Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Quan hệ pháp luật những vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.08 MB, 215 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Tư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ VĂN LONG

QUAN HỆ PHÁP LUẬT - NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN
VÀ THƯC TIỄN ở VIÊT NAM HIÊN NAY






Chuyên ngành : Lý luận nhà nước và pháp luật
M ã số

: 5.05.01
THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAIHOC lŨÂTHÀ NÒI
PH Ò NG G V
£-ÌM

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Minh Tâm

HÀ NỘI-2003




LỜ I CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Văn Long


M Ụ C LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1 :

1
MỘT s ố VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ QUAN HỆ

7

PHÁP LUẬT

1.1.


Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật

1.2.

Cấu thành quan hệ pháp luật

19

1.3.

Phân loại quan hệ pháp luật

49

1.4.

Vị trí, vai trò củàxquan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật và trong đời sống thực tiễn

60

1.5. Điều kiện làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ
pháp luật

68

Chương 2: QUÁ TRÌNH

HÌNH


thành



p h á t t r iể n c ủ a

7

75

HỆ THỐNG QUAN HỆ PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
1945 ĐẾN NAY

2.1.

Các đặc điểm cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống quan hệ pháp luật Việt Nam

75

2.2.

Khái quát về sự phát triển của hệ thống quan hệ pháp luật
Việt Nam qua các giai đoạn

82

Thực trạng hệ thống quan hệ pháp luật Việt Nam hiện nay


108

3.

Chương 3ĩ

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRlỂN

140

HỆ THỐNG QUAN HỆ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY

3.1.

Những yêu cầu cơ bản đối với việc phát triển hệ thống
quan hệ pháp luật Việt Nam hiện nay

142

3.2.

Phương hướng và các giải pháp đối với việc phát triển hệ
thống quan hệ pháp luật Việt Nam hiện nay

169

KẾT LUẬN

197


NHŨNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG B ố LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN

200

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

201

PHỤ LỤC

208


NHŨNG T ừ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLHS:

Bộ luật Hình sự

LDN:

Luật Doanh nghiệp

LLĐ:


Luật Lao động

LHNGĐ: Luật Hôn nhân và gia đình


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mói và sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề cần
được kiến giải về phương diện lý luận và kiểm chứng về mặt thực tiễn. Trong
đó, hoàn thiện lý luận quan hệ pháp luật, củng cố, mở rộng và phát triển hệ
thống quan hệ pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản và thiết thực.
Quan hệ pháp luật là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của khoa
học pháp lý, vì vậy nó đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Các kết quả nghiên cứu đó đã góp
phần hình thành cơ sở lý luận về quan hệ pháp luật và ở mức độ này hay mức
độ khác được vận dụng trên thực tế góp phần giải quyết những vấn đề cụ thể
của đời sống pháp lý. Tuy nhiên, trong điều kiện nhà nước và pháp luật có
những thay đổi thì quan hê pháp luật có nhiều đổi biến đổi hơn so với các hiên
tượng khác. Chính vì vậy, các kết quả nghiên cứu trước đây bộc lộ những điểm
không phù hợp và thích ứng. Việc sử dụng các kết quả nghiên cứu đó sẽ gián
tiếp đem lại hậu quả làm bó hẹp khung pháp luật và khả năng hành vi thực
tiễn của chủ thể. Điều này đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu về quan hệ
pháp luật để không làm hạn chế tư duy nhận thức về điều chỉnh pháp luật, xác
định luận cứ phân chia ngành luật và chế định pháp luật.
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, quan hệ pháp luật là một thành tố
quan trọng. Nó là tấm gương phản chiếu đời sống pháp lý hiện thực trên tất cả

các lĩnh vực của đất nước qua mỗi chặng đường xây dựng và phát triển. Đồng
thời nó là cơ sở, môi trường thực tế để đánh giá hiệu quả pháp luật, giá trị xã
hội của pháp luật. Điều này cho thấy, quá trình nghiên cứu quan hệ pháp luật
ngoài việc tiếp tục phát triển lý luận cơ bản, đòi hỏi phải có sự ứng dụng vào
thực tiễn để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, làm sáng tỏ các vấn đề nóng


2

hổi và thiết thực là hiện nay vì sao pháp luật ít đi vào cuộc sống, hiệu quả
pháp luật không cao, trật tự pháp luật và pháp chế còn lỏng lẻo.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập ở nước ta hiện
nay, quan hệ pháp luật hình thành, vận động đa dạng, linh hoạt. Tuy nhiên, hệ
thống quan hệ pháp luật cũng như các yếu tố cơ sở của nó đã bộc lộ những
điểm hạn chế nhất định. Đó là thiếu tính cân đối trong sự phát triển của các
loại quan hệ pháp luật, năng lực chủ thể không theo kịp với nhu cầu đòi hỏi
của đời sống xã hội, cơ chế kiểm soát quá trình hình thành và vận động quan
hệ pháp luật trên thực tế kém hiệu quả, nhiều loại quan hệ pháp luật bị biến
dạng về cơ cấu và tính chất v.v... Điều này cho thấy, không những phải có một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, nâng cao hiệu quả pháp luật mà cần thiết phải
xem xét một cách toàn diện về hệ thống pháp luật trên cơ sở gắn liền việc
nghiên cứu cơ bản với khảo cứu hệ thống quan hệ pháp luật thực tế. Đây là
công việc khó khăn bởi quan hệ pháp luật là một hiện tượng phức tạp trong
nhận thức luận, sự tồn tại, vận động và phát triển của quan hệ pháp luật trên
thực tế rất đa dạng, linh hoạt đồng thời chịu sự tác động đa chiều của nhiều
yếu tố. Sự hình thành và phát triển của hệ thống quan hệ pháp luật trên thực tế
không chỉ mang tính pháp lý mà còn thể hiện cả những đặc điểm chính trị,
kinh tế, tâm lý, xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử.
Chúng tôi chọn đề tài: "Quan hệ pháp luật - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay" làm luận án với mong muốn có được cách

nhìn tổng quan, khoa học về quan hệ pháp luật và khái quát được những nét
căn bản về thực trạng hệ thống quan hệ pháp luật nước ta qua các giai đoạn
phát triển khác nhau. Trên cơ sở của việc nghiên cứu một cách toàn diện đó có
thể rút ra được những kết luận, làm sáng tỏ những nguyên nhân và tìm kiếm
các giải pháp nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống quan hệ pháp luật
Việt Nam trong điều kiện đổi mới, hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay vấn đề quan hệ pháp luật có ý nghĩa lớn về mặt lý
luận và thực tiễn vì vậy nó đã thực sự tạo ra được sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ở Liên Xô trước đây
như:

c.c.

ALekceeb; Ju K. Tolstj; Y.A.Ylin; A.A.Kovatrev;

v.o.

Lutrin;

A.E.Kazlov; A.V.Miskevich; A.F.Sebanov; V. p. Kãmichuc; V. M. Gorshenev;

c.

A Komarov;


v.v.

Lazareva; N.I.Matuzova; V.N. Khropanhiuc v.v... đã

nghiên cứu quan hệ pháp luật dưới góc độ khoa học lý luận chung và khoa học
chuyên ngành. Những công trình khoa học của các tác giả này đã đề cập đến
nhiều nội dung như khái niệm, đặc điểm, cơ cấu của quan hệ pháp luật cũng
như vị trí, vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và
trong đời sống thực tiễn. Nhìn chung, đa số các nhà khoa học đều thừa nhận
khái niệm quan hệ pháp luật là một khái niệm có tính nền tảng của khoa học
pháp lý nên ít nhiều nó cũng đã đem lại tính thống nhất trong nhận thức nghiên
cứu về các dạng quan hệ pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, trong tình hình
hiện nay, khi mà quan hệ pháp luật có sự biến đổi linh hoạt, không ít nhà
khoa học lại cho rằng, không nên quan niệm như vậy nữa bởi nó sẽ làm hạn
chế sự cởi mở tư duy điều chỉnh pháp luật, bó hẹp hệ thống quan hệ pháp luật
thực tiễn.
Ở nước ta, hoạt động nghiên cứu quan hệ pháp luật nói chung chưa có
nhiều và chưa mang tính chuyên sâu. Riêng đối với hệ thống quan hệ pháp
luật Việt Nam cũng chưa được nhận thức về mặt lý luận và khái quát, đánh giá
về thực trạng vận động và phát triển. Do vậy, các tài liệu nghiên cứu về đề tài
này còn quá ít, nội dung cũng mới dừng lại ở một vài khía cạnh như: quyền
chủ thể, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, phân loại quan hệ pháp luật hoặc
nghiên cứu quan hệ pháp luật với tư cách là một yếu tố trong cơ chế điều
chỉnh pháp luật. Xét về tính chất, mức độ thì đó mới chỉ là những bài viết đăng
ở các tạp chí; trong giáo trình môn học lý luận chung về nhà nước và pháp luật


4


hoặc là một phần nhỏ liên quan đến đề tài khác. Có thể nêu lên một số tài liệu
như: Chương "Quan hệ pháp luật" trong cuốn chuyên khảo: Những vấn đề lý
luận cơ bản về pháp luật của GS.TSKH Đào Trí úc; "Quan hệ pháp luật xã
hội chủ nghĩà' của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số
12-1996, số 2-1997; ''Một số vấn đề về quan hệ pháp luật" của TS. Hoàng Thị
Kim Quế, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, t. XV, 2-1999; "Sự
kết hợp các lợi ích xã hội trong việc qui định và thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của chủ thể quan hệ pháp luật" PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 12-2002; chương "Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa", giáo
trình môn học của các trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Hành chính Quốc gia.
3.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

+ Mục đích nghiên cứu
Tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ
pháp luật ở Việt Nam hiộn nay nhằm mục đích:
- Nghiên cứu và hình thành một cách có hệ thống lý luận về quan hệ
pháp luật trong điều kiện, hoàn cảnh đổi mới hiện nay ở nước ta.
- Khái quát được những nét căn bản về sự hình thành và phát triển hệ
thống quan hệ pháp luật Việt Nam từ 1945 đến nay.
- Nêu lên được nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng biến dạng về
cơ cấu, tính chất của quan hệ pháp luật và yêu cầu, phương hướng và các giải
pháp nhằm củng cố và phát triển hệ thống quan hệ pháp luật Việt Nam trong
xu thế hội nhập và phát triển.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận án có các nhiệm vụ cơ
bản như sau:



5

- Phân tích, so sánh các quan điểm hiện hành khác nhau về một số nội
dung cơ bản của quan hệ pháp luật. Trên cơ sở đó xây dựng khái niệm quan hệ
pháp luật có tính toàn diện và góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về đặc điểm,
cơ cấu, phân loại, vị trí, vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật và trong đời sống thực tiễn.
- Nghiên cứu tổng quan về quá trình hình thành, vận động và phát triển
của hệ thống quan hệ pháp luật Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích đánh giá
thực trạng hệ thống quan hệ pháp luật khẳng định những điểm tích cực cần
phát huy đồng thời tìm ra những hạn chế, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Trên cơ sở lý luận và và thực trạng đó, luận án nêu lên một số yêu
cầu, phương hướng và các giải pháp xây dựng hệ thống quan hệ pháp luật Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay.
+ Phạm vi nghiên cứu
Trước hết phải nói rằng, quan hệ pháp luật là một hiện tượng pháp lý
liên quan đến nhiều yếu tố trong đời sống xã hội đồng thời đó là vấn đề phức
tạp trong nhận thức luận. Bởi vậy, luận án không thể giải quyết được một cách
toàn diện các nội dung về lý luận và vấn đề đặt ra từ thực tiễn của quan hệ
pháp luật. Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về các
quan hệ pháp luật; khái quát những nét chính về hệ thống quan hệ pháp luật
nước ta từ 1945 đến nay và yêu cầu phương hướng đối với việc phát triển hệ
thống quan hệ pháp luật Việt Nam (chủ yếu dưới góc độ là những quan hệ
pháp luật được hình thành từ những sự kiện pháp lý hợp pháp, tích cực)
4.

Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương

pháp luận của triết học Mác - Lênin; lý luận chung về nhà nước - pháp luật;
các quan điểm của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật. Các phượng pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là:
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so
sánh, phương pháp lôgíc biện chứng.


6

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Đây là công trình khoa học đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống về quan hộ pháp luật và hệ thống quan hệ pháp luật ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích các cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về
những yếu tố cơ bản của quan hệ pháp luật, luận án đã nêu lên những thuộc
tính phức tạp của mỗi yếu tố, xây dựng khái niệm quan hệ pháp luật có tính cơ
sở khoa học và tính toàn diện góp phần tạo nên tính thống nhất về quan hệ
pháp luật và các dạng thức quan hệ pháp luật chuyên ngành.
Bằng việc đánh giá quá trình hình thành, phát triển cũng như thực
trạng hệ thống quan hệ pháp luật, luận án đề xuất phương hướng và các giải
pháp nhằm nâng cao tính hiện thực của quan hệ pháp luật, củng cố và phát
triển hệ thống quan hệ pháp luật trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án được coi là công trình chuyên khảo đầu tiên về quan hệ pháp
luật ở nước ta. Những kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung và phát triển
những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học pháp lý, tạo ra cơ sở khoa học cần
thiết để nghiên cứu các dạng thức quan hộ pháp luật chuyên ngành vốn rất đa
dạng và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Luận án có thể sử dụng phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
khoa học pháp lý và hỗ trợ cho các nhà hoạt động thực tiễn trong các cơ quan

pháp luật.
Các kết luận, ý kiến được trình bày trong luận án có tính hữu ích đối
vói các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật,
tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật, giải quyết một số vấn đề mới
nảy sinh trong thực tiễn đồi sống pháp lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án bao gồm 3 chương, 10 mục.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN
VỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI NIỆM



ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT

1.1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật
Trong khoa học pháp lý, khái niệm quan hộ pháp luật là một trong
những khái niệm cơ bản thuộc phạm vi nghiên cứu của khoa học lý luận
chung về nhà nước và pháp luật và được xem xét một cách cụ thể hơn trong
các môn khoa học pháp lý chuyên ngành. Trong bất kỳ một ngành luật nào thì
các nhà khoa học cũng cố gắng xác định rõ nội dung và những nét đặc thù của
quan hệ pháp luật được quyết định bởi đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh của ngành luật đó. Những đặc điểm của việc điều chỉnh của các

ngành luật khác nhau được thể hiện ở cấu trúc các quan hệ pháp luật, ở mối
tương quan giữa quyền và nghĩa vụ, ở thành phần và những đặc điểm pháp lý
của các chủ thể, ở các phương tiện tác động tói hành vi của các chủ thể đó.
Việc nghiên cứu các quan hệ pháp luật cụ thể đã khám phá sâu hơn mối liên
hệ giữa đối tượng và phương pháp điều chỉnh, các qui luật khách quan của mối
tương quan giữa các loại quan hệ xã hội khác nhau với hình thức pháp lý của
chúng. Việc nghiên cứu đặc điểm của các dạng quan hộ pháp luật khác nhau
đã làm phong phú thêm lý luận về quan hệ pháp luật, làm sáng tỏ nội dung,
bản chất của các quan hệ pháp luật đó.
Thực tế ở nước ta, quan hệ pháp luật cũng đã được nghiên cứu ở mức
độ nhất định của khoa học lý luận chung và khoa học pháp lý chuyên ngành.
Tuy nhiên việc nghiên cứu đó chưa có tính hộ thống và chưa có sự thống nhất
trong nhận thức về nhiều vấn đề cụ thể, trước hết là khái niệm quan hệ pháp
luật. Trong khoa học pháp lý có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quan
hộ pháp luật trong đó có một số quan điểm hiện được sử dụng phổ biến sau:


8

+ Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Quan hệ pháp luật là hình, thức pháp lý của các quan hê xã
hội. Hình thức pháp lý này xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của
pháp luật đối với các quan hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia
quan hệ pháp luật đó đều mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý
được quy phạm pháp luật qui định [82, tr. 102], [68, tr. 389].
Có thể nói, ở đây việc xem xét quan hệ pháp luật đã được gắn liền với
quan hệ xã hội với sự điều chỉnh pháp luật nên có sự hợp lý nhất định để đi
đến việc thừa nhận quan hệ pháp luật là một dạng thức quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, nếu cho rằng quan hệ xã hội là nội dung và khẳng định quan hệ pháp
luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội thì chưa chính xác. Điều này thật

sự khó lý giải đối với trường hợp quan hệ xã hội chỉ tồn tại ở một dạng thức là
quan hệ pháp luật. Loại quan hệ này không thể tồn tại ngoài hình thức pháp lý
đặc trưng đã được xác định trong quy phạm pháp luật. Việc không tuân thủ
hình thức pháp lý đó trên thực tế sẽ dẫn tới vi phạm pháp luật (ví dụ: quan hệ
về tố tụng, bảo hiểm). Hay chẳng hạn, một quan hệ pháp luật hình sự phát
sinh khi có hành vi phạm tội xâm hại đến các quan hệ nhân thân (tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm...) hoàn toàn không phải là hình thức pháp lý
của các quan hệ nhân thân đó. Trong trường hợp này bản thân quan hệ pháp
luật hình sự chỉ có thể phát sinh khi có hành vi phạm tội xâm hại đến quan hệ
nhân thân. Nếu không có hành vi phạm tội đó thì quan hệ pháp luật hình sự
cũng không thể phát sinh. Rõ ràng các quan hệ về nhân thân đã không đòi hỏi
và không thể đòi hỏi một quan hệ pháp luật hình sự nào xảy ra.
Chúng tôi cho rằng, quan hệ xã hội tồn tại và phản ánh nhu cầu điều
chỉnh nội tại của mình một cách khách quan. Khi quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh tức là nó được các quy phạm pháp luật xác định giới hạn, tính
chất pháp lý cần thiết cho sự vận động và phát triển. Quá trình thực hiện quy
phạm pháp luật làm xuất hiện quan hệ pháp luật. Thông qua các quan hệ pháp


9

luật cụ thể thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể mới được bộc lộ ra ngoài. Như
vậy, quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý đặc thù của việc thực hiện quy
phạm pháp luật trên thực tế. Còn hình thức pháp lý của quan hệ xã hội phải là
quy phạm pháp luật.
+ Quan điểm thứ hai khẳng định, "quan hệ pháp luật là những quan hệ
xã hội được quy phạm pháp luật điêu chỉnh (Rappots ýuridiques)" [66, tr. 305],
[67, tr. 429], [34, tr. 402].
Theo quan điểm này, quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh, v ề bản chất thì phải thừa nhận quá trình điều chỉnh pháp

luật tạo nên hình thức pháp lý cho quan hệ xã hội đồng thời đem lại khả năng
hình thành quan hệ pháp luật thực tế. Tuy nhiên, cần phải hiểu qụan hê xã hội
được pháp luật điểu chỉnh và quan hê pháp luật không hoàn toàn đồng nhất
với nhau. Quan hê xã hội là một khái niệm chung để chỉ mối quan hệ của con
người - con người trên một lĩnh vực hoạt đông nhất định. Quan hệ xã hội xuất
hiện và tồn tại một cách khách quan cùng vói sự phát triển của xã hội loài
người. Không phải mọi quan hệ xã hội đều được pháp luật điều chỉnh, bởi vậy
khi cho rằng "quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh" đã tỏ rõ mục đích
điều chỉnh của pháp luật tói quan hệ xã hội cụ thể nhất đinh. Hay, quan hệ xã
hội đó chính đã nằm trong "thước ngắm" của pháp luật, thuộc lĩnh vực mà
pháp luật tác động tới. Trong lúc đó, quan hộ pháp luật là khái niệm cho thấy
trạng thái thực tế của điều chỉnh pháp luật. Quan hệ pháp luật xuất hiện do kết
quả của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật trong thực tiễn và được coi
là hình íhức-co bản để thực hịẽnxĩuỵ pham pháp luật.
Hơn nữa, cũng không phải có sư điều chỉnh pháp luât tới quan hệ xã
hôi thì xuất hiện quan hệ pháp luật. Chẳng hạn, mặc dù Nhà nước ta đã có
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng, nếu các nhà đầu tư quốc tế thấy
chưa hấp dẫn (vì nhiều lý do) thì họ chưa đầu tư. Vì vậy, quan hệ pháp luật cụ
thể chưa hình thành mặc dù sự điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này đã có.


10

Điều chỉnh pháp luật thực chất là quá trình nhà nước dựa vào pháp luật và sử
dụng một loạt các phương tiện pháp lý đặc thù để bảo đảm cho các quan hệ xã
hội vận động trong một trật tự có định hướng nhất định. Điều chỉnh pháp luật
cũng có thể được hiểu là sự tác động đặc thù lên quan hệ xã hội với tính cách
nhân tố điều chỉnh có tính qui phạm và tính bắt buộc chung. Theo Giáo sư
Tiến sĩ khoa học Đào Trí ú c thì "điềiLchỉnh pháp luật đố là việc Nhà nước
dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động

theo những hướng nhất định vào các quan hệ xã hội" [85, tr. 181-182]. Điều
chỉnh pháp luật cũng có thể là dùng pháp luật để bảo vệ các quan hệ xã hội
khỏi bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tói.
+ Quan điểm thứ ba có cách lý giải khác, "quan hệ pháp luật là quan
hệ xã hội đặc biệt nảy sinh do sự tác động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và
sự kiện pháp lý" [18, tr. 327].
Khác với hai quan điểm trên, quan điểm này tiếp cận quan hệ pháp
luật từ thực tế, nghĩa là nó không thể hình thành nếu không có sự kiện pháp lý
xuất hiện, mặc dù có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Sự
kiện pháp lý chính là yếu tố bộc lộ quan hệ xã hội trên thực tế và có vai trò
làm cầu nối giữa hai hiện tượng quy phạm pháp luật vói quan hệ pháp luật.
Đây là nhũng nội dung hợp lý của quan điểm thứ ba khi nhìn quan hệ xã hội
trong một trạng thái động. Tuy nhiên, khó có thể hình dung nổi là bằng cách
nào quy phạm pháp luật lại có thể tự mình tác động "hữu cơ" tói quan hệ xã
hội được để làm xuất hiện quan hộ pháp luật nếu không có các hoạt động của
quá trình điều chỉnh pháp luật thực tiễn. Bản thân quy phạm pháp luật là qui
tắc thành văn chỉ tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật mà thôi.
+ Quan điểm thứ tư lại hiểu, "Quan hệ pháp luật là quan hệ có tính chất
tác động qua lại vê mặt xã hội trên cơ sở những sự kiện pháp lý nhất định để qua
đố chủ thể đạt được những mục đích của mình do pháp luật qui định" [84, tr. 77].
Đây là quan điểm cho thấy sự hợp lý về cách tiếp cận quan hệ pháp
luật từ thực tế và sự nhìn nhận nhạy cảm về ranh giới tác động qua lại của các


11

đặc tính xã hội - pháp lý thông qua sự kiện pháp lý. Đây là một khái niệm có
tính khái quát hóa cao về mặt lý luận, mặc dù trên thực tế không phải mọi
người có thể hiểu một cách thấu đáo và đều nhất trí với quan điểm này.
Như vậy, các quan điểm trên đã cho thấy tính phức tạp trong nhận thức

luận về quan hệ pháp luật và sự đa dạng trong cách lý giải đối với hiện tượng
này. Mặc dù có những phương pháp tiếp cận khác nhau nhưng điểm cốt lõi là
các nhà khoa học đều thừa nhận quan hệ pháp luật là môt dạng quan hê xã
hội, là hình thức đặc thù của quá trình thực hiện quy phạm pháp luật. Qua
phân tích và xem xét một cách toàn diện, chúng tôi thống nhất với các quan
điểm trên đây ở những nội dung cơ bản:
- Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội.
- Các bên tham gia quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý.
- Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý chủ thể trong quan hệ pháp
luật được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước.
- Trong điều kiện văn bản quy phạm pháp luật là nguồn tạo nên cơ sở
pháp lý của quan hệ pháp luật thì sự xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan
hệ pháp luật phải dựa trên quy phạm pháp luật.
Tóm lại, việc xây dựng khái niệm quan hệ pháp luật trước hết phải khẳng
định nó là một dạng quan hệ xã hội, nhưng đó là những quan hệ xã hội phải có sự
hiện diện của quyền, nghĩa vụ pháp lý và được bảo đảm bởi nhà nước. Những quan
hệ xã hội chưa có đủ các thuộc tính trên thì chưa trở thành quan hệ pháp luật.
Bởi vậy có thể khẳng định: Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ
ã hội được hình thành, tồn tại, phát triển trên cơ sở các quy phạm pháp
luật và được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước, đặc trưng bởi sự hiện
diện và tương tác của quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
Việc nghiên cứu để tìm ra những đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp
luật không chỉ xem xét từ những yếu tố đã được khắc họa trong nội dung của


12

quy phạm pháp luật mà cần xem xét nó trong mối tương tác với các quan hệ
xã hội của đời sống thực tế. Kinh nghiệm cho thấy, với cách tiếp cận này cho

phép chúng ta giải quyết được mối quan hệ mô thức quan hệ pháp luật được
khái quát với chính đời sống hiện thực của nó.
Trước hết, phải khẳng định quan hệ pháp luật là một dạng của quan hệ xã
hội. Quan hệ xã hội là quan hệ giữa con người vói con người hình thành trong
quá trình hoạt động thực tiễn sản xuất của cải vật chất và trao đổi tình cảm. Nếu
như quá trình sản xuất của cải vật chất là cơ sở để tồn tại và phát triển của xã hội
của con người thì trong quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế là
quan trọng nhất. Quan hệ sản xuất qui định tính chất của các mối quan hệ xã hội
khác như quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo. Được coi là một dạng
của quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật có những đặc điểm riêng biệt của mình,
nhưng cũng luôn hàm chứa những đặc điểm chung của quan hệ xã hội như:
- Hình thành khách quan ưên cơ sở nhận thức.
- Gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội
- Mang đặc điểm cá nhân và xã hội.
- Gắn liền với quá trình điều chỉnh xã hội.
Đương nhiên, không có sự đồng nhất giữa quan hệ pháp luật và quan
hệ xã hội, mặc dù điều chỉnh pháp luật đã góp phần làm biến đổi trạng thái,
môi trường vận động của quan hệ xã hội cụ thể. Sự đồng nhất này cũng không
xảy ra ngay cả trong sự biểu đạt nội dung quyền, nghĩa vụ thông qua hành vi
của chủ thể. Mặc dù vậy, các chủ thể thực hiện hành vi của mình không chỉ
tính đến sự phù hợp vói pháp luật mà còn xem xét đến tính hợp lý, hợp tình
nhìn từ góc độ điều chỉnh bằng nhiều yếu tố xã hội khác. Thông qua sự tương
tác, các quan hệ pháp luật có vai trò quan trọng trật tự hóa các quan hệ xã hội,
hướng nó phù hợp với yêu cầu của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Quan hệ pháp luật thể hiện sự ràng buộc, tương tác đặc biệt giữa các
chủ thể thông qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể đó. Đây là


13


một trong những điểm khác nhau căn bản giữa quan hệ pháp luật với quan hệ
xã hội.
1.1.2.1. Quan hệ pháp luật là quan hệ có tính ý chí
Khi tham gia quan hệ pháp luật phần lớn các chủ thể có đầy đủ năng
lực chủ thể. Điều này tạo ra cho chủ thể một khả năng nhận thức về quyền,
nghĩa vụ và các điều kiện có liên quan, khả năng điều chỉnh và kiểm soát hành
vi của mình, ý chí của chủ thể thuộc phạm trù chủ quan của chủ thể, vì vậy
không phải bao giờ chúng ta cũng có thể nhìn nhận được một cách rõ ràng nếu
nó chưa bộc lộ thông qua hành vi cụ thể. Khẳng định quan hệ pháp luật là
quan hệ có tính ý chí xuất phát từ đặc điểm nó được hình thành, tồn tại trên cơ
sở nhận thức của con người. Quá trình nhận thức để thiết lập quan hệ pháp luật
xuất phát từ nhu cầu của đời sống thực tế, nghĩa là có đối tượng cụ thể, giải
quyết những vấn đề tồn tại cụ thể. Đây là quá trình chủ thể tự tìm kiếm cách
thức nhằm chuyển nhu cầu nội tại của mình thành lọi ích, động lực thúc đẩy
chủ thể hành động một cách tích cực, có mục đích rõ ràng. Điều này chỉ đạt
được khi chủ thể thông qua quá trình nhận thức và tư duy một cách nghiêm
túc nhằm đối chiếu với yêu cầu đặt ra của pháp luật. Nhận thức và ý chí của
chủ thể càng thể hiện rõ nét khi họ tham gia những loại quan hệ pháp luật
không có sự tham gia trực tiếp của Nhà nước. Bởi ở những loại quan hệ này
chủ thể hoàn toàn độc lập, chủ động trong mọi hành vi nhằm hướng tói mục
đích của mình cũng như khách thể của quan hệ pháp luật đó. Ngoài ra, cường
độ hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể cao hoặc thấp, mạnh mẽ
hoặc yếu ớt cũng phản ánh ý chí của chủ thể tham gia quan hộ pháp luật đó.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm này có một vấn đề khó kiến giải
được một cách thỏa mãn là quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, của
toàn bộ xã hội hay của từng chủ thể hoặc là có sự kết hợp ý chí chung? Trong
sách báo pháp lý lâu nay đều cho rằng, ý chí thể hiện trong quan hệ pháp luật
có thể là ý chí của nhà nước hoặc là sự thỏa thuận ý chí của các chủ thể cùng



14

tham gia quan hệ pháp luật đó. Trong thực tế một loạt các quan hệ, chẳng hạn
như quan hệ pháp luật dân sự, lao động, đất đai, hôn nhân và gia đình... ý chí
của các chủ thể được thể hiện tương đối rõ ràng. Nhưng ở quan hệ pháp luật
hình sự ý chí của chủ thể và tính ý chí của quan hệ pháp luật không có sự
tương đồng hoàn toàn. Quan hệ pháp luật hình sự hình thành khi có tội phạm
xảy ra. ở đây, ý chí của kẻ phạm tội không phải (và hoàn toàn không muốn) là
để tạo ra quan hệ pháp luật hình sự mà là để đạt tói những kết quả nhất định từ
việc phạm tội. Nhưng hành vi của kẻ phạm tội là sự kiện pháp lý, là cơ sở hình
thành quan hệ pháp luật. Đây chính là cơ sở để các cơ quan nhà nước (hoạt
động mang ý chí nhà nước) cá thể hóa hình phạt đối với kẻ phạm tội đó.
Trường hợp quan hệ pháp luật chấm dứt do quá thời hạn, thòi hiệu thì
khi đó ý chí của chủ thể cần phải xem xét cả về mặt chủ quan và khách quan.
Nếu chủ thể không thực hiện quyền của mình thì người đó cũng đã thể hiện ý
chí của họ. Như vậy, trong cả trường hợp này quan hệ pháp luật cũng chấm
dứt dựa trên ý chí của các bên dù đó là ý chí thể hiện qua việc từ chối quyền
trong thòi hạn nhất định. Tất nhiên, nhà nước cũng có những quy phạm pháp
“* luật cho phép kéo dài thòi hạn khi có lý do chính đáng, khách quan. Cũng có
một số trường hợp, quan hệ pháp luật được hình thành không phụ thuộc vào ý
chí của các chủ thể tham gia quan hộ pháp luật. Chẳng hạn, trong quan hệ
pháp luật phát sinh từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hủy
hôn nhân trái pháp luật của đôi nam nữ nào đó.
1.1.2.2.

Quan hệ pháp luật được hình thành, tồn tại và phát ừiển

chủ yếu dựa trên cơ sở pháp lý là quy phạm pháp luật
Ở nước ta, nguồn chủ yếu tạo nên cơ sở pháp lý cho hệ thông quan hệ
pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, đa số các quan hệ pháp luật

trên thực tế được hình thành, thay đổi và chấm dứt dựa trên cơ sở pháp lý là
quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật có mối quan hệ
khăng khít, hữu cơ trong quá trình tồn tại. Tính xác thực, phù hợp của quy


15

phạm pháp luật được kiểm chứng thông qua quan hệ pháp luật, ngược lại quan
hệ pháp luật cần được quy phạm pháp luật mô hình hóa, phản ánh trước những
đặc điểm, yêu cầu cơ bản của nó. Quy phạm pháp luật có nhiều loại, chứa
đựng các thông tin khác nhau được hình thành trên nguyên lý nhận thức hiện
thực khách quan của con người. Là qui tắc hành vi, quy phạm pháp luật được
coi là phương tiện để xác định các tình huống cụ thể của hành vi có thể xảy ra
trong cuộc sống. Vì vậy, nó có khả năng mô thức hóa hành vi của con người
gắn liền với các tình huống cụ thể. Còn quan hệ pháp luật là hình thức mà ở đó
quy phạm pháp luật được hiện thực hóa về mặt nội dung hay là hình thức thực
hiện quy phạm pháp luật.
Trở thành một trong các điều kiện cơ bản để thiết lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật, quy phạm pháp luật cần giải quyết được mấy vấn đề lớn:
- Nêu rõ loại chủ thể có liên quan cùng với điều kiện, hoàn cảnh thực
tế có thể xảy ra (phần giả định).
- Yêu cầu của Nhà nước và xã hôi đối vói chủ thể trong hoàn cảnh đã
được dự liệu trước, ở đây mệnh lệnh thức nêu lên đòi hỏi của Nhà nước cho
phép hoặc bắt buộc chủ thể được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, làm
đến đâu. Nội dung phần này thể hiện tính quyền lực của Nhà nước, làm xuất
phát điểm cho việc cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ trong điều kiện đã nêu đối
với chủ thể (phần quy định).
- Những biện pháp xử lý mà Nhà nước có thể áp dụng đối với chủ thể
nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ chủ thể hoặc bảo vệ quan hệ xã hội khỏi bị
xâm hại thông qua hoạt động áp dụng pháp luật (phần chế tài).

Mặc dù quy phạm pháp luật là tiền đề cho việc hình thành, thay đổi,
chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể nhưng không phải cứ có quy phạm
pháp luật là có quan hệ pháp luật hoặc mọi quan hệ pháp luật đều được phát
sinh, thay đổi và chấm dứt trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Trên thực tế có
một số quy phạm pháp luật có nội dung không trực tiếp đưa đến việc thiết lập


16

quan hệ pháp luật cụ thể. Và, trong một số trường hợp đặc biệt thì quan hệ
pháp luật vẫn được phát sinh trên cơ sở nguyên tắc pháp luật chung, thậm chí
ngay cả khi không có quy phạm pháp luật điều chỉnh như: áp dụng tập quán
hoặc áp dụng tương tự pháp luật (chẳng hạn theo Điều 14 BLDS).
1.1.2.3jQuan hệ pháp luát cónội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể
Đây là đặc điểm cơ bản cho phép phân biệt rõ nét quan hệ pháp luật
với các quan hệ xã hội khác không do pháp luật điều chỉnh. Mỗi loại quan hệ
pháp luật cụ thể có cơ cấu chủ thể, nội dung khác nhau. Trong đó phạm trù
quyền, nghĩa vụ pháp lý chủ thể được pháp luật qui định rõ ràng nhằm tạo
thuận lợi cho chủ thể thực hiện pháp luật, tránh hiện tượng tùy tiện lạm dụng
quyền hoặc bỏ mặc nghĩa vụ. So vói các quan hệ xã hội khác, các chủ thể khi
tham gia quan hệ pháp luật có được một phương thức xử sự cụ thể, rõ ràng
hơn. Điều thuận lợi đó trước hết bắt nguồn từ đặc tính cơ bản của pháp luật là
chính xác, cụ thể, nên được xem xét tỷ mỷ trên những góc độ:
- Dung lượng quyền, nghĩa vụ.
- Phạm vi, giới hạn và mức độ cần thiết của quyền, nghĩa vụ.
- Những tiêu chí, thước đo mang tính kỹ thuật - pháp lý nhằm đánh
giá, kiểm tra việc thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ thể.
- Thời hạn, thời hiệu cần thiết cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
chính và quyền, nghĩa vụ mói phát sinh.

- Phương thức thực hiện quyền, nghĩa vụ, khả năng thừa nhận vô điều
kiện quyền, nghĩa vụ (trong những điều kiện nhất định, ví dụ trong các quan
hệ sở hữu), khả năng đối lưu quyền, nghĩa vụ (như trong quan hệ hợp đồng
mua bán).
- Các biện pháp khắc phục, xử lý khi có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
của chủ thể.
- Sự phù hợp giữa các quan hệ pháp luật vói nhau, với quan hệ xã hội
khác và với phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc...


17

THƯ V I Ệ N
TRƯONG ĐAI lO C l Ũ.ÃI h a
p h ò n g Gv

nôi

Quan hệ pháp luật giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống pháp lý và là
hình thức đặc thù của quá trình thực hiện quy phạm pháp luật. Nó vừa bị qui
định bởi chính hạ tầng cơ sở vừa chịu sự chi phối, ảnh hưởng trực tiếp của các
yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng xã hội. Nội dung quan hệ pháp luật
được xem xét trên hai phương diện là phương diện pháp lý và phương diện
thực tế.
Phương diện pháp lý thực chất là hình thức pháp lý cần và đủ, thể hiện
trên hai cấp độ:
- Cấp độ thứ nhất, được hình thành dựa trên các quy phạm pháp luật
hiện hành.
- Cấp độ thứ hai, dựa trên cơ sở quy phạm pháp luật "khung" đó thì các
cam kết, thỏa thuận bổ sung hoặc những yếu tố phát sinh mới cần thiết được

ghi nhận và đảm bảo tính pháp lý bắt buộc đối với các chủ thể.
Ví dụ: Trong ly hôn, Tòa án xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết
đinh cho ly hôn (Điều 89 LHNGĐ). Ngoài ra, Tòa án còn phải xem xét đến
những cam kết, thỏa thuận của đương sự trong việc phân chia tài sản, nuôi dưỡng
con, các nghĩa vụ có liên quan. Như vậy, phương diộn pháp lý của nội dung quan
hệ đòi hỏi phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, phù hợp với thực tiễn thì
khả năng hiện thực hóa mới cao. Tuy nhiên, có nhiều nội dung thực tế đã không
thể dự liệu trước trong phần giả định của quy phạm pháp luật, nhưng gắn liền
với các quan hệ pháp luật cụ thể thì nó được ghi nhận như là một yếu tố của
phương diện có tính pháp lý và có tính bắt buộc nhất định. Sự chuyển hóa linh
hoạt này là tất yếu vì phương diện thực tế bao giờ cũng phong phú, đa dạng.
Phương diện thực tế của nội dung quan hệ pháp luật được biểu hiện ở
các hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Có thể nói, đó là
phương diện "sống" của pháp luật và quan hệ pháp luật thông qua các hành vi
thực hiện pháp luật một cách tích cực của chủ thể. Đây là thước đo, đánh giá


18

sự phù hợp giữa hai phương diện của nội dung quan hộ pháp luật cụ thể. Hiệu
quả của việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trên thực tế còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố trong mối quan hệ đa chiều dọc, ngang của pháp luật với các hiện
tượng tự nhiên, xã hội. Không phải cứ chuẩn bị đầy đủ về phương diện pháp lý
thì phương ở diện thực tế không gặp khó khăn. Thực tế ở nước ta là có rất
nhiều quy phạm pháp luật ở các cấp độ quy định chi tiết về sở hữu, quản lý và
sử dụng đất đai nhưng hiệu quả của việc quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này
lại rất thấp, tình trạng lấn chiếm đất công và mua bán đất trái phép vẫn xảy ra
nghiêm trọng ở nhiều nơi trong cả nước.
Phương diện thực tế của nội dung quan hệ pháp luật là hành vi của các

chủ thể trong thực hiện pháp luật vì vậy nó phải là sự lựa chọn một cách tiết
kiệm nhất về thời gian, chi phí vật chất, công sức của chủ thể. Nhà nước xây
dựng một cơ chế kiểm soát và đánh giá phương diện thực tế của chủ thể phù
hợp với tính chất các quan hệ pháp luật.
1.1.2.4. Quan hệ pháp luật được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước
Được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước là một thuộc tính của pháp
luật nói chung. Pháp luật nếu mất đi thuộc tính này thì không khác gì các yếu tố
điều chỉnh xã hội khác như đạo đức, tập quán và tín điều tôn giáo. Viộc thực
hiện quy phạm pháp luật dưới hình thức quan hệ pháp luật cần được bảo đảm
bằng các biện pháp nhà nước mới đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, các biện pháp
bảo đảm nhà nước cần tính đến sự phù hợp vói các biện pháp bảo đảm xã hội
khác do quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội, hàm chứa các đặc tính
của quan hệ xã hội trong sự hình thành và phát triển. Hơn nữa, điều chỉnh pháp
luật là một dạng của điều chỉnh xã hội. Các biện pháp bảo đảm của nhà nước đa
dạng cả về hình thức, tính chất và phương diện tác động. Có những biện pháp
mang tính bắt buộc, cưỡng chế, có những biện pháp cho phép, tùy nghi. Do đó,
việc sử dụng hình thức nào cho phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại
quan hệ pháp luật là hết sức quan trọng. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp


19

lý trong các quan hệ pháp luật cụ thể không phải bao giờ cũng cần sử dụng các
biện pháp mang tính cưỡng chế. Trong đa số các trường hợp thì cơ chế tự hòa
giải, ý thức trách nhiệm cao của chủ thể, trạng thái, môi trường pháp chế và trật
tự pháp luật... đã cho phép thực hiện pháp luật có hiệu quả. Khác với các đảm
bảo xã hội khác, đảm bảo nhà nước có tính bắt buộc, chặt chẽ, được đặt trên cơ
sở nội dung chế tài pháp luật. Bảo đảm nhà nước đối với quan hệ pháp luật sẽ
làm cho trật tự pháp luật được nâng cao, hệ thống quan hệ pháp luật có thứ bậc
rõ ràng, giá trị xã hội đích thực của quan hệ pháp luật được phát huy.

Bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước đối với quan hệ pháp luật là sự
bảo đảm về pháp lý, vật chất, tổ chức, kỹ thuật, tư tưởng v.v... nghĩa là tạo lập
một môi trường có tính nhà nước-xã hội cho sự hình thành và vận động đối với
cả hệ thống quan hệ pháp luật và từng quan hệ pháp luật cụ thể. Trên thực tế,
mỗi loại quan hệ pháp luật khác nhau có sự khác nhau về phạm vi, cách thức
và yêu cầu về sự đảm bảo đó. Tuy nhiên, do Nhà nước không thể kiểm soát
hết mọi quan hệ pháp luật cụ thể xảy ra trong từng thời điểm nên sự đảm bảo
CÓ thể mang tính trực tiếp hoặc gián tiếp cho mỗi loại quan hệ pháp luật.
Đối vói những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu
hậu quả pháp lý bất lợi (có thể là sự tước đoạt hoặc hạn chế về mặt vật chất,
tinh thần) mà Nhà nước sẽ áp dụng đối với họ. Tuy nhiên, việc sử dụng các
biện pháp cưỡng chế đối với các chủ thể, nhằm khôi phục trật tự pháp luật là
cần thiết nhưng không được lạm dụng và cần phải gắn vói việc giáo dục,
thuyết phục trước khi áp dụng nó. Bản chất bạo lực, trấn áp, bản chất của
cưỡng chế là không tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đó là phương diện lý
luận cần quan tâm.
1.2. CẤU THÀNH QUAN HỆ PHÁP LUẬT
Xem xét cấu thành một quan hệ pháp luật là xem xét các bộ phận hợp
thành quan hệ pháp luật đó. Để phân tích một cách chính xác nhất cấu trúc
của quan hệ pháp luật cần xác định khái niệm cấu trúc như là phương thức liên


20

hệ của các yếu tố mang tính hệ thống trong phạm vi của cái toàn bộ. Theo
quan điểm đó có thể coi bản thân quan hệ pháp luật như là một cơ cấu, bởi vì
quan hệ pháp luật gắn liền với các chủ thể của quan hệ pháp luật đó.
Việc nghiên cứu cấu thành của quan hệ pháp luật với tính cách là sự
thống nhất giữa hình thức pháp lý và nội dung vật chất sẽ cho phép đi đến kết
luận về những vấn đề cơ bản:

- Chủ thể quan hệ pháp luật, quy chế pháp lý của chủ thể.
- Khách thể và vai trò của khách thể trên thực tế.
- Hành vi thực tế của chủ thể và mối tương quan với quyền và nghĩa vụ
pháp lý của quan hệ pháp luật.
Nếu xem xét quan hệ pháp luật ở phương diện là một hình thức đặc
thù để thực hiện quy phạm pháp luật thì quan hệ pháp luật có thuộc tính pháp
lý được hình thành từ những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Nếu xem xét quan hệ pháp luật dưới góc độ là sự thống nhất giữa nội
dung vật chất và hình thức pháp lý thì ngoài quyền, nghĩa vụ, quan hộ pháp
luật còn có hai yếu tố nữa là chủ thể và khách thể. Trong khoa học pháp lý
nước ta, quan điểm được thừa nhận và sử dụng rộng rãi là quan hệ pháp luật
gồm ba yếu tố hợp thành: chủ thể, khách thể và nội dung quan hệ pháp luật
(quyền, nghĩa vụ pháp lý).
1.2.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là hiện tượng pháp lý luôn gắn liền vói vai trò của
chủ thể. Trong bất cứ loại quan hệ nào thì chủ thể cũng là yếu tố quyết định
trạng thái vận động, sự liên kết giữa các bộ phận hợp thành của quan hệ. Một
đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật là cơ cấu chủ thể bao giờ cũng rõ ràng,
cụ thể. Trong khoa học pháp lý, vấn đề chủ thể quan hệ pháp luật được nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, do tính đa dạng và phức tạp của nó,
chủ thể quan hệ pháp luật vẫn là vấn đề có tính thời sự cần phải tiếp tục
nghiên cứu. Khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật cũng như các


×