để bảo vệ mình trước CQTHTT khi bị buộc tội. Điều
này có nghĩa là bị can, bị cáo có thể thanh minh, bác bỏ một phần hay toàn
bộ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm cho mình.
Buộc tội và bào chữa song song tồn tại, ở đâu có buộc tội thì ở đó có
bào chữa. Bị can, bị cáo có QBC vì họ là những người bị buộc tội. Những
người tham gia tố tụng khác không phải là đối tượng của sự buộc tội, do vậy
vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng,
nếu quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại thì họ cũng có quyền bảo
vệ bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật, nhưng đó không phải
là hoạt động bào chữa. Như vậy, QBC của bị can, bị cáo hoàn toàn khác với


13

quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng khác. Quyền này chỉ thuộc về đối tượng bị buộc tội, tức bị can, bị cáo.
Người tạm giữ, là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang, đối với họ đã có quyết định tạm giữ nhưng chưa bị khởi tố
không thể coi là đối tượng bị buộc tội được. Người bị tạm giữ chỉ có thể trở
thành đối tượng buộc tội, khi cơ quan có thẩm quyền xác định có đủ căn cứ

để khởi tố họ với tư cách là bị can, tức là đã đủ căn cứ xác định họ là người
đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm theo quy
định của pháp luật. Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Một
trong nhũng mục đích của tạm giữ là giúp cơ quan có thẩm quyền bước đầu
xác định, làm rõ hành vi của người bị tạm giữ, nếu không đủ căn cứ để khởi
tố họ với tư cách là bị can thì phải ra quyết định trả tự do cho người bị tạm
giữ. Và như vậy, có thể hiểu ở thời điểm này chưa có một văn bản tố tụng
nào trực tiếp buộc tội đối với người bị tạm giữ.
Người bị kết án cũng không thể coi là đối tượng bị buộc tội được.
Buộc tội và kết án là hai khái niệm thuộc các giai đoạn khác nhau của TTHS.
Do vậy, không nên đồng nhất khái niệm buộc tội với khái niệm kết án.
Buộc tội chỉ có thể tồn tại trước khi bản án của TA có hiệu lực pháp luật,
tức là trước khi TA kết tội một ngưòi nào đó. Theo tinh thần của Điều 10
BLTTHS, sau khi bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật thì người
bị buộc tội được coi là có tội và phải chịu hình phạt, v ề nguyên tắc, người
bị buộc tội trong trường hợp này không còn là đối tượng để xem xét việc họ
có tội hay không có tội nữa (trừ trường hợp đặc biệt).
Từ phân tích như trên có thể khẳng định, đối tượng bị buộc tội chỉ
có thể là bị can, bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không thể là đối
tượng bị buộc tội. Khi buộc tội một người nào đó, CQTHTT phải có căn cứ
khẳng định họ là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi
là tội phạm theo quy định của BLHS. Tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà


14

việc buộc tội được thực hiện bằng các hình thức tố tụng khác nhau, bằng
các quyết định tố tụng khác nhau. Bị can bị buộc tội trước hết bằng quyết
định khởi tố bị can. Điều này đã được khẳng định tại Điều 103 BLTTHS:
"Khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ

quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can". Bị can còn bị buộc tội
bởi quyết định truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng. Khi bị can đã bị
TA quyết định đưa ra xét xử thì họ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo.
Như vậy, QBC chỉ thuộc về bị can, bị cáo, những người bị buộc tội bởi
quyết định pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những người đã
bị kết án hoặc chưa bị buộc tội không là chủ thể của QBC.
Vậy, quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà
pháp luật quy định, cho phép bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ
một phần hay toàn bộ sự buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người luôn
gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ quyền con người. Quyền con người, đó
là quyền tất yếu trong cuộc sống tự nhiên của xã hội loài người, mà có thể
nói, thiếu nó chúng ta không thể sống như những con người. Quyền con
người được thể hiện trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội bao
gồm quyền về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa... Quyền con người đã
được đề cập đến trong các đạo luật của các quốc gia trên thế giới từ thời cổ
đại. Qua lịch sử đấu tranh tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội loài
người, quyền con người vẫn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên
tắc về quyền con người trong quá trình phát triển luôn được hoàn thiện dần
theo thời gian và được ghi nhận trong các văn bản pháp lý, như Đạo luật của
Anh năm 1689 về các quyền. Năm 1776, Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
Mĩ cũng đã ghi nhận: "Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo
hóa cho họ có quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền


15

ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh
phúc". Khi cách mạng tư sản Pháp thành công năm 1791 Bản tuyên ngôn

nhân quyền và dân quyền Pháp cũng khẳng định: "Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi". Hiện nay, những ghi nhận và khẳng định ấy về quyền con người vẫn là
điều mong muốn được thực hiện đối với mỗi con người và tất cả các quốc
gia trên thế giới. Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử con người luôn
phải đấu tranh để bảo đảm các quyền đó cho họ.
Quyền con người, đó không phải là khái niệm mới mẻ hay xa lạ gì
đối với tất cả mọi người trên thế giới nói chung và nhân dân Việt Nam nói
riêng, một dân tộc có truyền thống "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn". Lịch sử
Việt Nam đã ghi nhận, nhiều triều đại phong kiến anh minh đã biết "lấy việc
dân yên, khoan cho dân làm kế sâu bền gốc". Quyền cơ bản của con người,
một lần nữa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn
độc lập ngày 02/09/1945 khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nhà nước với vị trí trung tâm của hệ thống chính trị phải luôn luôn
tôn trọng và bảo đảm để quyền con người được thực hiện trong thực tế. Bởi
lẽ, quyền con người chỉ có thể trở thành hiện thực khi nó được Nhà nước bảo
đảm thực hiện bằng các chế định pháp lý. Con người trong mỗi quốc gia đều
được Nhà nước quy định cho họ nh^ig quyền và nghĩa vụ cụ thể, đồng thời
có những bảo đảm cần thiết để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Để thực hiện điều đó, Nhà nước có những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo
quy định của pháp luật, không cho phép bất cứ người nào vì bất kỳ lý do gì
mà xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Đồng thời Nhà nước cũng
không có quyền tước bỏ quyền cơ bản của công dân một cách vô căn cứ.
Xuất phát từ việc bảo đảm quyền của con người song song với việc quy
định và ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân, Nhà nước còn quy định
một hệ thống những chế tài bắt buộc áp dụng đối với những công dân vi phạm.


16


Trong các hệ thống chế tài đó, có chế tài về hình sự được áp dụng
đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để buộc tội và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải có những căn cứ nhất định
theo quy định của pháp luật và phải do những người, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, v ề vấn đề này
Các Mác đã nói: "Dưới con mắt của kẻ phạm tội sự trừng phạt phải là kết
quả tất yếu của hành vi của chính người đó" [77].
Điều 103 BLTTHS cũng quy định: "Khi có căn cứ xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố bị can." Như vậy, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi
người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm
Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng cần thiết đối với bị can. Cũng từ thời
điểm này, theo quy định của BLTTHS, NBC có quyền tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Để việc điều tra, truy tố, xét
xử được tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, bảo đảm
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội thì bị can, bị cáo phải
được bày tỏ quan điểm, thái độ của mình đối với lời buộc tội; được đưa ra
các chứng cứ theo quy định của pháp luật để thanh minh, bác bỏ lời buộc
tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình. Nói một cách khác, bị can, bị cáo phải có
QBC. Hơn nữa, để việc giải quyết vụ án được khách quan, CQTHTT phải
xem xét và đánh giá chứng cứ từ nhiều góc độ khác nhau. Vấn đề này đã
được khẳng định rõ tại Điều 11 BLTTHS với nội dung: "CQĐT, VKS, TA
có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo".



17

THƯ V I Ệ N
TRƯỜNG ĐA! HOC lŨÁT HA Nỏl
PHÒNG G V
C

Từ sự phân tích trên có thể khẳng định, để bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo nói riêng và quyền con người nói chung, luật
TTHS đã quy định bị can, bị cáo có QBC và những bảo đảm cần thiết để
quyền này được thực hiện trong thực tế. Việc thực hiện quy định này đồng
thời giúp CQTHTT giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, tránh được việc chỉ thiên về buộc tội và xem xét
một chiều.
Phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đó là
mục đích của quá trình THTT được khẳng định tại Điều 1 BLTTHS. Mặt
khác, "không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật". Đó là một trong những
nguyên tắc cơ bản, quan trọng không thể thiếu được trong toàn bộ quá trình
THTT, góp phần vào việc bảo vệ quyền con người cũng như QBC của bị
can, bị cáo. Theo nguyên tắc này thì, một người chỉ có thể bị buộc tội hay
kết tội khi có những căn cứ đã được tiến hành xem xét theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Việc CQĐT, VKS, TA tiến hành các hoạt động của
mình nhằm giải quyết vụ án hình sự, thực chất là xem xét bị can, bị cáo có
tội hay vô tội. Nếu họ có tội thì phải chịu loại hình phạt nào; mức hình phạt
cụ thể được áp dụng v.v... Điều đó thể hiện việc người đang bị CQTHTT
xem xét có tội hay vô tội được quyền bảo vệ mình. Lời biện hộ của họ là
một trong những chứng cứ quan trọng cần được CQTHTT xem xét để quyết
định việc kết tội hay không kết tội đối với họ.

Mặt khác, việc tranh luận tại phiên tòa được quy định tại BLTTHS
là một bước nhằm bảo đảm không chỉ cho đại diện VKS mà còn bảo đảm cho
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật
được phân tích, đánh chứng cứ của vụ án, góp phần giúp Hội đồng xét xử
(HĐXX) đưa ra những biện pháp xử lý, giải quyết vụ án phù hợp với yêu


18

cầu của pháp luật. Để việc tranh luận có hiệu quả, đòi hỏi phải tồn tại song
song hai chức năng buộc tội và bào chữa. Buộc tội và bào chữa là hai chức
năng bình đẳng trong TTHS, tức là bên buộc tội và bên gỡ tội đều có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, được đưa ra yêu cầu tranh luận trước TA.
"Tranh luận là cái gốc của sự thật", vấn đề này đã được các triết gia Hy Lạp
nhận thức từ thời cổ đại và cho đến bây giờ việc tranh luận tại phiên tòa vẫn
luôn là một bước không thể thiếu được của trình tự xét xử vụ án tại phiên tòa.
Tóm lại, cơ sở của việc quy định QBC của bị can, bị cáo bắt nguồn
từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Quyền đó luôn được đặt ra ở
bất kỳ lúc nào, không kể thòi gian. Quyền con người ở mỗí quốc gia khác
nhau, được bảo đảm thực hiện một cách khác nhau và chỉ có Nhà nước mới
có thể bảo đảm thực hiện được quyền đó. Con người trong mỗi quốc gia đều
được Nhà nước trao cho những quyền và nghĩa vụ nhất định, trong đó có
QBC. Quyền này có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu, đồng thời nó
được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quan trọng. Không ai có quyền
tước bỏ hay hạn chế quyền đó của con người một cách bất hợp pháp, vô căn
cứ. QBC của bị can, bị cáo được ghi nhận, phát triển trên cơ sở những quy
định của Hiến pháp, gắn với quá trình lập hiến, quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật TTHS; bảo vệ quyền dân chủ của công dân; góp phần giáo
dục củng cố ý thức pháp luật của công dân
1.2.


Ý NGHĨA CỦA VIỆC T H ựC HIỆN QUYỂN BÀO CHỮA CỦA BỊ

CAN, BỊ CÁO

1.2.1. Ỷ nghĩa chính trị
Thứ nhất, thực hiện QBC của bị can, bị cáo là thực hiện quyền của
công dân.
QBC của bị can, bị cáo mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, nó là một
trong những nguyên tắc hiến định quan trọng được ghi nhận ở Điều 133


19

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 với nội dung: "QBC
của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa cho mình..

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Điều 12 BLTTHS

quy định cụ thể hơn nữa QBC của bị can, bị cáo và đặc biệt quy định cả
những bảo đảm cần thiết để QBC của bị can, bị cáo được thực hiện. Đó là:
"CQĐT, VKS, TA có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện QBC
của họ". Việc ghi nhận cụ thể cơ chế bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị
cáo trong BLTTHS chứng tỏ quyền dân chủ của công dân và cơ chế tự do
dân chủ ngày càng phát triển và mở rộng ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ
đổi mới, các quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, thực hiện QBC của bị can, bị cáo là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên

thế giới. Đặc biệt các thế lực phản động và hiếu chiến luôn lấy vấn đề nhân
quyền để kích động nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta
đang trên đà phát triển mạnh với công cuộc đổi mới toàn diện, chứng ta đã
đạt được những thành quả to lớn, đặc biệt là phát huy toàn diện quyền tự
do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền của con người. Việc Hiến
pháp và các văn bản pháp luật liên quan ghi nhận QBC của bị can, bị cáo
trước các CQTHTT và cơ chế bảo đảm thực hiện là nhiệm vụ của chính các
cơ quan đó chứng tỏ bản chất dân chủ của nhà nước ta. Điều đó đã được
cộng đồng quốc tế thừa nhận. Đó cũng là biểu hiện mục tiêu phát triển vì
con người, lấy con người làm trọng tâm và động lực cho sự phát triển của
đất nước.
Thứ ba, thực hiện QBC của bị can, bị cáo là thể hiện của việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN con người luôn được Đảng và
Nhà nước đặt vào vị trí trung tâm của chính sách kinh tế - xã hội. Bảo đảm


×