Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA TOÀ án NHÂN dân và VIỆN KIỂM sât NHÂN dân TRONG tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.04 MB, 116 trang )


M

-

f --------------

-

------------------------------

BỘ T ư PHÁP

B ộ G1\0 d ụ c v à đ à o t ạ o

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ DUYÊN

MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÂT
NHÂN DÂN TRONG Tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
C hu yên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
M ã sô: 60.38.40

THƯ VIE N
TRƯỜNG ĐẠI H Ọ C Ị.ÙẬT HẢ NỘ i

M =

PHÒNG GV _ _


LUẬN VĂN THẠC s ỉ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đình Nhã

HÀ NỘI- 2003

1


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn
bè và đồng nghiệp, đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến thầy giáo - PSG. TS Trần Đình N hã đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1

BLHS

Bộ luật hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3


HĐXX

Hội đồng xét xử

4

TAND

Toà án nhân dân

5

TANDTC

Toà án nhân dân Tối cao

6

TTHS

Tỏ tụng hình sự

7

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

8


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

9

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỎ ĐẨU
l.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐE

tài

Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong đó
có việc hoàn thiện mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ luật tố
tụng hình sự tuy không có các điều luật quy định riêng về mối quan hệ giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng, song thông qua những quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan đó trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự đã xác lập mối quan hệ tố tụng giữa chúng. Trong
mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng thì quan hệ tố tụng giữa Toà án
và Viện kiểm sát luôn chiếm một vị trí quan trọng, bởi vì quan hệ này phát sinh
trong giai đoạn xét xử và thi hành án hình sự, mà giai đoạn xét xử vốn được coi
là giai đoạn quan trọng nhất trong TTHS. Trong khi thực hiện chức năng, nhiêm
vụ của mình, giữa Toà án và Viện kiểm sát nảy sinh nhu cầu cần có sự phối hợp
trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, bảo đảm nhanh chóng đưa vụ án ra xét

xử, đặc biệt là những vụ án lớn, gây dư luận rộng lớn trong xã hội. Cùng với sự
phối hợp mang tính công tác đó, giữa Toà án và Viện kiểm sát còn có sự chế ước,
giám sát, kiểm tra lẫn nhau để làm sáng tỏ sự thật của vụ án, phát hiện những vi
phạm pháp luật trong quá trình truy tố, xét xử, thi hành án để khắc phục kịp thời
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trước yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình
mới, bên cạnh những thành tích nhãn quan của hệ thống cơ quan tư pháp, trong
đó có Toà án và Viện kiểm sát, Nghị quyết số 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính
trị đã nhận định “chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu
cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan
người vô tội...” Đồng thời Nghị quyết cũng chỉ rõ “ Viện kiểm sát các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tư pháp, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố


2
tụng khi thi hành nhiệm vụ, nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại
phiên toà.., khi xét xử, các Toà án phải thực sự dân chủ, khách quan, việc phán
quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà...”
Như vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai cơ quan Toà án và
Viện kiểm sát trong TTHS có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho các hoạt
động tố tụng của từng cơ quan đạt hiệu quả, tránh được những vi phạm có thể
xảy ra. Trong thời gian qua, giữa hai ngành Toà án và Viện kiểm sát đã thực hiện
tốt mối quan hệ phối hợp trong giải quyết các vụ án hình sự. Mặc dù vậy trên
thực tế quan hệ tố tụng giữa hai cơ quan này không tránh khỏi những vướng mắc,
hạn chế, thậm chí bất cập. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
là do việc nghiên cứu lý luận về mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong
TTHS còn chưa được quan tâm đúng mức.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng
mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa Toà án và Viện kiểm sát có ý nghĩa rất quan

trọng đối với việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả công tác của mỗi cơ quan trong
việc truy tố, xét xử, góp phần thực hiện yêu cầu mà pháp luật TTHS đã đặt ra cho
các cơ quan tiến hành tố tung, trong đó có Toà án, Viên kiểm sát là không bo lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội.
Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận vãn thạc sĩ luật học.
2.TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ

tài

Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân đân đã có một số công trình, bài báo khoa học đề cập đến. Đáng chú ý là
công trình nghiên cứu của PGS.TS Đỗ Ngọc Quang về “Mối quan hệ giữa cơ
quan điều tra với các cơ quan tham gia TTHS” đã đề cập một cách tổng quát
mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm
sát, Toà án) và với các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư pháp, luật sư).


3
Bên cạnh đó còn có các luận văn thạc sĩ của các tác giả Nguyễn Tuấn Anh với đề
tài “Môi quan hệ giữa cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân
sự và Toà án quân sự trong TTHS Việt Nam”, luận văn thạc sĩ “Chức năng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Bắc, luận
văn thạc sĩ “Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Oanh; PGS.TS Phạm Hồng Hải với bài
báo “Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trước và trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm hình sự”... Tuy nhiên, những công trình, bài báo nêu trên do có những
cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau, hoặc nghiên cứu ở một khía
cạnh nhỏ của vấn đề, nên chưa tập trung đi sâu phân tích, nghiên cứu thoả đáng

mối quan hệ tố tụng và những vấn đề liên quan đến quan hệ tố tụng giữa Toà án
và Viện kiểm sát trong TTTỈS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ tố
tụng giữa Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở những phân tích
khoa học về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM v ụ VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u CỦA ĐỂ TÀI

-

Mục đích của việc nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lý luân và thực tiễn

cùng nội dung, bản chất của mối quan hệ tố tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát
trong TTHS, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc, qua đó đề xuất những
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về tổ chức và hoạt động
của hai cơ quan Toà án và Viện kiểm sát, kiện toàn công tác cán bộ để đảm bảo
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ
sau:
+ Nghiên cứu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan
Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và mối quan hệ giữa chúng trước khi
có BLTTHS năm 1988.


4
+ Nghiên cứu vị trí pháp lý của Toà án và Viện kiểm sát với tư cách là
cơ quan xét xử và cơ quan công tố ở các hệ tố tụng khác nhau (tố tụng thẩm vấn,
tố tụng tranh tụng, tố tụng pha trộn).
+ Nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về
chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong
TTHS, trên cơ sở đó phân tích mối quan hệ giữa hai cơ quan này khi thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình, làm rõ thực trạng tổ chức thực hiện và giải quyết
các mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong TTHS,
chỉ ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện mối quan hệ đó.
+ Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định
của pháp luật TTHS về tổ chức, hoạt động của cơ quan Toà án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân.
-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quan hệ tố tụng giữa Toà án

và Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử và thi hành án hình sự nhưng trọng tâm
là mối quan hệ giữa hai cơ quan này ở giai đoạn xét xử.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Mác-Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và hoàn thiện
hệ thống pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Luận văn cũng được
trình bày trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về chức
năng của Toà án và Viện kiểm sát.
Ngo ii ra trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lịch sử...Việc
nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của Toà án và
Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây để làm sáng tỏ các
nội dung nghiên cứu của luận văn.
5.Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THựC TIẺN

của luận vãn



5
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu
tổ chức bộ máy nhà nước, khoa học luật TTHS trong việc xác định rõ ràng vị trí,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Luận văn đã tổng hợp những vấn đề về lý luận và thực tiễn của mối quan
hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong TTHS. Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận,
thấy rõ được những điểm còn bất cập của các quy định của pháp luật về quan hệ
tố tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát trong TTHS.
- Bằng những đề xuất, kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật, về công tác tổ chức cán bộ, luận văn góp phần khẳng định quan điểm,
đường lối của Đảng trong bối cảnh cải cách tư pháp và thể hiện những đóng góp
nhất định vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, nâng cao nhận thức trong
hoạt động tố tụng giữa hai cơ quan Toà án và Viện kiểm sát trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS.
6.CO CẤU CỦA LUẬN VĂN

Luận văn gồm có phần mở đầu, 3 chương, phần kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề chung về mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát theo pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp và chế
ước giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.


6
Chương 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ Mốl QUAN HỆ
«

GIỮA TOÀ ÁN VÀ VIỆN KIEM s á t t r o n g T ố TỤNG HÌNH sự

1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM M ố i QUAN HỆ GIỮA TOÀ ÁN VÀ VIỆN KlỂM

sát

TRONG TỐ TỤNG HÌNH s ự

1.1.1 Vị trí pháp lý của Toà án trong tố tụng hình sự
Với tư cách là một trong các chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS, Toà án có
vị trí pháp lỷ quan trọng, "là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp -nơi mà kết
quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa... được kiểm ừa, xem xét một cách
công khai thông qua thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra những phán quyết
cuối cùng mang tính chất quyền lực Nhà nước, nơi phản ánh một cách đầy đủ và
sâu sắc bản chất nền công lý của chế độ ta”.[14] Toà án là cơ quan duy nhất
thực hiện chức năng xét xử, giải quyết những vấn đề thuộc về bản chất vụ án bao
gồm xác định có tội hoặc không có tội, định tội danh, quyết định loại và mức
hình phạt đối với người phạm tội.
Ở nước ta, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Toà án là cơ quan duy
nhất có chức năng xét xử và đây là chức năng không thể thay thế được bởi bất kỳ
cơ quan nhà nước nàcỳLịch sử Nhà nước và pháp luật Việt nam đã chứng minh
rằng ở Việt Nam chỉ có Toà án mới có chức năng xét xử. Từ Hiến pháp năm
1946, năm 1959, Luật tổ chức TAND năm 1960, Hiến pháp năm 1980, Luật tổ
chức Toà án năm 1981, Hiến pháp năm 1992...và gần đây nhất là Luật tổ chức
Toà án nhân dân năm 2002 đều khẳng định Toà án nhân dân là chủ thể duy nhất
thực hiện chức năng xét xử.

\ Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định “Toà án nhân dân Tối cao, Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là
những cơ quan xét xử của nước cộng hoà XHCN Việt nam”. ')


7
Chính chức năng xét xử của Toà án quy định các nhiệm vụ cụ thể của Toà
án trong hoạt động của mình. Khi thực hiện chức năng xét xử, Toà án có trách
nhiệm phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án, cả tình tiết buộc tội, tình
tiết gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo
nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án.
Để Toà án có thể thực hiện được chức năng xét xử, pháp luật TTHS đã quy
định cho Toà án thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền xét xử " là tập hợp các dấu hiệu
của một vụ án mà dựa vào đó pháp luật TTHS quy định Toà án nào phải xét xử
vụ án đó".[10] Tức là dựa vào các dấu hiệu này để phân định Toà án được xét xử
những vụ việc gì, phân biệt thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổi Việc quy định
đúng thẩm quyền của Toà án các cấp đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách
quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người liên quan.
Việc xác định đúng đắn thẩm quyền của Toà án cũng kéo theo việc quy định
nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như cơ quan
điều tra, viện kiểm sát. )
Đồng thời với nhiệm vụ xét xử thì Toà án còn có vai trò rất quan trọng trong
thi hành án hình sự thông qua việc ra quyết đinh thi hành án; cùng với cơ quan
công an theo dõi việc thi hành án và quyết định nhiều vấn đề khác liên quan đến
việc thi hành án như tham gia xét giảm, hoãn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành
hình phạt tù...
( Trong TTHS, các quyền và nghĩa vụ của Toà án được quy định cụ thể tại các
chương từ XV đến chương XXXII BLTTHS. Các quyền và nghĩa vụ của Toà án
phát sinh kể từ khi Toà án nhận được hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang
và được thể hiện trong các hoạt động như chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành án hình sự.

- -■
>

Cũng như ở Việt Nam, pháp luật ở tất cả các nước đều ghi nhận Toà án là cơ
quan thực hiện chức năng xét xử. Tuy nhiên, vị trí, vai trò và phạm vi thẩm
quyền của Toà án trong thực hiện chức năng xét xử được quy định khác nhau
giữa các nước theo hệ thống luật án lệ và các nước theo hệ thống luật lục địa.


8
Ở các nước theo hệ thống luật án lệ, ba chức năng cơ bản của TTHS là buộc
tội, bào chữa và xét xử được phân định rõ ràng giữa bên buộc tội, bên bào chữa
và Toà án. Vai trò của Toà án ở các nước này được xác định là người tnng tài
đứng giữa hai bên buộc tội và bào chữa làm nhiệm vụ phân xử. Toà án là nơi ra
quyết định cuối cùng về vụ án để kết thúc quá trình tranh tụng giữa các bên. Toà
án không có nghĩa vụ trực tiếp chứng minh vụ án mà tập trung vào nhiệm vụ là
duy trì trật tự phiên toà, xem xét, ghi nhận các chứng cứ, các yêu cầu, kết luận
của hai bên buộc tội và bào chữa về vụ án làm cơ sở cho việc ra quyết định cuối
cùng về vụ án. Theo hệ thống pháp luật này thì vai trò của Toà án tại phiên toà bị
hạn chế trong khi vai trò của bên buộc tội và bên bào chữa được quan tâm và
đề cao.
ở các nước theo hệ thống luật lục địa, các chức năng cơ bản trong TTHS
không được phân định một cách rõ ràng giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và
tham gia tố tụng. Toà án với tư cách là chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tích
cực vào quá trình chứng minh tội phạm. Vai trò của Toà án không chỉ là người
trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để làm nhiệm vụ phân xử mà
còn là người tham gia Ihực hiện cả chức năng buộc lội hoạc chức năng bào chữa.
Pháp luật TTHS ở các nước này giành cho Toà án những quyền hạn rộng lớn,

đồng thời cũng đặt ra khá nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm cho Toà án, hầu như
toàn bộ quá trình chứng minh bị cáo có tội hay không có tội đều do Toà án đảm
nhiệm, còn bên buộc tội và bên bào chữa chỉ tham gia vào quá trình chứng minh
ở mức độ hạn chế.
Như vậy, do sự khác nhau giữa các trường phái pháp luật, các hình thức tố
tụng và quan niệm của các quốc gia đối với vai trò của Toà án trong hoạt động
xét xử mà nội dung quyền và nghĩa vụ mà pháp luật TTHS mỗi quốc gia quy
định cho Toà án để thực hiện chức năng xét xử có khác nhau: hoặc là giao cho
Toà án quá nhiều quyền và nghĩa vụ, hoặc hạn chế các quyền và trách nhiệm của
Toà án. Điều này ảnh hưởng ít nhiều tới việc thực hiện các chức năng tố tụng,
ảnh hưởng tới hiệu quả của TTHS.


9
1.1.2 Vị trí pháp lý của Viện kiểm sát trong tổ tụng hình sự
Là cơ quan tiến hành tố tụng xuất hiện ngay từ những hoạt động đầu tiên
của quá trình giải quyết vụ án, Viện kiểm sát giữ vị trí quan trọng trong TTHS.
Pháp luật TTHS Việt Nam đã quy định cho Viện kiểm sát những quyền năng
pháp lý quan trọng, đó là thực hành quyền công tố (thực hiện sự buộc tội nhân
danh nhà nước) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng khác./Hai chức năng này của Viện kiểm sát được ghi nhận lần đầu tiên
trong Luật tổ chức VKSND năm 1960 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến
pháp năm 1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Hiến pháp năm 1992, Luật tổ
chức VKSND năm 1992. Điều 137 Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức
VKSND mới được Quốc hội sửa đổi thông qua ngày 02/4/2002 vẫn tiếp tục
khẳng định Viện kiểm sát thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật, nhưng chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật đã
được thu hẹp phạm vi là chỉ tiến hành kiểm sát đối với các hoạt động tư pháp,
không thực hiện công tác kiểm sát trong lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội.


)

Trước hết, có thể khẳng định rằng Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được
giao thực hiện chức năng công tố, là cơ quan có quyển quyếl định đưa hay
không đưa vụ án ra Toà và thực hiện sự buộc tội đối với bị cáo tại phiên toà.
Công tác thực hành quyền công tố tiến hành trong lĩnh vực TTHS được thực
hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng. Quyền công tố là
quyền lực nhà nước, có nội dung là buộc tội đối với người thực hiện tội phạm.
Còn thực hành quyền công tố trong TTHS là tổng hợp các quyền năng pháp lý để
thực hiện quyền buộc tội ấy.[13] Cơ quan thực hành quyền công tố là cơ quan
được giao thẩm quyền đưa vụ án ra Toà và điều này được thể hiện ở mỗi nước là
rất khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất của chế độ chính trị, truyền thống, điều
kiện và hoàn cảnh nội tại của từng nước. Theo BLTTHS Pháp thì vị trí của Viện
công tố là: Viện công tố có đại diện ở mỗi toà hình sự. Viện công tố có chức
năng thực hiện quyền công tố và yêu cầu áp dụng pháp luật, tham dự các cuộc
tranh luận của HĐXX và tất cả các quyết định của Toà được tuyên với sự có mặt


10
của Viện công tố. Viện công tố đảm bảo việc thi hành các quyết định của
Toà án.[3]
Ở Trung Quốc, Viện kiểm sát là cơ quan giám sát việc thi hành pháp luật
như giám sát pháp luật và kỷ luật, giám sát các vụ án hình sự, giám sát nhà tù,
trại giam...Khi thực hiện việc giám sát các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có mặt
tại phiên toà để làm các chức năng công tố, thẩm tra các vụ án hình sự. [5]
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật (từ Hiến pháp năm
1959, năm 1980, năm 1992 và các Luật tổ chức VKSND năm 1960, năm 1981,
năm 1992, năm 2002) thì chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền công tố.(Viện kiểm sát có quyền quyết định đưa hay không đưa vụ án ra
V


Toà, Toà án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố. Cần lưu ý là một số các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài Viện kiểm sát sử
dụng một số biện pháp để cáo buộc bị can, bị cáo không đồng nghĩa với việc
thực hành quyền công tố theo nghĩa đầy đủ của nó là quyền đưa vụ án ra Toà và
thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo trước Toà án. j
Chức năng thứ hai của Viện kiểm sát là kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Theo Luật tổ chức VKSND được Quốc Hội thông qua ngày 02/4/2002 và theo
Điều 23 BLTTHS thì (nhiệm vụ kiểm sát của Viện kiểm sát trong TTHS là kiểm
\

sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, kiểm sát việc thi hành án nhằm
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đối tượng
của việc kiểm sát tuân theo pháp luật là hành vi và quyết định của các chủ thể
tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng với mục đích là nhằm phát hiện
những vi phạm pháp luật của các chủ thể trong TTHS để kịp thời yêu cầu khắc
phục vi phạm pháp luật. Hiệu quả của công tác kiểm sát trong TTHS tuỳ thuộc
vào phản ứng nhanh nhậy trước các vi phạm pháp luật, kịp thời có biện pháp cần
thiết để khắc phục vi phạm đó cũng như các biện pháp xác định sự thật trong vụ
án, bảo đảm việc truy tố bị can ra trước Toà án với đầy đủ chứng cứ cần thiết,
không làm oan người vồ tội. ỊCó thể nói rằng chức năng kiểm sát tuân theo


11
pháp luật là một trong những công cụ có hiệu lực của TTHS nhằm bảo đảm pháp
chế trong công tác xét xử các vụ án hình sự.
Trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong
lĩnh vực hình sự, để thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, Viện kiểm sát các
cấp trước hết phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật để quản lý
và nắm chắc thông tin tội phạm, kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án hình sự,

quá trình điều tra tội phạm. Trên cơ sở kết luận điều tra của cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát phải nghiên cứu, cân nhắc việc quyết định truy tố hay không truy
tố người có hành vi phạm tội ra Toà.ịở giai đoạn xét xử, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát các cấp là phải chú trọng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên toà. Kiểm sát viện tại phiên toà giữ quyền
công tố phải tham gia thẩm vấn và tranh luận để làm sáng tỏ các chứng cứ buộc
tội, gỡ tội, đề xuất loại và mức hình phạt phù hợp. Đối với các bản án có vi phạm
pháp luật thì phải kịp thời đề xuất kháng nghị. Ở giai đoạn thi hành án, Viện
kiểm sát phải bảo đảm sao cho bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án phải
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất và đúng pháp luật.
Để thực hiện chức năng, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ quyền hạn như:
khởi tố vụ án, kiểm sát các hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can ra trước
Toà án bằng bản cáo trạng, thực hiện việc luận tội, phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án, tranh luận tại phiên toà, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án, của những người tham gia tố tụng, kiểm sát và kháng
nghị các bản án, quyết định của Toà án, kiểm sát công tác thi hành án, kiến nghị
với Toà án nhân dân và các cơ quan, tổ chức cá nhân khác khắc phục những
vi phạm trong xét xử và trong hoạt động của mình.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong
tố tụng hình sự
1.1.3.1 Khái niệm


12
"Mối quan hệ" theo từ điển tiếng Việt là "sự gắn liền mặt nào đó giữa hai
hoặc nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác
động đến sự vật kia".[24] Từ đó có thể hiểu rằng mối quan hệ giữa hai hay nhiều
sự vật, hiện tượng thể hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự
tồn tại và phát triển.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã khẳng định rằng các sự vật, hiện

tượng tồn tại trong thế giới khách quan không thể tồn tại độc lập mà luôn là một
thể thống nhất, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, không thể hiểu được bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào nếu không đặt chúng trong mối liên hệ chặt chẽ với các
sự vật, hiện tượng khác. Chỉ có mối liên hệ phổ biến và phụ thuộc lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng mới đem lại khả năng nhận thức của chúng. Nói cách
khác, các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có mối quan hệ với
nhau. Mối quan hệ này phản ánh tính toàn diện và tính phát triển, quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, phản ánh sự vận động và phát triển liên tục trong không
gian và thời gian.
Xuất phát từ nguyên lý trên, trong cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, để
đảm bảo sự vân hành và hoạt động có hiêu quả của toàn bô hê thống cơ quan nhà
nước thì mỗi cơ quan tuy được quy định chức năng, nhiệm vụ riêng song không
thể không quan hệ với cơ quan khác trong quá trình hoạt động.
\ Toà án, Viện kiểm sát đều thuộc hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong bộ máy nhà nước và để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra
thì một trong những vấn đề quan trọng là cần xây dựng và điều chỉnh tốt các mối
quan hệ nảy sinh giữa hai cơ quan này, đặc biệt là trong quá trình hoạt động
tố tụng.
Mặt khác, việc tồn tại quan hệ tố tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát là tất
yếu, bởi vì: Thứ nhất, xuất phát từ chức năng nhiệm vụ do pháp luật TTHS quy
định thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng
công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định việc truy tố, tham gia phiên
toà để thực hiện việc buộc tội, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình


13
xét xử của Toà án. Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng thay mặt nhà nước thực
hiện quyền xét xử. Toà án tiến hành xét xử

độclập, chỉ tuân theopháp luật và


chịu trách nhiệm trước pháp luật...Chỉ cóToàán mới có quyền quyết định
số phận của bị cáo, kết tội và quyết định hình phạt đối với họ.
Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ đã được phân công, cơ quan tiến hành tố
tụng cần hợp tác và đánh giá chính xác, kịp

thờicác hành vi phạmtội, bảo đảm

áp dụng pháp luật đúng đắn và có hiệu quả.
Thứ hai, xuất phát từ cách thức tiến hành tố tụng: Pháp luật TTHS của
nước ta quy định Viện kiểm sát là cơ quan truy tố bị cáo ra trước Toà để xét xử,
và Toà án chỉ có thể xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Trong quá trình xét xử Toà án chịu sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát đối
với các hành vi và quyết định tố tụng của mình. >
Trước khi việc xét xử được thực hiện thì các chứng cứ, tài liệu về vụ án
được thu thập cũng như các tình tiết của vụ án đều chưa được xem xét đánh giá
một cách chính thức toàn diện và triệt để. Chỉ tại phiên toà, thông qua hoạt động
xét xử vụ án, với sự có mặt của đầy đủ các chủ thể cần thiết và trên cơ sở các
chứng cứ do các bên đưa ra tai phiên toà mới có thể đưa ra kết luân chính thức về
vụ án. Vì vậy hoạt động truy tố cuả Viện kiểm sát chỉ là tiền đề cho hoạt động
xét xử của Toà án, còn việc số phận pháp lý của bị cáo như thế nào hoàn toàn
thuộc thẩm quyền quyết định của Toà án. •
Cũng phải thấy rằng khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật thì không làm ảnh hưởng tới việc xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật của Toà án. Toà án độc lập trong việc xem xét đánh giá
chứng cứ chứng minh tội phạm, không phụ thuộc vào kết luận của Viện kiểm sát.
Các chứng cứ thu thập được bởi cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không phải là
chứng cứ bắt buộc Toà án phải tuân theo khi xét xử. Trong quá trình tiến hành
xét xử, khi thẩm phán được giao làm chủ toạ phiên toà nghiên cứu hồ sơ do Viện
kiểm sát chuyển đến thì thẩm phán có thể đồng tình với quan điểm truy tố của

Viện kiểm sát thông qua việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc cũng có thể


14
không đồng tình thông qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án. Tại phiên toà xét xử, Toà án có thể chấp nhận hoặc bác bỏ một
phần hay toàn bộ nội dung buộc tội của Viện kiểm sát để tuyên bị cáo có tội hay
không có tội. Việc điều khiển của chủ toạ phiên toà tại phòng xử án và những
quy định về trật tự xét xử có giá trị bắt buộc đối với tất cả mọi người có mặt tại
phiên toà (trong đó có đại diện Viện kiểm sát- mặc dù Viện kiểm sát có quyền
.

.

.

.

.

kiến nghị việc điều khiển không đúng pháp luật của chủ toạ phiên toà). Đồng
thời vai trò quyết định của Toà án trong xét xử không làm ảnh hưởng tới vị trí
của Viện kiểm sát, không cản trở đại diện Viện kiểm sát thực hiện chức năng
công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật của Toà án và những người tham gia
tố tụng khác trong khi xét xử.
Như vậy, quan hệ Toà án- Viện kiểm sát không chỉ xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ được giao mà còn được quy định bởi cách thức tiến hành tố tụng.
Quá trình chứng minh, xác định sự thật của vụ án đòi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ với nhau giữa hai cơ quan này đồng thời cũng phải có những quyền
năng tố tụng độc lập, có sự kiểm tra, chế ước lẫn nhau để vụ án được giải quyết

một cách khách quan, vô tư, đúng pháp luật.
Theo pháp luật TTHS hiện hành, các cơ quan tiến hành tố tụng được phân
chia chức năng hoạt động và thực thi các quyền của mình một cách độc lập, tuân
theo pháp luật, song sự hợp tác, hỗ trợ và giám sát, chế ước lẫn nhau trong quá
trình tiến hành tố tụng là hết sức cần thiết. Nếu các cơ quan kiểm sát, xét xử
đồng thời với việc thực hiện chức năng tố tụng độc lập và liên kết với nhau bằng
những mối quan hệ phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn nhau thì các vụ án sẽ được
giải quyết khẩn trương, hợp pháp và có hiệu quả, đáp ứng được những đòi hỏi
trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Ở đây mối cân bằng giữa vị trí độc lập và
trách nhiệm phối hợp, chế ước lãn nhau sẽ giúp cho mỗi cơ quan và qua đó là cả
hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phát huy được những thuận lợi cơ
bản đồng thời hạn chế được những thiếu sót bất cập và rốt cuộc là mang lại lợi
ích thiết yếu cho cả quá trình điều tra, truy tố xét xử vụ án hình sự. Bởi vậy, mối


15
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong TTHS Việt Nam với sự phân
công công tác, chế ước và giám sát lẫn nhau là vô cùng quan trọng. Đây cũng là
một đặc điểm nổi bật của TTHS Việt Nam.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học TTHS, có thể hiểu mối quan hệ giữa Toà án
và Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự là việc thực hiện thẩm quyền và
nghĩa vụ pháp lý vừa độc lập, vừa lệ thuộc lẫn nhau trong hoạt động truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự giữa các chủ thể này. Hiểu rõ bản chất của mối quan hệ
trên có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận để nghiên cứu hoàn thiện
những chế định điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng ở giai
đoạn truy tố, xét xử, thi hành án, đồng thời còn là cơ sở cho việc xây dựng quy
chế phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xử lý công minh mọi hành vi phạm tội.
ỉ . 1.3.2 Đặc điểm của quan hệ tô tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát:


Trước hết phải khẳng định rằng quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự là quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng, do
các quy phạm pháp luật TTHS điều chỉnh. Quan hệ tố tụng giữa Toà án và Viện
kiểm sát mang những đặc điểm chung của quan hệ pháp luật tố tụng như: thuộc
kiến trúc thượng tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định, là quan hộ xã hội có ý chí,
xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, được cấu thành bởi các quyền và
nghĩa vụ pháp lý và việc thực hiện được bảo đảm bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, quan hộ tố tụng giữa Toà án và Viện
kiểm sát có những đặc điểm riêng, đặc trưng trong TTHS. Đó là:
-

Quan hệ này được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở trách nhiệm

chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án). Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội. Vì vậy, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về nhà
nước mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng.


16
-

Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong TTHS xuất hiện khi giải

quyết vụ án hình sự, cụ thể là ở giai đoạn xét xử và thi hành án và kết thúc khi vụ
án đã được thi hành (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt đã tuyên) hoặc khi có
sự kiện pháp lý làm đình chỉ vụ án. Khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án cùng
bản cáo trạng truy tố ra trước Toà án tức là đã thiết lập quan hệ tố tụng chính
thức. Quan hệ này được thực hiện bởi những người đại diện cho hai cơ quan Viện
kiểm sát và Toà án hoặc thông qua hoạt động của những người trực tiếp tiến

hành tố tụng của hai cơ quan đó là kiểm sát viên với thẩm phán và hội thẩm
nhân dân.
- Các bên tham gia quan hệ (Toà án và Viện kiểm sát) đều thống nhất ở mục
đích hoạt động. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được pháp luật
quy định cụ thể cho từng cơ quan để thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS- đó là
chống lọt người, lọt tội, chống oan sai và vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
- Quan hệ tố tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát khác với mối quan hệ giữa
các cơ quan hành chính nhà nước. Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà
nước có đăc trưng là chấp hành và điều hành theo từng lĩnh vưc quản lỷ hành
chính nhà nước được điều chỉnh bởi pháp luật hành chính. Còn quan hệ TTHS
giữa Toà án và Viện kiểm sát là quan hệ giữa các cơ quan tố tụng, chịu sự chi
phối bởi các quy định của pháp luật tố tụng, phải tuân theo những thủ tục,
trình tự nghiêm ngặt của tố tụng.
- Quan hệ này có tính phối hợp và chế ước lẫn nhau. Phối hợp đổ giải quyết
vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Chế ước nhằm đảm bảo tính
độc lập, phát hiện ra vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện các hoạt động
tố tụng để có biện pháp khắc phục, sửa chữa và đây là sự chế ước hai chiều. Sự
phối hợp và chế ước của hai cơ quan được thực hiện trên cơ sở các quyền năng tố
tụng đã được pháp luật quy định. Phối hợp và chế ước luôn đi cùng với nhau, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau để thực hiện tốt nhiệm vụ TÍH S đã đặt ra.
THƯ VIE N
Quan hê phối hơp giữa Toà án và Viên kiểm sái -TRƯỜNG F-Al HOC ‘ UA HA NO
PH Ò N G G V

' ;


17
Để có thể thực hiện tốt các chức năng cơ bản của TTHS, các chủ thể thực

hiện chức năng đó cần có sự phối hợp cần thiết.
Tại điều 7 Luật tổ chức VKSND đưực Quốc Hội thông qua ngày 02/4/2002
quy định: "Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, VKSND có trách
nhiệm phối hợp với các cơ quan Toà án, Công an... để phòng ngừa và chống tội
phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm
pháp luật trong hoạt động tư pháp..."
Theo Từ điển tiếng Việt thì "phối hợp" là "cùng hoạt động hoặc hoạt động
hỗ trợ lẫn nhau". [22]
Sự phối hợp xuất phát từ nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước. Bắt nguồn từ
bản chất của nhà nước XHCN là quyền lực thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất và có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc tập quyền không mâu thuẫn với sự phân công
và sự phân biệt chức năng giữa các cơ quan nhà nước. Sự thống nhất quyền lực là
thống nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của
dân tộc. Sự thống nhất này là nền tảng, còn sư phân công và phối hợp là phương
thức để đạt được sự thống nhất đó. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho sự vận hành của cả bộ máy nhà nước được
nhịp nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả, đảm bảo mỗi cơ quan đều thực hiện tốt chức
năng của mình đồng thời thực hiện được các chức năng chung, được đặt ra trước
nhà nước.
Việc phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động TTHS có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất, giúp
mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ do pháp luật
quy định, từ đó từng bước tạo ra sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm.


18
Quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện Kiểm sát ở giai đoạn truy tố, xét xửgiai đoạn được coi là trung tâm nhất của TTHS - phải đảm bảo tính thống nhất về

mục đích hoạt động.
Mục đích hoạt động tố tụng trong giai đoạn này là thực hiện việc buộc tội
chính xác, truy tố đúng người có tội ra trước Toà án để xét xử, ra bản án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Quan hệ phối hợp trong giải quyết vụ án hình sự
giữa hai cơ quan Toà án và Viện kiểm sát phải hướng tới mục đích đó. Sự thống
nhất về mục đích là cơ sở thúc đẩy hành vi của các chủ thể thực hiện thẩm quyền
và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ phối hợp giải quyết vụ án. Vì vậy tính thống
nhất về mục đích trong quan hệ phối hợp cần phải được thống nhất trong nhận
thức và hành động của từng người tiến hành tố tụng mà cụ thể là kiểm sát viên,
thẩm phán. Các hình thức phối hợp, nội dung phối hợp, chỉ đạo quan hệ phối hợp
đều phải hướng tới mục đích của hoạt động truy tố, xét xử. Chỉ trên cơ sở đó
mới tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động trong quan hệ phối hợp giữa
Toà án và Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự.
Thực tiễn cho thấy trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là với việc giải quyết án
điểm, án đặc biệt nghiêm trọng thì sư phối hợp chăt chẽ giữa các cơ quan liến
hành tố tụng ngay từ đầu là hết sức cần thiết. Viện kiểm sát, Toà án và cơ quan
điều tra cùng nắm diễn biến điều tra, thường xuyên trao đổi bàn bạc về kết quả
công việc. Trong trường hợp có vướng mắc thì cùng bàn bạc giải quyết, nếu có
vướng mắc trong sự phối hợp không thể thống nhất được thì cần báo cáo cơ quan
chủ quản cấp trên để họp liên ngành bàn biện pháp hướng dẫn, giải quyết.
Quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát thể hiện thông qua những
hoạt động như giải quyết án điểm, những vụ án lớn, phức tạp, gây dư luận xấu
trong nhân dân, phối hợp giải quyết không để án tồn đọng, phối hợp trong việc
chứng minh tội phạm... Cụ thể, trong quá trình giải quyết vụ án, sự phối hợp này
có thể được minh họa như sau:


19
- Khi vụ án đã được tiến hành khởi tố, điều tra thì Viện kiểm sát đã ra quyết
định truy tố sẽ chuyển cáo trạng cùng hồ sơ sang cho Toà án để nghiên cứu và

chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử.
- Khi Toà án tiến hành xét xử vụ việc do Viện kiểm sát khởi tố, Viện kiểm
sát phải cử kiểm sát viên tham gia phiên toà với tư cách là bên buộc tội và kiểm
sát hoạt động xét xử của Toà án, sự chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng tại phiên toà.
- Khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát
có trách nhiệm giám sát việc thi hành án, phát hiện vi phạm và yêu cầu,
kiến nghị xử lý vi phạm.
- Các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát cùng phải tiếp nhận đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân cũng như việc tự nguyện khai báo, đầu thú của người phạm
tội. Khi một trong các cơ quan nói trên nhận được thông tin hoặc đơn khiếu nại,
tố cáo về vụ phạm tội nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của mình thì phải
chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết và báo cho người khiếu nại, tố cáo
được biết.
Một trong những hoạt động thưc hiên cơ chế phối hợp theo quy đinh tai
Luật tổ chức TAND và VKSND, đó là: Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối
cao có quyền hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật. Trong phiên họp của Hội
đồng thẩm phán TANDTC họp bàn việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao có trách nhiệm tham dự (Điều
22 Luật tổ chức TAND năm 2002 và Điều 33 Luật tổ chức VKSND năm 2002 ).
Tuy quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong TTHS đã trở
thành vấn đề mang tính nguyên tắc song sự phối hợp này không làm mất đi tư
cách tiến hành tố tụng độc lập của từng cơ quan. Toà án và Viện kiểm sát là hai
chủ thể tiến hành tố tụng với chức năng, nhiệm vụ riêng biệt: Viện kiểm sát là cơ
quan thực hiện chức năng công tố (buộc tội) và kiểm sát tuân theo pháp luật, Toà
án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Sự phân định chức năng của mỗi cơ
quan nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS, thực hiện những chức năng của


20

TTHS, đồng thời là cơ sở để xác định và thực hiện đúng thẩm quyền của mỗi cơ
quan, đảm bảo các hoạt động truy tố, xét xử tuân thủ theo pháp luật. Do đó quan
hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát phải tuân thủ nguyên tắc độc lập về
mặt chức năng.
Tính độc lập về chức năng trong quan hệ phối hợp đòi hỏi khi thực hiện các
yêu cầu, nhiệm vụ phối hợp, mỗi cơ quan được tiến hành những hoạt động riêng
của mình trong phạm vi chức năng đã được phân định, không thể vì yêu cầu
phối hợp mà mỗi cơ quan lại hoạt động vượt ra ngoài phạm vi chức năng.
Trong quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát, cần khắc phục
khuynh hướng cho rằng hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát chủ yếu là thực
hành quyền công tố, tức là đấu tranh chống tội phạm mà xem nhẹ phòng ngừa vi
phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Toà án nói
riêng, từ đó dẫn đến phối hợp một chiều với các cơ quan này trong việc điều tra
và xử lý tội phạm, không chú ý phát hiện và áp dụng các biện pháp mà pháp luật
quy định cho Viện kiểm sát để khắc phục vi phạm, hậu quả là dễ xảy ra các
trường hợp oan sai.
Quan hê ch ế ước eiữa Toà án và Viên kiểm sát:

Theo từ điển Hán- Việt, "chế" là phép định ra, đặt ra, làm ra, "ước" tức là bó
buộc. [21] Còn theo từ điển tiếng Việt thì "chế ước" là sự hạn chế quy định trong
những điều kiện nhất định.[22]
Xoay quanh vấn đề có hay không quan hệ chế ước giữa Toà án và
Viện kiểm sát, hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Pháp luật TTHS
nói chung và BLTTHS nói riêng cũng chưa quy định về vấn đề này, mà chỉ đề
cập đến vấn đề kiểm sát xét xử, kiểm sát tuân theo pháp luật trong các hoạt động
tư pháp. Còn sự chế ước giữa Toà án và Viện kiểm sát trong quan hệ tố tụng hình
sự như thế nào, phạm vi chế ước đến đâu, chế ước được thể hiện thông qua những
hoạt động nào thì đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.



21
Quan điểm thứ nhất cho rằng, giữa Toà án và Viện kiểm sát tồn tại quan hệ
chế ước nhưng chỉ là sự chế ước một chiều từ Viện kiểm sát do chức năng của cơ
quan này quy định. Viện kiểm sát chế ước Toà án thông qua hoạt động kiểm sát
xét xử của mình. Đây là một trong những chức năng quan trọng của Viện kiểm
sát, thể hiện sự giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp trong
đó có Toà án. Còn Toà án luôn ở thế bị động và không có sự chế ước trở lại đối
với Viện kiểm sát. Chúng tôi không đồng ý với quan điểm này. Bởi vì nếu cho
rằng chế ước chỉ từ phía Viện kiểm sát đối với Toà án thì chỉ là phiến diện, một
chiều. Trong hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát không chỉ Viện kiểm sát
mới có sự kiềm chế, giám sát đối với hoạt động của Toà án mà ngay cả Toà án
cũng có quyền không đồng ý với các quyết định của Viện kiểm sát. Ví dụ: Toà
án có quyền ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung (khi
xét thấy các chứng cứ chứng minh tội phạm chưa rõ ràng, không thể bổ sung tại
phiên toà được), quyết định đình chỉ vụ án, quyết định chấp nhận hoặc không
chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát... Như vậy Toà án cũng có sự chế ước
trở lại đối Viện kiểm sát khi không đồng ý với quyết định của Viện kiểm sát
cùng cấp về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ hai cho rằng giữa Toà án và Viện kiểm sát không thể tồn tại
sự chế ước với lập luận rằng sự chế ước chỉ xuất hiện trong các mối quan hệ cấp
trên- cấp dưới. Trong khi đó Toà án và Viện V-ểm sát là hai cơ quan có vị trí độc
lập trong hệ thống các cơ quan tư pháp, có chức năng và nhiệm vụ riêng, không
thể nói là cơ quan nào là cơ quan cấp trên, cơ quan nào là cơ quan cấp dưới,
vì thế không xuất hiện sự chế ước trong quan hệ này.
< Quan điểm thứ ba (và cũng là quan điểm của chúng tôi) cho rằng giữa
Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại quan hệ chế
ước. Chế ước ở đây được hiểu là sự kiểm tra chéo lẫn nhau, là sự phụ thuộc lẫn
nhau khi thực hiện các hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát thể hiện sự chế ước của
mình đối với Toà án thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp
luật mà các hoạt động cụ thể của nó là ra các quyết định kháng nghị, kiến nghị



×