Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Mối quan hệ giữa toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.18 MB, 112 trang )


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

B U N L A I. A N Ê K A

H O À N T H IỆ N P H Á P LU Ậ T V Ể T ổ C H Ứ C VÀ H O Ạ T Đ Ộ N G




CỦA T Ò A ÁN NHÂN DÂN ở NƯ ỚC C Ộ N G H Ò A DÂN C H Ủ
NHÂN DÂN LÀ O

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 60 . 38 . 01.

LUẬN
• V M THAC




THỮvĩêH

LUẬT
• HỌC



s i

'ị

TRƯỜNG ĐẠI HỌC lÙÁÌ HÀ NỌ' Ị
PHÒNG ĐỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Đoan
Khoa Hành chính Nhà nước - Trường Đại học Luật Hà Nội

HÀ NỘI - 2003






LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bô trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn
BUNLAI. ANÊKA


M ỤC LỤC
T rang
PHẨN MỞ Đ Ầ U ................................................................................................................


1

Chương L Pháp luật vói việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ............................................
1.1.

Pháp luật với việc xác định vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong
bộ máy Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ..................................

1.2.

6

6

Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân L à o .............................................

22

C h ư ơm 2. Pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân L à o .....................................
2.1.

Các quy định của pháp luật về hệ thống, cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân Lào................................................................................................

2.2.


39

Các quy định của pháp luật về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Toà án nhân dân Lào .

2.4.

37

Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân
dân ở Lào.

2.3.

34

42

Một số nhận xét về các quy định của pháp luật hiện hành đối với công
tác tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân L à o ...............................

54

Chương 3. Những biện pháp cơ bản đê hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào trong giai đoạn hiện n a y ..........................................................................
3.1.

65


Những quan điểm chỉ đạo đối với việc hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân Lào...........................................

65

3.2. Không ngừng xậy dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân Lào...........................................

73


3.3.

Tổ chức thực hiện nghiêm minh pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân Lào............................................................................

81

3.4 . Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý những sai phạm,thiếu
sót trong việc thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động củaTòa án
nhân dân L à o ...............................................................................................

89

KẾT LUẬN........................................................................................................................

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................


103


PH Ẩ N M Ở ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐẾ TÀI:

Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào là Nhà nước dân chủ nhân dân do
nhân dân và vì lợi ích của nhân dân các bộ tộc bao gồm các tầng lớp nhân dàn
do giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nòng cốt. Vì vậy, quyền lực
Nhà nước là của nhân dân do Quốc hội làm đại diện.
Các cơ quan Nhà nước ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước thực hiện
quyền lực thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ, quyền hạn của
mỗi cơ quan Nhà nước được phân công, phân nhiệm theo vị trí, tính chất, chức
năng của mỗi cơ quan nhằm xây dựng quyền lực Nhà nước vững mạnh để đạt
được mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và phồn vinh.
Theo sự phân công, phân nhiệm thì Toà án nhân dân của nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào là cơ quan xét xử của Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, góp
phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, nghiêm chỉnh thực hiện pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng và
chống tội phạm, và những vi phạm khác.
Hệ thống Toà án nhân dân Lào đã được thành lập khá hoàn chỉnh, từ
trung ương đến địa phương và hoạt động theo chức năng, thẩm quyền do luật
định đã góp phần xây dụng và bảo vệ đất nước, đảm bảo đoàn kết dân tộc, bảo
vệ sự công bằng, công lý, tôn trọng và chấp hành pháp luật, đảm bảo xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đảm bảo pháp chế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống Toà án
nhàn dân của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào còn có những bất cập và

tồn tại, nhiều vấn đề về pháp luật, về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân
dân, cơ chế, nguyên tắc chưa được quy định chặt chẽ. Nhiều vấn đề đã được


pháp luật quy định nhưng đến nay không còn phù họp với tình hình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước... đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa
án nhân dân.
Trước tình hình đổi mới toàn diện của đất nước, hệ thống Toà án nhân
dân của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cần được đổi mới theo hướng
gọn nhẹ, có hiệu quả cao phù hợp với tình hình thực tế khách quan.
Vấn đề cấp bách đặt ra về lý luận là đưa ra được những giải pháp thích
đáng đúng mức để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
được tiến hành có hiệu quả phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước.
Chính vì vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật về tổ chức yà hoạt động của
Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được chúng tôi chọn
làm đề tài. Có thể nói, đây là một vấn đề quan trọng và cấp bách cả về lý luận
và thực tiễn.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ú u ĐỂ TÀI:

Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án Nhân dân đã được
nhiều nhà nghiên cứu khoa học đề cập đến, những công trình, bài viết về vấn
đề này có thể kể đến như:
Ở Việt Nam có các công trình như: bài viết “Đẩy mạnh cải cách tư
pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam'" trên báo
nhân dân của Chủ tịch nước Trần Đức Lương; “Vấn đề đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan Tư pháp ở nước ta ” trên tạp chí dân chủ và pháp
luật của Tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc; “Đặt một số vấn đề cần đề cập trong đổi
mới các cơ quan Tư pháp Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn ” của
PGS.TS Hoàng Thế Liên trên sách thông tin khoa học pháp lý; “Cải cách nền

T ư pháp Việt Nam gắn liền với việc được và đổi mới đội ngũ cán bộ Tu’
p h á p ”trên sách thông tin khoa học pháp lý của PGS.TS Lê Minh Tâm; “Về
m ột s ố vấn đ ề cần đề cập trong việc nghiên cứu đề tài cải cách tư pháp ở Việt


Nam 'Tham luận của TS. Đặng Quang Phương tại Hội thảo cải cách tư pháp những vấn đề về phương pháp về nội dung nhgiên cứu; “Nội dung cơ bản của
khái niệm hệ thống Tư pháp và các nguyên tắc đổi mới hệ thống Tư pháp ”trên
tạp chí dân chủ và pháp luật của PGS. TSKH Đào Trí ú c; “Đổi mới tổ chức
và hoạt động của các cơ quan Tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt N a m ”, luận án Tiến sĩ của Nghiên cứu sinhTrần Huy Liệu; “Đổi
mới tổ chức vờ hoạt động của Toà án Nhản dân ở nước ta hiện n a y”, luận
văn Thạc sĩ của Đinh Tiến Hùng.
Ó Lào đã có những công trình nghiên cứu như : “Xảy dựng và hoàn
thiện hệ thống Pháp luật trong điều kiện đổi mới hiện nay ở Cộng hoà dân
chủ Nhân dân L à o ”, luận án tiến sĩ của Chom Khăm BúpPhá -LyVăn; “Hoàn
thiện pháp luật kinh tế trong quá trình đổi mới quản lý kinh tế của nước Cộng
hoà dân chủ Nhân dân L à o ”, luận án tiến sĩ của x ổ m Xay Xỉ Hà Chắc. Vì
vậy, có thể nói vấn đề “Hoàn thiện Pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Toà án Nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào ” là vấn đề mới mẻ
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, đề tài
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án Nhân dân ỏ
nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân L ào” là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống dưới góc độ khoa học pháp lý phân tích cụ thể những
quan điểm về pháp luật tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, góp phần
vào quá trình hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này là rất cần thiết và
là nhu cầu đòi hỏi của thực tế khách quan, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và
hiệu quả xét xử của hệ thống Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN VĂN.


Mục đích của luận văn là nghiên cứu các vấn đề về lý luận cũng như
thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân. Qua đó đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp


luật về tổ chức và hoạt động của Toà án Nhân dàn ở nước Cộng hoà dán chủ
Nhân dân Lào trong tương lai, góp phần đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn
thiện pháp luật của Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, tạo hành lang
pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân để đảm bảo nguyên tắc
quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp c h ế .
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là tìm hiểu những
vấn đề về lý luận và thực tiễn của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân của các nước trên thế giới; phân tích, nghiên cứu, đánh gía thực
trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân Lào, trên cơ sở
đó, xác định các phương hướng và giải pháp thích đáng để xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà
dân chủ Nhân dân Lào.
4. C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u .

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lê nin về Nhà nước
và pháp luật. Đặc biệt là những tư tưởng của Mác - Ăng ghen, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các Văn kiện của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị cải cách bộ máy Nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật
của đất nước Lào, kế thừa các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả
Việt Nam, Lào có liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, sử dụng những phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, tổng kết

thực tiễn.
5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN:

Luận văn được nghiên cứu dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn, phán
tích, đánh giá thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án Nhân
dân ở Lào, từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt


động của Toà án Nhân dàn ở Lào. Điều đó được thể hiện ở các điểm cơ bản
sau đây:
- Luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ, vai trò của pháp luật đối với việc
tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân ở Lào .
- Tác giả luận văn đã đánh giá toàn diện pháp luật hiện hành về tổ chức
và hoạt động của Toà án Nhân dân ở Lào, xác định rõ những thành tựu, những
yếu kém và nhũng nguyên nhân tồn tại yếu kém đó, trên cơ sở đó đề xuất các
biện pháp, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
phù hợp với thực tiễn đổi mới của đất nước Lào.
- Trên cơ sở những quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng nhân dân
cách mạng Lào, tác giả làm rõ những biện pháp hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Toà án Nhân dân ở Lào phù hợp với chủ trương cải
cách nền tư pháp của Đảng và xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân do dân và
vì dàn.
6. C ơ CẤU LUẬN VÃN:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương; 10 mục.
Chưong I: Pháp luật với việc tổ chức và hoạt động của Toà án Nhân
dân ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào.
Chương II: Pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của Toà
án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào.

Chưong III: Những biện pháp co bản đẻ hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay.


C H Ư Ơ N G 1.
PH Á P LU ẬT V Ớ I V IỆC TỔ CHỨC VÀ H O Ạ T ĐỘNG CỦA TO À ÁN








NHÂN DÂN Ở NƯỚC CỘ N G HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. PHÁP LUẬT VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN

TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ

NHẢN DÂN LÀO .

Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước sử dụng các phương pháp
và hình thức hoạt động khác nhau. Các nhà nước thường có 3 hình thức hoạt
động chính là: Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp với hai phương pháp cơ bản là
thuyết phục và cưỡng chế.
Nhà nước thiết lập ra một bộ máy bao gồm một hệ thống các cơ quan

Nhà nước từ trung ương đến cơ sở để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước . Chức năng của Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan trong
bộ máy đó. Mặt khác, mỗi cơ quan Nhà nước lại có chức năng riêng nhằm
thực hiện chức năng của cả bộ máy Nhà nước. Vì thế không nên lẫn lộn giữa
các chức năng đó với nhau.
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân yêu nước các bộ tộc Lào qua
nhiều thập kỷ. Chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân đã được Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc ngày 2/12/1975 chính thức lựa chọn là hình thức tổ chức
Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhằm bảo vệ thành
quả cách mạng, xây dựng củng cố và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân.
Nhà nước cách mạng đầu tiên của chế độ Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào được tổ chức hoạt động theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý
và nhân dân làm chủ". Các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị gồm có:
Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Trong


đó cấu trúc Nhà nước là bộ phận lớn nhất. Cơ cấu cơ quan quyền lực Nhà nước
đầu tiên của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc bầu và thông qua ngày 2/12/1975 gồm có:
+ Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
+ Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội).
+ Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ).
* Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người tượng trưng cho sự
đoàn kết thống nhất các bộ tộc trên cả nước, là người thay mặt nhân dân trong
quan hệ quốc tế, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
* Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội): Hội đồng nhân dân tối cao đầu
tiên của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc bầu ra gồm có 45 thành viên (trong đó có 4 thành viên nữ), một chủ tịch

và phó chủ tịch, một tổng thư ký thường trực. Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối
cao đồng thời cũng là Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Hệ
thống tổ chức của Hội đồng nhân dân đầu tiên của Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào được thiết lập theo 4 cấp sau đây:
-

Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội); Hội đồng nhân dân tỉnh, thành

phố; Hội đồng nhân dân huyện và Hội đồng nhân dân xã. Hội đồng nhân dân
các cấp ở địa phương do nhân dân địa phương bầu cử và bãi miễn. Qua thực
hiện nhiệm vụ của mình gần 14 năm, Hội đồng nhân dân tối cao khóa đầu tiên
đã hết nhiệm kỳ (26/3/1989), được thay bằng Hội đồng nhân dân tối cao khóa
II do công dân Lào toàn quốc trực tiếp bầu cử. Hội đồng nhân dân tối cao
khóa này ngoài Chủ tịch, Phó Chủ tịch còn có u ỷ ban thường vụ và các ban
phụ trách các lĩnh vực quan trọng của đất nước, trong đó có ban phụ trách
pháp luật. Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao khóa II không kiêm chức Chú
tịch nước như khóa trước, chỉ phụ trách chức vụ chính của mình là cơ quan lập
pháp tối cao, tức Hội đồng nhân dân tối cao có vai trò trọng yếu là chuyên


đường lối đổi mới do Đảng nhân dân cách mạng Lào khởi xướng thành Hiến
pháp đầu tiên của chế độ Cộng hòa dân chú nhân dân Lào và ban hành một số
luật mới. Hệ thống tổ chức Hội đồng nhân dân Lào khoá này chỉ có 3 cấp: Hội
đồng nhân dân tối cao; Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố; Hội đồng nhân
dân huyện.
* Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ): Hội đồng Bộ trưởng - Chính phủ
đầu tiên của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cũng do Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc bầu và thông qua gồm 39 thành viên, trong đó có một Thủ
tướng và 4 Phó Thủ tướng. Người đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng, đồng thời
cũng là Tổng bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Hội đồng Bộ trưởng với

tư cách là cơ quan hành pháp của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
* Chính quyền địa phương: ở địa phương hệ thống chính quyền quản lý
hành chính lãnh thổ là Uỷ ban nhân dân các cấp: u ỷ ban nhân dân tính, thành
phố; Uỷ ban nhân dân huyện; Uỷ ban nhân dân xã; Uỷ ban nhân dân cấp bản
làng. Chủ tịch chính quyền địa phương các cấp không do Bí thư cấp uỷ Đang
các cấp kiêm nhiệm, tức là có Chủ tịch và Bí thư riêng.
* Cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân): Sau khi nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời, hệ thống bộ máy quyền lực Nhà nước
do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu, Tòa án nhân dân là một bộ phận
trong hệ thống cơ quan tư pháp nằm trong hệ thống bộ máy Nhà nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào. Để đảm bảo cho việc quản lý Nhà nước, xã hội có
trật tự, kỷ cương và việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Pháp lệnh số 53 ngàv
15/10/1976 về hệ thống tổ chức hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và các
quy trình, nguyên tắc thi hành án.
Theo nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân được quy định tại pháp
lệnh số 53 ngày 15 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng chính phủ Lào thì Toà
án nhàn dân thực hiện chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hội


đồng xét xử của Toà án cấp huyện gồm có 3 thành viên do trưởng phòng tư
pháp huyện là chủ toạ phiên toà và 2 hội thẩm nhân dân là thành viên, khi tiến
hành xét xử các thành viên trong Hội đồng xét xử có quyền ngang nhau.
Ngoài ra, còn có thư ký phiên toà được chỉ định từ cán bộ của Phòng tư pháp
huyện và công tố viên tham gia. Đối với Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm của Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố cũng thực hiện như Hội đồng xét xử của Toà án
nhân dân cấp huyện nhưng chủ toạ phiên toà là Phó giám đốc sở tư pháp tỉnh
đảm nhiệm. Còn đối với các thành phần của Hội đồng xét xử của Toà phúc
thẩm cấp tỉnh, thành phố thì gồm có 5 thành viên trong đó gồm có 1 thẩm
phán là chủ toạ phiên toà và 4 Hội thẩm nhân dân là thành viên. Chủ toạ phiên

toà do giám đốc sở tư pháp tỉnh, thành phố giữ quyền đảm nhiệm . Đối với
Toà án đặc biệt được thành lập để xét xử các vụ án đặc biệt là có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
Trong pháp lệnh số 53 ngày 15 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng chính
phủ Lào còn quy định là việc xét xử của Toà án phải công khai bởi lẽ để tạo
điểu kiện và cơ hội cho nhân dân thực hiện quyền kiểm soát hoạt động của
Toà án và nhận thức được sự công bằng trong xã hội đồng thời nhằm mục đích
thuyết phục giáo dục nhân dân một cách rộng rãi.
Hệ thống tổ chức Toà án nhân dân trong những năm đầu của chế độ
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào gồm có: Toà án nhân dân cấp huyện; tỉnh,
thành phố ( riêng tỉnh , thành phố có 2 cấp của Toà án là Toà sơ thẩm và Toà
phúc thẩm); và ở cấp trung ương là tạm thời thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ
tư pháp. Đối với việc thành lập Toà án cấp trung ương phải có sự phê duyệt
của Hội đồng bộ trưởng. Toà án trung ương có thẩm quyền xét xử và có hiệu
lực tuyệt đối đối với mọi vụ án mà Toà án tỉnh, thành phố đã xét xử từ 10 năm
tù đến tử hình. Toà án trung ương gồm có 1 chánh án, 2 hội thẩm nhân dân
chuyên môn, 4 hội thẩm nhân dân không thường trực, thư ký phiên toà và một
kiém sát viên cao cấp .


Giai đoạn 1983 đến 1989, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã trực thuộc Hội đồng nhân dân tối cao theo quyết định số
01 /8 3 ngày 11 tháng 10 năm 1983 và quyết định số 74 ngày 30 tháng 11 năm
1983 về quy chế tạm thời đối với Tòa án nhân dân của Hội đồng nhân dân tối
cao, còn Toà án tỉnh, thành phố và Toà án huyện vẫn trực thuộc Bộ tư pháp.
Trong giai đoạn này Hội đồng nhân dân tối cao và Bộ tư pháp đã rút kinh
nghiệm từ công tác tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tư
pháp ở trung ương cũng như ở địa phương đồng thời đã chú trọng trong công
tác xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tăng cường quản lý Nhà nước, và quản
lý xã hội, tình hình phát triển về mặt kinh tế, văn hoá, xã hội ở Lào đặc biệt là

sau khi Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Lào đã tiến hành công cuộc
đổi mới toàn diện đã đòi hỏi phải xây dựng các văn bản pháp luật để đảm bảo cho
việc phát huy dân chủ và binh đằng trong Nhà nước và toàn xã hội Lào.
Giai đoạn năm 1989 đến 1990, Hội đồng nhân dân tối cao đã tập trung
xây dựng nhiều các văn bản pháp luật trong đó có pháp luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân và pháp luật tổ chức Toà án nhân dân đã được thống nhất thông
qua tại kỳ họp lần thứ II Hội đồng nhân dân tối cao khoá II ngày 23 tháng 11
năm 1989 và được công bố áp dụng theo quyết định số 05 và 06 ngày 9 tháng
1 năm 1990 của Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Pháp luật tổ
chức Toà án nhân dân bao gồm 6 chương và 38 điều. Vị trí, vai trò của Toà án
nhân dân đã được quy định tại Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào như
sau: “Toà án nhân dân là một hệ thống của cơ quan Nhà nước trực thuộc cơ
quan quyền lực Nhà nước có chức năng tiến hành xét xử nhằm tăng cường
pháp chế và trật tự kỷ cương xã hội, loại trừ và ngăn ngừa tội phạm và vi
phạm pháp luật khác” . Nhiệm vụ của Toà án nhân dân được quy định tại Điều
2 Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào như sau: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng, chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá- xã
hội, cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp, xử phạt và thuyết phục giáo dục


người vi phạm pháp luật; nghiên cứu và loại trừ nguyên nhân và điều kiện
phạm tội; nâng cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của công dân, thuyết
phục giáo dục công dân có tinh thần yêu nước, yêu chế độ dân chủ nhân dân,
tôn trọng pháp luật của Nhà nước và những quy tắc của cuộc sống xã hội,
chấp hành nghiệm chỉnh pháp luật, chú trọng bảo vệ lợi ích của Nhà nước và
xã hội, tồn trọng quyền, tự do và danh dự nhân phẩm của công dân; thúc đẩy
công dân tích cực hoạt động phục vụ lợi ích công cộng và ngày càng rộng rãi”.
Trên thực tế nhiệm vụ đó đã gắn liền với chế độ Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào thông qua quá trình của cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng nhân dân
cách mạng Lào đã hoàn thiện và củng cố cho phù hợp hơn với tình hình thực

tế. Còn hệ thống Toà án đã được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức Toà án nhàn
dân Lào thì “Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào gồm
có: Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương (Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố, Toà án nhân dân huyện); Toà án quân sự”.
Để đảm bảo cho việc phát huy chế độ dân chủ nhân dân, pháp luật còn
quy định Toà án nhân dân được thành lập trên nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán
và hội thẩm nhân dân. Điều 4 của Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào đã quy
định “Toà án nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân các cấp bổ nhiệm và
miễn nhiệm và có nhiệm kỳ bằng nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp".
Nhưng qua công tác thực hiện chính sách đổi mới ở Lào đã có sự đổi mới về
tổ chức bộ máy Nhà nước, Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương đã không
còn tồn tại. Do đó, chỉ có Hội đồng nhân dân tối cao thực hiện việc bổ nhiệin
chánh án Toà án nhân dân tối cao, còn đối với Toà án nhân dân cấp dưới
nhiệm vụ này vẫn do Bộ trưởng Bộ tư pháp đề bạt chánh án như giai đoạn
trước. Điều 6 Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào quy định: “Tất cả mọi công
dân Lào có quyền bình đẳng trước pháp luật và Toà án không phụ thuộc vào
nơi sinh, địa vị kinh tế xã hội, dân tộc, bộ tộc, tiếng nói, giới tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tín ngưỡng, nơi cư trú và các điều kiện hoàn cảnh khác” vấn


đề này đã chứng minh cho sự bình đẳng tuyệt đối không có sự phân biệt địa vị
của cá nhân con người có liên quan tới bất cứ vụ án nào dù là dân sự hay hình
sự. Pháp Luật tổ chức Tòa án nhân dân Lào còn đề cập đến công tác xét xử
của Toà án phải được tiến hành xét xử tập thể Điều 8 Luật tổ chức Toà án
nhân dân Lào quy định: “Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có một thẩm phán là
chủ toạ phiên toà và 2 hội thẩm nhân dân là thành viên, Hội đồng xét xử cấp
phúc thẩm gồm có 3 thẩm phán trong đó một thẩm phán là chủ toạ phiên toà.
Thẩm phán và hội thẩm nhân dân có quyền ngang nhau, quyết định của hội
đồng xét xử, phải tuân theo đa số”. Nguyên tắc được quy định tại điều này của
Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào cũng mang tính chất kế thừa nguyên tắc

của Pháp lệnh số 53 ngày 15 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ
Lào. Đối với cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện và Toà
án nhân dân tỉnh cũng được quy định tại điều 18 và điều 19 Luật tổ chức Toà
án nhân dân Lào, cụ thể là: Toà án nhân dân huyện gồm có chánh án, thẩm
phán và hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân huyện bổ nhiệm và miễn
nhiệm. Toà án nhân dân huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có
giá ngạch không trên 500.000 kíp và không phụ thuộc thẩm quyền của Toà án
khác, vụ án hình sự mà pháp luật quy định không quá 2 năm tù giam và không
phụ thuộc thẩm quyền của Toà án khác và các vụ án khác do luật định. Đối
với thẩm quyền của Toà án huyện đã được sửa đổi bổ sung rộng hơn do với
thẩm quyền xét xử của Tòa án huyện theo Pháp lệnh số 53 ngày 15 tháng 10 năm
1976 của Thủ tướng Chính phủ Lào (Pháp lệnh số 53 quy định Toà án huyện chỉ
có thẩm quyền xét xử các vụ án có mức án từ 1 đến 3 tháng tù giam).
Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố cũng đã được cải tiến bổ sung
bằng các nguyên tắc mới gồm có: Chánh án, các phó chánh án, thẩm phán và
hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố bổ nhiệm và miễn
nhiệm được phân công thành các Toà dân sự, Toà hình sự và Uỷ ban thẩm
phán. Toà dân sự và Toà hình sự gồm có các phó chánh án Toà án nhân dân


tỉnh, thành phố là Chánh toà và một số thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành
phố. Toà án cấp tỉnh, thành phố có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
và dân sự không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện và các Toà án
khác; ngoài ra có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà Toà án
huyện đã xét xử sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố có thẩm quyền xét xử bản án
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân huyện theo trình tự giám đốc thẩm.
Trong pháp luật tổ chức Toà án nhân dân Lào đã quy định về cơ cấu tổ
chức của Toà án nhân dân tối cao tại điều 20 là “ Chánh án Toà án nhân dân
tối cao do Hội đồng nhân dân tối cao bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị

của Uỷ ban thường vụ Hội đồng nhân dân tối cao, các phó chánh án và thẩm
phán của Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Hội đồng nhân dân tối
cao bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của chánh án Toà án nhân dân tối
cao; còn hội thẩm nhân dân do Uỷ ban thường vụ hội đồng nhân dân tối cao
bổ nhiệm và miễn nhiệm. Trong Toà án nhân dân tối cao gồm có Toà hình sự,
Toà dân sự, Toà án quân sự cao cấp và Uỷ ban thẩm phán”. Để xét xử vụ án
theo thẩm quyền của các thành phần đó, về nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối
cao được quy định tại điều 21 Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào thì “Toà án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ hướng dẫn về mặt pháp luật và kiểm tra giám sát
công tác xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp đồng thời đảm
bảo sự thống nhất về mặt pháp luật; xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm; giải thích, chỉ đạo Đại hội thẩm phán về sự hiểu biết và thực hiện đúng
đắn pháp luật

Về thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao đã được quy định

tại điểu 22 Luật tổ chức Toà án nhân dân Lào thì “Toà án nhân dân tối cao có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm đối với vụ án đặc biệt
nghiêm trọng hay khó khăn phức tạp; xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và Toà án quân sự, xét xử giám đốc thẩm
bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân tỉnh, thành


phố và Toà án quân sự bị kháng nghị. Trong pháp luật tổ chức Toà án nhân
dàn vẫn còn quy định về cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Uỷ ban thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao, thẩm quyền của chánh án và phó chánh án Toà án
nhân dân tối cao và các quy định khác để tiến hành xét xử vụ án, trong đó đã
quy định về vị trí, chức năng và cơ cấu của Đại hội thẩm phán được coi là tổ
chức cao nhất của cơ quan xét xử để chỉ đạo Toà án các cấp trong việc thực
hiện đúng đắn và thống nhất pháp luật trong toàn quốc.

Do những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn khách quan, Hiến pháp đầu tiên
- một đạo luật cơ bản có tính pháp lý cao nhất của Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào đã được công bố áp dụng theo Quyết định số 55 ngày 15/8/1991 của Chủ
tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dán Lào, việc ban hành Hiến pháp thể hiện
sự đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, trên cơ
sở của Hiến pháp mà ban hành các đạo luật khác nhằm bảo vệ thành quả cách
mạng cũng như bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân Lào dưới chế độ
xã hội mới.
Từ đây, tổ chức, hoạt động của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào chủ yếu dựa vào Hiến pháp. Việc củng cố kiện toàn bộ máy quyền lực
Nhà nước, việc xây dựng tổ chức, hoạt động của Nhà nước được tiến hành
mang tính chất pháp lý hơn so với giai đoạn trước. Cụ thể là thể hiện việc xây
dựng, củng cố ba cơ quan quyền lực Nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội (cơ quan lập pháp): Ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Hội
đồng nhân dân tối cao đã chuyển thành Quốc hội kể từ ngày 20/12/1992.
Quốc hội là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân, có thẩm quyền quyết
định những vấn đề cơ bản của đất nước, là cơ quan lập hiến, lập pháp có quyền
theo dõi, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội là
nơi tập trung quyền lực Nhà nước cao nhất. Việc bầu cử thành viên Quốc hội
được thực hiện theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín
(Điều 4, Điều 39 của Hiến pháp và Điều 1 Luật Quốc hội).


Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Theo Hiến pháp 1991,
ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Chủ tịch nước không kiêm chủ tịch Hội
đồng nhân dân tối cao như giai đoạn trước. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc
gia, người nắm quyền hành chính cao nhất, là người thay mặt cho nhân dân
các bộ tộc Lào kể cả ở trong và ngoài nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra
với kết quả phiếu bầu hơn 2/3 của số thành viên Quốc hội tham dự cuộc họp,
Chủ tịch nước có nhiệm kỳ 5 năm (Điều 5 Hiến pháp Lào).

Chính phủ - Cơ quan hành pháp: Cùng với chuyển Hội đồng nhân dân
tối cao thành Quốc hội thì Hội đồng Bộ trưởng cũng được chuyển thành Chính
phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Theo Điều 56 Hiến pháp Lào "Chính
phủ là cơ quan hành chính quốc gia, quản lý thống nhất việc thực thi nhiệm vụ
của Nhà nước về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại".
Chính quyền địa phương: Được tổ chức quản lý theo lãnh thổ địa chính.
Để phù hợp và thống nhất với tổ chức bộ máy quản lý hành chính cấp Trung
ương, ở địa phương cũng đã củng cố lại bộ máy theo Hiến pháp 1991 của Lào.
ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào chính quyền địa phương gồm có ba cấp:
tỉnh - thành, huyện và bản - làng.
+ Tỉnh - thành: Có Tỉnh trưởng, Thành trưởng; Phó Tỉnh trưởng, Phó
Thành trưởng.
+ Huyện: Có Huyện trưởng và Phó Huyện trưởng giúp việc.
+ Bán làng: Có Trưởng làng, Phó Trưởng làng giúp việc (Điều 62 Hiến
pháp Lào).
Cơ quan tư pháp: Hệ thống cơ quan tư pháp của Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào gồm có hai cơ quan là: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dàn.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước gồm có: Tòa án nhân
dân tối cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành; Tòa án nhân dân huyện và Tòa án
quân sự (Điều 65 Hiến pháp Lào).


Điều 66 của Hiến pháp Lào quy định: "Tòa án nhân dân tối cao là cơ
quan xét xử cao nhất của Nhà nước. Tòa án nhân dân tối cao kiểm tra, quyết
án của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự". Phó Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp do u ỷ ban thường vụ
Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm (Điều 67 Hiến pháp Lào). Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao do Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội (Điều 40 Hiến pháp Lào). Tòa án nhân dân xét xử tập

thể và quyết định theo đa số. Trong khi xét xử, thẩm phán phải độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật (Điều 68 Hiến pháp Lào).
Việc xét xử vụ án tại phiên tòa phải thực hiện một cách công khai, trừ
trường hợp mà pháp luật đã quy định. Bị cáo có quyền kháng án, luật sư có
quyền giúp đỡ, bào chữa về mặt pháp lý đối với bị cáo (Điều 69 Hiến pháp
Lào). Người đại diện các cơ quan, tổ chức xã hội có quyền tham dự khi vụ án
được tiến hành tại phiên tòa theo luật định (Điều 70 Hiến pháp Lào).
Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức Toà án nhân dân nhũng
năm qua đã gây được lòng tin trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước. Toà án nhân dân của nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào là một hệ thống của cơ quan Nhà nước đã thực hiện nhiệm vụ của
mình là xét xử chính xác các vụ án góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp
chế, bảo đảm sự công bằng, tiến bộ, dân chủ trong đất nước, đặc biệt là trong
điều kiện đất nước mở rộng quan hệ hợp tác về mặt kinh tế với nước ngoài và
tiến hành chính sách thị trường.
Nhà nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào là Nhà nước dân chủ nhân
dân, là một bộ phận trong hệ thống chính trị, là cơ quan quyền lực chính trị
của nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích
của nhân dân các bộ tộc Lào. Chức năng của Nhà nước Cộng hoà dân chủ
Nhân dân Lào là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: bảo vệ và xây dựng đất
nước. Nhà nước Lào có nhiệm vụ phải thể chế hoá đường lối, chính sách, các


nghị quyết của Đảng thành kế hoạch, chính sách, thành các quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân lao động để tổ chức, thực hiện trên
thực tế.
Tòa án là một mắt xích quan trọng, cơ bản của hệ thống cơ quan tư
pháp, là một bộ phận không thể thiếu được của bộ máy Nhà nước Lào.
Sau khi Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời, Tòa án nhân
dân cũng được thành lập với tư cách là cơ quan bảo vệ pháp luật bằng hoạt

động xét xử của mình thông qua việc áp dụng pháp luật của cơ quan lập pháp
và các văn bản dưới luật của cơ quan hành pháp để giải quyết các vi phạm
pháp luật, các tranh chấp xảy ra trong đời sống nhân dân nhằm ổn định tình
hình xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc xác định
đúng chức năng, nhiệm vụ và toàn bộ hoạt động của Tòa án, một bộ phận
trong cơ chế quyền lực Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có ý nghĩa
rất quan trọng. Với chức năng của Tòa án là áp dụng pháp luật, phán xét một
hành vi là tội phạm, hay hành vi vi phạm pháp luật trong tranh chấp dân sự,
lao động, hành chính, kinh tế... nảy sinh trong đời sống xã hội, Tòa án phải
căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và áp dụng chế tài buộc mọi người tuân
theo. Chính vì lẽ đó Tòa án là một trong những nhịp cầu nối giữa pháp luật
của Nhà nước với đời sống, xã hội, làm cho pháp luật đi vào cuộc sống có hiệu
quả. Mọi hoạt động của Tòa án phải theo một trình tự thủ tục nhất định, phải
trực tiếp, công khai, dân chủ trong tất cả các khâu của quá trình bảo vệ pháp
luật. Tòa án là nơi mọi người đặt niềm tin vào lẽ phải, tính công bằng, tính
nhân đạo, tính thiện ác một cách trực tiếp hoặc"q|a$ vỉệe gĩải quyết của Tòa án
____ __' . . . ~

đối với các vụ việc cụ thể.

m

i i i i a

i m

i i

Ầ t i i a


K .IA ỉ ĩ

ĨRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẠĨ HA NỌi
PHÒNG DOC -

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Lào thì Tòa án là cơ
quan duy nhất được Hiến pháp trao cho quyền xét xử. Hay nói cách khác, xét
xử là chức năng riêng của Tòa án. Ngoài ra, không có cơ quan Nhà nước nào
được thực hiện chức năng này. Đây là chức năng mang tính đặc thù của hệ


thống Tòa án nhân dân Lào, được quy định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước Lào, đó là Hiến pháp 1991. Từ đó đến nay, chức năng này vẫn
được khẳng định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1990.
Xét xử là thực hiện quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhân dân cách mạng Lào để đưa ra một phán quyết cuối cùng nhằm kết thúc
vụ án. Đó là hoạt động trực tiếp thể hiện thái độ của Nhà nước đối với từng vụ
án cụ thể. Quyết định của Tòa án thể hiện rằng: Đây không phải là phán quyết
riêng của bản thân một Tòa án nào đó, cũng không phải phán quyết của một
người nào đó, có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy Tòa án, mà phán quyết của
Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật, áp dụng từng vụ án cụ thể và đưa ra chế tài
thích hợp, phù hợp với các hành vi của các chủ thể trong từng vụ án. Vì thế
đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, đúng pháp luật. Nếu có sai lầm trong xét
xử sẽ dẫn đến hậu quả làm mất uy tín của Nhà nước và vì thế sẽ giảm lòng tin
của quần chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
Không những vậy, xét xử còn là quyết định cuối cùng, dứt khoát về
những vấn đề liên quan trực tiếp đến con người trong các lĩnh vực quan trọng
nhất như tự do, danh dự, nhân phẩm, cũng như các quyền và lợi ích khác của
công dân, có khi cả tính mạng con người. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án

còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát đối với các hành vi pháp lý của các
nhân viên Nhà nước, cơ quan Nhà nước, đặc biệt là đối với hoạt động của cơ
quan điều tra, truy tố khi thực hiện hành vi điều tra, truy tố... Mặt khác, quyết
định của Tòa án còn là quyết định cuối cùng có giá trị pháp lý đối với quyết
định sai trái của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Một đặc trưng nữa trong hoạt động xét xử của Tòa án là khác với việc
xử lý của các cơ quan hành chính Nhà nước, sự khác biệt này được thể hiện ở
chỗ hoạt động xét xử được quyền áp dụng chế tài hình sự và chế tài dân sự...
Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và áp dụng hình phạt đối với kẻ phạm tội.
Các cơ quan Nhà nước khác không có thẩm quyền này.


Tuy nhiên, quá trình xét xử là một hoạt động đặc biệt của Tòa án nhân
dân, nên phải tuân theo một quy trình nhất định. Nếu như xét xử về hình sự thì
Tòa án phải tuân theo các bước quy định trong Luật Tố tụng hình sự. Nếu xét
xử về dân sự thì phải tuân theo thủ tục được quy định trong các văn bản pháp
luật về Tố tụng dân sự...
Sở dĩ, pháp luật quy định như vậy vì mỗi loại quan hệ xã hội khác nhau
cần giải quyết đều có một ngành luật khác nhau điều chỉnh. Như vậy, với đặc
trưng này người làm công tác xét xử không được tùy tiện theo ý thức chủ quan
của mình, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án theo đúng quy định của
pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân có vai trò và ý nghĩa to lớn: Vì
thông qua hoạt động xét xử mà trật tự pháp luật trong nước được giữ vững, kỷ
cương xã hội cũng như các quyền cơ bản của con người được bảo đảm. Mặt
khác, bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
của Tòa án chẳng những có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo họ
mà còn góp phần ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật khác.
Toà án nhân dân có một vị trí, chức năng quan trọng trong bộ máy Nhà
nước ở nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào. Toà án nhân dân là một hệ

thống cơ quan trong bộ máy Nhà nước có chức năng tiến hành xét xử nhằm để
tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự an ninh, kỷ cương xã hội, loại trừ và
ngăn ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Thẩm quyền của Toà án được thể hiện rõ nét thông qua việc xét xử các
vụ án hình sự, dân sự và các vụ án khác. . sau khi bản án, quyết định của Toà
án có hiệu lực pháp luật thì bản án quyết định đó mang tính bắt buộc phải thực
hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan trong những trường hợp cần
thiết chúng có thể bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào Toà án nhân dân có nhiệm vụ
là củng cố và bảo vệ thành quả của cách mạng, chế độ chính trị, chế độ kinh


tế, văn hoá - xã hội, các tổ chức doanh nghiệp, xử phạt và giáo dục đối với
người phạm tội; xem xét, loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội; nâng
cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của công dân, giáo dục công dân có
tinh thần yêu nước, yêu chế độ dân chủ nhân dân; tôn trọng kỷ cương trật tự
xã hội của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; chú trọng bảo vệ
quyền lợi của Nhà nước, tập thể và xã hội, tôn trọng quyền tự do, danh dự
nhân phẩm của công dân; thúc đẩy khuyến khích công dân nhiệt tình phục vụ
lợi ích chung của toàn xã hội. Điều 65 Hiến pháp nước Cộng hoà dân chủ
Nhân dân Lào quy định “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước bao
gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố, Toà án nhân
dân huyện, và Toà án quân sự” [27, tr3].
Là một mắt xích trong bộ máy Nhà nước, Tòa án nhân dân Lào trong
quá trình tổ chức và hoạt động luôn có quan hệ mật thiết với các cơ quan Nhà
nước khác.
+ Quan hê giữa Quốc hội và Toà án nhân dân: Quốc hôi là cơ quan Lập
pháp có quyền quyết định những vấn đề cơ bản của đất nước, là cơ quan kiểm
tra giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp trên cơ sở nguyên
tắc tập trung dân chủ. Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm Chánh án Toà án

nhân dân Tối cao theo đề nghị của u ỷ bản thường vụ Quốc hội, quyết định
đặc xá, đồng thời Quốc hội có quyền chất vấn Thủ Tướng và các thành viên
khác của Chính Phủ, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao. Cơ quan hay cá nhân được chất vấn phải trả lời
trước phiên họp của Quốc hội bằng lời nói hoặc văn bản. Đồng thời báo cáo công
tác của mình trước Quốc hội. Khi Quốc hội không họp thì báo cáo trước u ỷ ban
thường vụ Quốc hội. Ưỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm Phó
Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao theo đề nghị của Chánh án Toà án
nhân dân Tối cao, bổ nhiệm và miễn nhiệm Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm
phán Toà án nhân dân địa phương theo đề nghị của Bộ Tư pháp.


×