Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

tiểu luận lý thuyết tài chính hệ thống các trung gian tài chính của việt nam trong bối cảnh của CMCN 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.86 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra với tốc độ
nhanh, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nhiều ngành, nghề, lĩnh vực khác nhau
trên toàn Thế giới. Theo đó, Việt Nam cũng đang từng bước tiếp cận với CMCN 4.0 và
cũng đã có nhiều đổi mới trong mọi lĩnh vực. Mặc dù không thuộc 9 ngành được đánh
giá là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của CMCN 4.0 ở Việt Nam, nhưng xu hướng
công nghệ mới này vẫn tạo ra ra nhiều thay đổi rõ rệt trong ngành Tài chính - ngân
hàng, đặc biệt là đối với hệ thống trung gian tài chính.
Như chúng ta đã biết, các tổ chức trung gian tài chính đã xuất hiện từ rất lâu trước
đây, và cùng với sự biến động của nền kinh tế - xã hội, các TGTC cũng từng bước thay
đổi và hoàn thiện hơn. Trong những năm gần đây, các TGTC ngày càng phát triển và
chi phối mạnh đến hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vậy thì hệ
thống trung gian tài chính ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Nó có vai trò ra sao? Đặc
biệt, làn sóng công nghệ mới 4.0 đã mở ra những cơ hội, tiềm năng gì và đồng thời gây
ra những khó khăn hay trở ngại gì đến hoạt động của các trung gian tài chính ở nước
ta? Để trả lời cho những câu hỏi trên, nhóm chúng em xin đưa ra một số đánh giá và
thảo luận về: HỆ THỐNG TRUNG CÁC GIAN TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CMCN 4.0.
Với đề tài này, nhóm chúng em mong muốn đạt được 02 mục tiêu sau:
- Đánh giá những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của CMCN 4.0 đối với hệ
thống trung gian tài chính ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống trung gian tài trong bối cảnh CMCN 4.0 .


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lí thuyết và khung phân tích
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1.1 Các nghiên cứu trong nước


- Nghiên cứu “ Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ” của TS Nghiêm Xuân Thành( 2019), trang web của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam( sbv.gov.vn) chỉ ra rằng: Với qui mô doanh nghiệp còn hạn chế, về
cơ bản, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNNVV) khó có khả năng tiếp cận nguồn vốn
từ thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, vay vốn nước
ngoài, quỹ đầu tư,.. mà vẫn tâp chung chủ yếu ở nguồn vốn vay của các Ngân hàng
thương mại trên cơ sở doang nghiệp tự tiếp cận hoặc thông qua bảo lãnh của Quĩ Bảo
Lãnh tín dụng cho DNNVV và vay vốn thông qua Quỹ Phát triển DNNVV
Trong quá trình cho cho vay DNNVV, ngân hàng gặp nhiều khó khăn do đặc thù các
doanh nghiệp có thời gian thành lập hoặc vòng đời kinh doanh ngắn, thiếu tính ổn định
trong hoạt động kinh doanh cũng như tính minh bạch về thông tin cung cấp cho ngân
hàng, khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc thẩm định hiệu quả của phương án vay
vốn, đánh giá uy tín để đưa ra quyết định cho vay. Hiện tại, quy trình và thủ tục vay
vốn của các Ngân hàng thương mại còn khá phức tạp đối với DNNVV. - Theo nghiên
cứu “ Cho vay tiêu dùng: Đích đến là đẩy lùi tín dụng đen” của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam( sbv.gov.vn):
PGS-TS Ngô Trí Long nhận định, cho vay tiêu dùng đang là một hình thức phổ biến,
phát triển tương đối rộng rãi và đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của người dân. Thế
nhưng do một bộ phận người dân không đáp ứng được điều kiện vay ngân hàng, hoặc
vay cho những hoạt động không được pháp luật cho phép nên họ tìm đến tín dụng đen
với lãi suất “cắt cổ”.
- Nghiên cứu “Tín dụng ngân hàng với mục tiêu quốc gia về tăng trưởng
xanh”(09/2019). trang web của Ngân hàng nhà nước Việt Nam(sbv.gov.vn) chỉ ra
rằng: Không chỉ là kênh cung ứng vốn quan trọng nhất trong nền kinh tế, ngân hàng
4


còn đóng vai trò trong việc “xanh hóa” dòng vốn đầu tư với việc định hướng nguồn lực
tài chính vào những lĩnh vực xanh; hạn chế dòng vốn vào những dự án gây ảnh hưởng
tới môi trường; thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng

sạch và năng lượng tái tạo, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững. Việc áp dụng chính sách, hệ thống và quy trình cho vay để giảm các tác
động tiêu cực của khối doanh nghiệp đến môi trường và xã hội đang là xu thế được
nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới triển khai. Nhờ đó sẽ giúp đảm bảo
quá trình phát triển kinh tế không làm tổn hại đến con người, nguồn tài nguyên thiên
nhiên và hệ sinh thái. Đồng thời cũng giúp các NHTM bảo vệ danh mục tín dụng của
mình khỏi những rủi ro kinh doanh và tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới mà kinh
tế tăng trưởng xanh có thể mở ra.
- Nghiên cứu “ Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống Quĩ tín dụng nhân dân”,
của Ths Ngô Đức Huy (11/2016)- Tạp chí Tài chính chỉ ra rằng: Theo báo cáo của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ trọng huy động vốn của Quĩ Tín dụng nhân dân chỉ đạt 1%,
tỷ trọng vay đạt 1,4% so với tổng số các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, số tiền vốn cho
vay bình quân của Quĩ tín dụng nhân dân ở mức thấp( 13 triệu đồng/ một món vay),

mức này chỉ đủ chi phí cho sản xuất nhỏ, lẻ của hộ gia đình
- Nghiên cứu “ Thanh khoản hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: Thực
trạng và thanh khoản” của TS Đỗ Hoài Linh( 2017) trên tạo chí ngân hàng chỉ ra rằng:

Nghiên cứu thanh khoản hệ thống các NHTM trong giai đoạn 2006-2017, có thể
thấy, về cơ bản được đảm bảo an toàn. Trong giai đoạn này, tình trạng khủng hoảng
thanh khoản diện rộng không xảy ra. Song cũng có ngân hàng đôi lúc còn căng thẳng
thanh khoản và những khó khăn thanh khoản cục bộ đối với một số NHTM. Những
trường hợp căng thẳng thanh khoản của hệ thống NHTM có thể được nhận biết thông
qua biến động lãi suất trên thị trường. Dù hệ thống NHTM Việt Nam chưa gặp phải
cuộc khủng khoảng thanh khoản hệ thống, tuy nhiên, quản lý thanh khoản của các
NHTM luôn cần được quan tâm và hoàn thiện để đảm bảo an toàn hoạt động và hướng
tới quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế.
- Nghiên cứu của TS Cấn Văn Lực (06/2018), Bnews.vn chỉ ra rằng:

5



Kiến thức tài chính của người tiêu dùng Việt Nam chưa cao. Nhiều người không
hiểu rõ về sản phẩm, dịch vụ tài chính-ngân hàng và đôi khi không được tư vấn một cách
rõ ràng, đầy đủ về hợp đồng tín dụng, nên sau khi ký hợp đồng có cảm giác bị lừa gạt.
Điều này cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính thiếu tuân thủ các điều kiện tín dụng, dẫn
đến chịu lãi phạt cao và các công ty tài chính phải liên tục gọi điện để đòi nợ

1.1.1.2 Các nghiên cứu nước ngoài:
Để nhìn vấn đề một cách tổng quát và toàn diện, chúng ta cần tìm hiểu kĩ hơn
về các trung gian tài chính nước ngoài trong thời đại bùng nổ về thông tin, cách mạng
4.0 tác động đến hệ thống trung gian tài chính như thế nào.
- Nghiên cứu của ngân hàng thế giới( WB) chỉ ra rằng:
Tổng công ty tài chính quốc tế, cánh tay khu vực tư nhân của Ngân hàng Thế
Giới, đang dẫn đầu sự thay đổi theo hướng đầu tư trung gian tài chính của các quỹ
công cộng. Các ngân hàng phát triển khu vực như Ngân hàng phát triển Châu Á và
Ngân hàng đầu tư Châu Âu đã tích cực thông qua cách tiếp cận này. Quỹ khí hậu xanh
của Liên Hợp Quốc đang sử dụng mô hình này, và gần đây đã hình thành ngân hàng
phát triển mới và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á dự kiến sẽ làm như vậy.
- Nghiên cứu của Yuan K.Chou( Department of Economics, University of
Mebourne) (2004) chỉ ra rằng:
Những sự đổi mới trong tài chính làm gia tăng sự đa dạng của các sản phẩm
được đưa ra bởi trung gian tài chính khi họ huy động vốn và chuyển đổi tiết kiệm cá
nhân vào các quĩ được phân bổ bởi các công ty đầu tư
- Nghiên cứu của Krugman (2015) chỉ ra rằng:
Ngân hàng đóng vai trò như một trung gian tài chính khi dòng tiền giữa hàng
ngàn người gửi và các nhà đầu tư tới những khách hàng mà nó cho vay.
- Nghiên cứu của Alex Tabarrok( George Mason University) chỉ ra rằng:
6



Costs of Inflation( Financial Intermediary Failure): Các trung gian tài chính
(trong tình huống này là ngân hàng thương mại) sẽ tính phí lãi suất như một lợi nhuận
của họ khi họ cho bạn vay tiền. Trong trường hợp này, lạm phát sẽ tiềm tàng làm việc
chống lại bạn cũng như chống lại ngân hàng.
Với sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0 đã có những tác động đáng kể và tạo ra
nhiều cơ hội mới đến nhiều lĩnh vực kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam
cũng vậy, Cách mạng công nghiệp 4.0 ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, thị trường nước
nhà. Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều mặt tích cực của cuộc cách mạng này, thay đổi
cục diện phương thức hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính; các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức, cá nhân có khả năng tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn,
nâng cao tính minh bạch, qui chuẩn hóa trong quá trình quản lí và phân tích báo cáo tài
chính,… Bên cạnh những tác động tích cực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các
nghiên cứu cũng đã chỉ ra những mặt tiêu cực, thách thức trong công tác bảo mật
thông tin, an ninh mạng, thu hẹp thị trường lao động, đồng tiền ảo ra đờì..
1.1.2 Cơ sở lý thuyết
Trung gian tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính là những tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tài
chính tiền tệ. hoạt động chủ yếu và thường xuyên của trung gian tài chính là
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội dưới các hình thức
tiền gửi, phí bảo hiểm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và các loại chứng từ có
giá trị khác, sau đó sử dụng các nguồn vốn huy động này để cấp tín dụng cho
vay hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính và các hoạt động kinh doanh
khác chủ yếu nhằm mục đích lợi nhuận. Trung gian tài chính cùng với thị
trường tài chính, công cụ tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính tạo nên một hệ
thống tài chính hoàn chỉnh.
Vai trò của trung gian tài chính
(i)

Tiết kiệm chi phí thông tin và chi phí giao dịch


Các trung gian tài chính tiết kiệm được các chi phí là do những yếu tố sau:
7


 Quy mô lớn: Bằng cách tập hợp nguồn vốn từ nhiều nhà đầu tư nhỏ và đưa vốn
đến cho những cơ hội đầu tư sinh lời, các trung gian tài chính đã làm giảm đi
chi phí cho mỗi nhà đầu tư riêng lẻ, qua đó tạo cơ hội kiếm thu nhập cho những
người có vốn nhàn rỗi cần đầu tư.
 Tính chuyên nghiệp trong hoạt động: Khả năng giảm thiểu chi phí còn bắt nguồn
từ việc chuyên môn hóa và những kinh nghiệm tích lũy trong quá trình hoạt động
của các trung gian tài chính. Chuyên môn hóa giúp nâng cao năng suất lao động,
hiệu suất sử dụng tài sản… và do đó tiết kiệm chi phí. Mặt khác, quá trình chuyên
môn hóa cộng với kinh nghiệm tích lũy cho phép các trung gian tài chính có thể
xây dựng những cơ sở hạ tầng phục vụ cho các giao dịch cùng loại với chi phí rẻ,
đồng thời cung cấp thêm những tiện ích khác cho các khách hàng.

 Cung cấp các dịch vụ liên quan một cách đa dạng: Các tài chính trung gian tài
chính thường có danh mục dịch vụ đa dạng và các dịch vụ cung ứng thường hỗ trợ
cho nhau. Vì vậy, khách hàng của các định chế tài chính trung gian sẽ được cung
cấp kết hợp các dịch vụ liên quan, nhờ vậy tiết kiệm chi phí cho khách hàng.

(ii). Khắc phục tình trạng thông tin bất đối xứng
Thông tin bất đối xứng là tình trạng phổ biến của nhiều thị trường. Tình trạng
thông tin bất đối xứng sẽ gây ra hai hậu quả chủ yếu sau:Lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức. Trong bối cảnh đó, sự hình thành của các trung gian tài chính là một giải
pháp quan trọng, giúp tăng cường hiệu quả và sự ổn định của thị trường.


Đối với vấn đề lựa chọn đối nghịch

-

Sự chuyên nghiệp trong thu thập và phân tích thông tin giúp các trung
gian tài chính lựa chọn được cơ hội đầu tư tốt hơn so với những người
tiết kiệm nhỏ, riêng lẻ, nhờ vậy giảm thiểu lựa chọn đối nghịch, bảo đảm
đồng vốn của người tiết kiệm được an toàn.

-

Các trung gian tài chính nắm giữ một tỷ lệ lớn các món cho vay riêng lẻ
không mua bán được trên thị trường nên các thông tin mà các trung gian
8


tài chính có được là các thông tin độc quyền, giá của món cho vay này
(tức lãi suất) không bị dao động nên tránh được vấn đề người đi xe
không tốn tiền.


Đối với vấn đề rủi ro đạo đức
-

Nhờ kinh nghiệm tích lũy và sự chuyên môn hóa để thực hiện việc theo
dõi, giám sát những khoản vay đã được tạo ra hay các khoản đầu tư đã
được thực hiện, các trung gian tài chính đã có thể giảm thiểu rủi ro đạo
đức.

-

Sự chuyên nghiệp của các trung gian tài chính được thể hiện rõ thông

qua các điều khoản hạn chế đối với các hợp đồng nợ nhằm loại trừ
những hành vi không mong muốn hoặc khuyến khích thực hiện những
hành vi mong muốn theo quan điểm của người cho vay.

-

Các trung gian tài chính giúp giảm thiểu hậu quả của vấn đề “người đại lý

– người ủy thác”.
(iii). Biến đổi tài sản
Đóng vai trò là trung gian giữa người tiết kiệm và người đi vay cuối cùng, các trung
gian tài chính đã thực hiện việc biến đổi tài sản về mức rủi ro, về khối lượng và thời
hạn. Vai trò này đem lại lợi ích cho cả người tiết kiệm lẫn người vay cuối cùng.
Trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Nếu các chức năng cơ bản của các tổ chức trung gian tài chính là chức năng tạo
tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín dụng bị gián đoạn sẽ
ảnh hưởng đến chức năng của thị trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị
đình trệ, ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế.
Các loại hình trung gian tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính gồm ba nhóm chính: các tổ chức nhận tiền gửi,
các công ty tài chính, các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và các trung gian đầu tư
(i)

Các tổ chức nhận tiền gửi

9


Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất trên thị trường tài chính xét
theo phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ chức này huy động vốn bằng cách

mở tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho khách hàng, đồng thời sử dụng số vốn huy
động được để cho vay theo nhiều hình thức khác nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán.
Thu nhập của các tổ chức này đến từ hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua
chứng khoán; và thu nhập từ các khoản phí.
Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại (NHTM), các
hiệp hội tiết kiệm và cho vay (S&Ls), các ngân hàng tiết kiệm và các liên hiệp tín
dụng, trong đó, các NHTM chiếm thị phần lớn nhất
Các trung gian tài chính này huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, hay thương phiếu. Các công ty tài chính cung ứng chủ yếu các loại tín dụng
trung hạn và dài hạn, ví dụ cho người tiêu dùng vay tiền để mua sắm đồ đạc, xe hơi, tu
bổ nhà hoặc cho các doanh nghiệp nhỏ vay. Ngoài ra, các công ty tài chính còn thực
hiện các dịch vụ cầm, giữ hộ và quản lý các chứng khoán, các kim loại quí .v.v...
Nếu như hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu là tập hợp các khoản
tiền gửi nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn, thì các công ty tài chính lại huy động
những khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản nhỏ. Một điểm khác biệt nữa
là công ty tài chính không được huy động các dạng tiền gửi như như ngân hàng thương
mại cũng như không được thực hiện các dịch vụ thanh toán.
Có ba loại hình công ty tài chính chủ yếu sau:
- Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company)
- Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company)
- Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company)
(ii)

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là các

trung gian tài chính huy động vốn dựa trên cơ sở hợp đồng theo định kỳ. Các tổ chức
này có thể dự đoán tương đối chính xác khoản tiền họ sẽ thanh toán trong những năm

10



tới nên không phải lo lắng về việc thiếu vốn như các tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, các tổ
chức này có thể đầu tư các loại chứng khoán dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu công ty.

- Công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm là những trung gian tài chính đảm nhận việc thực hiện một khoản
thanh toán mỗi khi có một sự kiện xảy ra, với một khoản đóng góp trước đó của người
muốn thụ hưởng quyền lợi này. Công ty bảo hiểm huy động vốn từ các khoản đóng
góp của những người tham gia hợp đồng bảo hiểm và sử dụng phần lớn số tiền huy
động được để mua trái phiếu. Các công ty bảo hiểm cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu
song số lượng rất hạn chế vì họ ngại tính rủi ro cao của cổ phiếu. Thu nhập của công ty
bảo hiểm chủ yếu là các khoản phí, ngoài ra còn có các khoản lợi tức đầu tư từ các
công cụ tài chính.
- Quỹ hưu trí
Quỹ hưu trí được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích của những người
lao động khi họ về hưu. Thành lập ra những quỹ này là các doanh nghiệp tư nhân; các
cơ quan nhà nước hoặc địa phương; các nghiệp đoàn lao động nhân danh thành viên
của mình, và cuối cùng là các cá nhân có nhu cầu.
Đặc điểm của quỹ này là nó liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém
tính thanh khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử
dụng, dù chỉ là để thế chấp cho một khoản vay cho đến khi về hưu. Tuy nhiên, lợi thế
của các quỹ này là các khoản đóng góp của các ông chủ, và một khối lượng nhất định
đóng góp của người lao động, cũng như thu nhập từ tài sản của quỹ, được phép đóng
thuế chậm. Về thực chất, quỹ hưu trí là một hình thức trả công của ông chủ mà người
làm công không bị đánh thuế cho đến khi rút số tiền này. Nó có tác dụng khuyến khích
những người làm công ở lại với doanh nghiệp.
(iv)

Các trung gian đầu tư


- Quỹ tương hỗ
Đây là một loại hình trung gian tài chính, huy động vốn bằng cách bán chứng chỉ quỹ cho
các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục cổ phiếu và trái phiếu đã được đa
dạng hoá. Các quỹ tương hỗ thường được quản lý bởi một công ty quản lý quỹ. Một
11


công ty quản lý quỹ có thể quản lý nhiều quỹ khác nhau để đa dạng hoá đầu tư do mỗi
quỹ thường chỉ tập trung đầu tư vào một số loại chứng khoán nhất định.
- Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ
Thể chế tài chính tương đối mới này mang các đặc trưng của quỹ tương hỗ nhưng
được phép mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Giống như hầu hết các quỹ tương
hỗ, tổ chức này được phép bán cổ phiếu để huy động vốn đồng thời sử dụng số vốn
này để mua các công cụ an toàn và có tính thanh khoản cao trên thị trường tiền tệ. Lãi
suất của các tài sản này sẽ được thanh toán định kỳ cho cổ đông
Cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 ( CMCN 4.0) được giới thiệu lần đầu tiên bởi viện nghiên
cứu Frauhofer Gesellschaft và chính phủ liên bang Đức như một sự kết hợp giữa
Internet vạn vật (IOT), hệ kết nối không gian số - thực thể (CPS) vad các dịch vụ
Internet tự vận hành giữa chúng với nhau và với con người trong cùng một hệ thống.
Việt Nam có những điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận với CMCN 4.0. Với cơ cấu
dân số trẻ, đa phần sống ở khu vực nông thôn nhưng trình độ học vấn và khả năng tiếp
cận các dịch vụ công nghệ mới của người dân Việt Nam đạt mức khá so với các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh đó, ngành Tài chính- Ngân hàng tại Việt Nam đã và đang
chứng kiến những tác động mạnh mẽ từ cuộc CMCN 4.0, cùng với đó sự ra đời của
hàng loạt công nghệ mới như Fintech, AI (trí tuệ nhân tạo), Big Data, Điện tử đám
mây…Ảnh hưởng của CMCN 4.0 tới ngành TCNH nói chúng và các trung gian tài
chính nói riêng được thể hiện rõ nhất ở sự thay đổi trong phương thức hoạt động của
một số ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm. Đánh giá về sự tác động của cuộc

cách mạng công nghiệp 4.0 đến xu hướng phát triển của ngân hàng, chúng ta có thể
thấy có một số điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, mô hình và cách thức quản trị ở các ngân hàng trở nên hoàn thiện nhờ sự
phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI). Các ngân hàng có thể ứng dụng AI trong

12


việc quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng và quản lý cơ sở dữ liệu. Với khả
năng tự học hỏi và thích nghi, tiềm năng của AI là không giới hạn trong các ứng dụng.
Thứ hai, sự phát triển mạnh mẽ của mô hình ngân hàng số: Tạo ra nhiều những sản
phẩm dịch vụ tài chính mới như M-POS, internet banking, mobile banking, công nghệ
thẻ chip, ví điện tử… ngày càng phát triển mạnh tạo thuận lợi cho người dân trong
việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm chi phí giao dịch.
Thứ ba, là mở rộng của các kênh phân phối hiện đại của ngân hàng: Kênh bán hàng
qua internet, mobile-banking, tablet-banking, mạng xã hội, phát triển ngân hàng số và
giao dịch không giấy tờ sẽ là xu thế phát triển mạnh.
Trong tương lai phần lớn doanh thu của ngân hàng bán lẻ là nhờ vào web, điện thoại
di động hay ứng dụng trên máy tính bảng. Do đó, các ngân hàng trong nước cần nắm
bắt và thay đổi theo xu thế, cải thiện khả năng ứng dụng trên điện thoại di động của
các tiện ích dịch vụ, phát triển mạnh các hỗ trợ dịch vụ qua internet thì mới có thể duy
trì và tăng cường kết nối, chăm sóc khách hàng. Đặc biệt lưu ý đến sự thay đổi xu
hướng tiêu dùng của khách hàng theo hướng thích trải nghiệm (dùng thử).
Thứ tư, phạm vi giao dịch và các phương thức giao dịch của ngân hàng cải biến đáng
kể. Theo đó, mạng máy tính đã kết nối các thị trường tài chính trên toàn cầu thành một thị
trường thống nhất và hoạt động liên tục, khắc phục được trở ngại về không gian và thời
gian, tiết giảm chi phí, tạo điều kiện cho các giao dịch ngân hàng quốc tế được tiến hành
thuận lợi, nhanh chóng, việc chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng theo phương thức từ
xa qua video-call trở nên dễ dàng, thuận tiện. Công nghệ thực tế ảo và hình ảnh ba chiều
sẽ có thể thay thế hoàn toàn cách giao tiếp của con người.


Thứ năm, hệ thống dữ liệu ngân hàng được hoàn thiện và mở rộng gấp nhiều lần.
Nhờ công nghệ Big Data và phân tích dữ liệu của CMCN 4.0 giúp hỗ trợ các ngân
hàng thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu lớn sẽ tạo ra những tri thức mới, hỗ trợ việc
đưa ra quyết định phù hợp và nhanh hơn, giảm được chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh.

13


Như vậy, nhiều công nghệ hiện đại, đột phá như Cloud, BigData, AI, Blockchain… đã
được các ngân hàng ứng dụng vào hoạt động, dịch vụ ngân hàng - tài chính hoặc tăng
cường hợp tác với công ty FinTech.
Đối với các công ty bảo hiểm, việc ứng dụng công nghệ hiện đại, thành tựu của
CMCN 4.0 đang là xu hướng phát triển hiện nay. Dữ liệu lớn (Big Data), Trí tuệ nhân
tạo (AI) và Mạng lưới vạn vật kết nối (IoT), và đặc biệt là “cơn bão” Insurtech đã
mang lại những thay đổi tích cực đối với sự phát triển của các công ty bảo hiểm với vai
trò là trung gian tài chính. các công ty bảo hiểm ứng dụng Insurtech đã có những cuộc
thay đổi trong hoạt động, sản phẩm, dịch vụ mang tính cách mạng. Nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm mạnh mẽ ứng dụng công nghệ vào trong các giai đoạn của chuỗi giá
trị bảo hiểm, từ khâu nghiên cứu thị trường, marketing, thiết kế sản phẩm, đánh giá rủi
ro, bán sản phẩm, sau bán hàng cho đến giải quyết chi trả quyền lợi cho khách hàng,
đã nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động chạy nhanh hơn nhờ sự hỗ trợ của
công nghệ. Một số công ty bảo hiểm như FWD, Bảo Việt, Manulife Việt Nam… đã và
đang áp dụng thành công những thành tựu của CMCN 4.0 vào phương thức hoạt động
của mình. FWD là công ty thực hiện phương thức thanh toán hoàn toàn bằng điện tử,
công nghệ trong bảo hiểm sẽ được sử dụng xuyên suốt trong mô hình kinh doanh, từ
giai đoạn bán sản phẩm bảo hiểm đến phát hành hợp đồng bảo hiểm cho đến việc cam
kết bồi thường hợp đồng bảo hiểm như thế nào cũng như là đưa đến trải nghiệm cho
khách hàng. Bảo hiểm Bảo Việt ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI để thực hiện các quy trình
và giao dịch thông qua công nghệ số. Thông qua đó, viêc tra cứu và truy cập thông tin

trở nên nhanh chóng, hiệu quả, giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian; đông thời
thông tin dữ liệu được quản lý có hệ thống, tăng tính bảo mật…
CMCN 4.0 đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới cách thức hoạt động của các trung
gian tài chính, giúp cho hệ thống trung gian tài chính trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng hoạt động hiệu quả hơn, đạt được kết quả tốt hơn.
1.1.3 Khung phân tích
Bài nghiên cứu dựa trên tổng quan các nghiên cứu nước ngoài và trong nước để chỉ ra
những tác động của CMCN 4.0 tới hệ thống trung gian tài chính. Từ đó đưa ra những
14


khuyến nghị cho Việt Nam giúp hoạt động của hệ thống trung gian tài chính hiệu quả
hơn.
1.1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu: số liệu liên quan đến báo cáo kết quả hoạt động
của các trung gian tài chính, tác giả chủ yếu sử dụng số liệu từ tài liệu tham khảo
- Phương pháp phân tích số liệu:
+ Đối với mục tiêu (1): sử dụng phương pháp thống kê mô tả để chỉ ra ảnh
hưởng của CMCN 4.0 đến kết quả hoạt động của các trung gian tài chính.
+ Đối với mục tiêu (2) trên cơ sở phân tích những tác động của CMCN 4.0 ở
mục tiêu (1), đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
trung gian tài chính ở Việt Nam.

CHƯƠNG Ⅱ: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
2.1 Kết quả nghiên cứu
2.1.1 Trung gian tài chính và CMCN 4.0
Các loại trung gian tài chính truyền thống được chia làm 3 loại
 Các tổ chức nhận tiền gửi
 Các tổ chức không nhận tiền gửi
 Các trung gian tài chính khác

Tuy nhiên dựa vào quy mô của trung gian tài chính, nhóm phân tích theo hai nhóm
lớn: thứ nhất đó là CMCN 4.0 đối với các ngân hàng thương mại, loại trung gian tài
chính chiếm thị phần lớn trong thị phần trung gian tài chính và nhóm thứ hai là các
trung gian tài chính khác.
2.1.1.1 Các ngân hàng thương mại (NHTM) trong CMCN 4.0
CMCN 4.0 với ngân hàng thương mại – một bước đi đột phá nếu khai thác đúng hướng và
đúng tầm nhìn. Nhắc đến các tổ chức nhận tiền gửi, không thể không nhắc đến các
15


ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng và các tổ chức tiết kiệm. Nói về CMCN 4.0
đối với các trung gian tài chính , ta cần điểm qua các hoạt động truyền thống của
chúng, từ đó thấy được những cải cách khi có sự xuất hiện của CMCN 4.0.
Thứ nhất, trên phương diện của ngân hàng thương mại các hoạt động truyền thống
của một ngân hàng là nhận tiền gửi, cho vay đầu tư và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Tất cả các hoạt động của ngân hàng thương mại được coi là hình thức kinh doanh tiền tệ,
sinh lời từ khoản huy động vốn và cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán cũng đem lại
nguồn lợi nhuận tương đối lớn đối với các ngân hàng thương mại trong những giai đoạn
nền kinh tế có biến động mạnh. Vậy trong bối cảnh CMCN 4.0, về phía các ngân hàng đã
có những thay đổi như thế nào trong các hoạt động của mình?

Cuộc CMCN 4.0 đang tạo ra những bước nhảy vọt, không chỉ giúp hệ thống ngân hàng
hoạt động hiệu quả hơn, tiết kiệm nhiều chi phí mà còn hỗ trợ “xanh” hóa các hoạt
động. Dù không nằm trong 9 khu vực lĩnh vực được đánh giá là chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất của CMCN 4.0 nhưng ngành Ngân hàng với đặc điểm là một trong những
ngành đứng đầu về ứng dụng công nghệ thông tin sẽ làm thay đổi hoàn toàn cách thức
ngân hàng giao tiếp với khách hàng và kênh phân phối sản phẩm dịch vụ.
Thực trạng phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam

Nghiên cứu của nhóm Trần Thị Thanh Tú & Trần Thị Hoàng Yến ( năm 2016)

chỉ ra rằng : Tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định
16


hướng đến năm 2030 đã đặt mục tiêu đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS. Đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán ở dưới 10%, đến cuối năm 2025 con số này giảm xuống còn 8%.

Chính vì vậy, các ngân hàng cần phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện
đại, tạo cơ sở nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng… Đặc biệt, xu hướng
“ngân hàng không giấy” sẽ trở nên phổ biến, dẫn đến giảm dần vai trò của các chi
nhánh ngân hàng. Với CMCN 4.0, chi nhánh ngân hàng không phải là kênh phân phối
mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong tương lai.
Điển hình như Sacombank không chỉ triển khai dịch vụ thanh toán hóa đơn điện
tử từ khá lâu, mới đây, Sacombank cũng đã trở thành ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam
dừng hoàn toàn cấp mã Pin thẻ bằng hình thức in ra giấy để tiết kiệm chi phí, thời gian
và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng Sacombank cũng đã triển khai khá thành công các SPDV, ứng dụng ngân
hàng số với hàm lượng công nghệ cao; nâng cấp hệ thống ngân hàng điện tử phiên bản
mới cho cả hai kênh Internet Banking và Mobile Banking với nhiều tính năng vượt trội
trên nền tảng công nghệ bảo mật hiện đại; thu dịch vụ trong năm 2018 đạt 2.682 tỷ
đồng, tăng 47,1% so với năm 2017, chiếm tỷ trọng 23% tổng nguồn thu.

( Báo cáo thường niên ngân hàng Sacombank 2018)

17


Nằm trong xu hướng ngân hàng 4.0, ứng dụng mCard do Sacombank phát hành
có thể xem như là một dạng ví thẻ tạo ra những trải nghiệm mới mẻ về sự tiện ích,

hiện đại và an toàn bảo mật trong giao dịch thanh toán, giúp người dùng tiết kiệm thời
gian và góp phần giảm thiểu những thủ tục giấy tờ truyền thống.
Ứng dụng công nghệ 4.0 sẽ giúp ngân hàng nâng cao lợi nhuận, đảm bảo tính sẵn
sàng cao cho hệ thống trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện
tử của khách hàng. Khi sự minh bạch ngày càng rõ hơn, người tiêu dùng Việt Nam có
nhiều cơ hội tiếp cận hơn với các dịch vụ tài chính hàng đầu trong và ngoài nước. Từ
đó giúp các ngân hàng trong nước nâng lên một tầm cao mới, phát triển và cạnh tranh
với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Theo một khảo sát tháng 4/2018 của Ngân hàng Nhà nước đối với các Tổ chức
tín dụng Việt Nam về CMCN 4.0, có 6 công nghệ nền sẽ tác động mạnh, có tiềm năng
ứng dụng lớn cho ngân hàng: Điện toán đám mây (Cloud Computing); Phân tích dữ
liệu lớn (Big Data Analytics); Trí tuệ nhân tạo (A.I); Tự động hóa quy trình bằng
Robot (R.P.A); Công nghệ Blockchain; và Kết nối vạn vật (Internet of Things - I.o.T).
Những tiến bộ từ cuộc cách mạng công nghệ số trước kỷ nguyên CMCN 4.0 sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư, tận
dụng lợi thế đi sau tiếp nhận sự hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật, đào tạo bồi dưỡng kiến thức
mới từ các ngân hàng, các đối tác nước ngoài, các nhà đầu tư chiến lược trong việc
ứng dụng khuôn khổ quản trị và kinh doanh hiện đại, tiếp thu mô hình ngân hàng số
thông minh và phát triển sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao.
Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang chú trọng phát triển các dịch vụ
ngân hàng điện tử - một trong những hoạt động làm xanh hóa hoạt động ngân hàng.
Theo thống kê, hiện nay có 65 ngân hàng thương mại cung ứng dịch vụ Internet
banking, 35 cung ứng dịch vụ Mobile banking và nhiều tổ chức trung gian cung ứng
các dịch vụ thanh toán điện tử.
Những tháng đầu năm 2018, lượng người dùng và giá trị giao dịch qua các kênh
điện tử như Internet, di động và ví điện tử tăng khá mạnh ở nhiều ngân hàng. Tại
Sacombank, số liệu 10 tháng cho biết, lượng đăng ký sử dụng Internet Banking đạt hơn

18



1,3 triệu tài khoản và Mobile Banking hơn 1,1 triệu tài khoản. Tổng giá trị giao dịch
mỗi tháng qua cả hai kênh này là hơn 108.000 tỷ đồng.
VietinBank ghi nhận số lượng sử dụng Internet Banking trong nửa đầu năm
tăng đến 114% so với cùng kỳ 2017, với hơn 1,5 triệu tài khoản với giá trị giao dịch
đạt 44.260 tỷ đồng. Số người sử dụng Mobile Banking của ngân hàng này cũng đạt
hơn 1,5 triệu người, tổng số tiền giao dịch đạt 64.350 tỷ đồng.

Nhiều ngân hàng ghi nhận số người dùng và giá trị giao dịch qua Internet
Banking tăng mạnh nửa đầu năm 2018.

Tại MBBank, đã có hơn 7 triệu người sử dụng dịch vụ ngân hàng số của nhà
băng này. Tổng giá trị giao dịch trung bình mỗi tháng đạt 27.400 tỷ đồng, đưa tỷ lệ
giao dịch trên ngân hàng số cán mức 2,6 triệu giao dịch số trên tổng số khoảng 3 triệu
giao dịch hàng tháng của ngân hàng.
Sau khi thành lập Trung tâm Số hóa Ngân hàng (Digital Lab), VPBank đạt tỷ lệ
giao dịch trực tuyến chiếm hơn 52% tổng lượng giao dịch trong 6 tháng đầu năm
2018. Diễn biến tại các ngân hàng này cũng tương đồng với bức tranh chung về thị
trường thanh toán không tiền mặt tại Việt Nam từ đầu năm đến nay.
Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, giá trị thanh toán qua các kênh
điện tử đến hết quý III/2018 tăng mạnh so với cùng kỳ 2017. Theo đó, thanh toán qua
Internet tăng 18,3%. Đặc biệt, thanh toán qua di động và ví điện tử tăng ở mức ba con
số, lần lượt là 126% và 161%. Số lượng thanh toán qua các kênh Internet, di động và
ví điện tử cũng ghi nhận tăng lần lượt là 33%, 30% và 28%.
Ông Nghiêm Thanh Sơn - Phó Vụ trưởng Vụ thanh toán cho biết hiện đã có 78
ngân hàng làm dịch vụ thanh toán qua Internet, 41 ngân hàng có dịch vụ thanh toán
qua di động.
"Thanh toán di động đang dần trở thành xu hướng mới với các công nghệ như mã
QR, thanh toán tiếp xúc và phi tiếp xúc, số hóa thông tin thẻ (tokennization) ngày càng


19


tăng", ông Sơn nhận định và cho biết đã có 16 ngân hàng thanh toán QR Code, toàn thị
trường có hơn 30.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code.
Ông Nguyễn Hoàng Minh - Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP
HCM nhận định dịch vụ ngân hàng điện tử trên địa bàn này có tốc độ tăng trưởng
nhanh và ấn tượng trong 10 năm qua. Trong 5 năm trở lại đây, số lượng khách hàng
tham gia dịch vụ Internet Banking tăng qua từng năm, với số lượng giao dịch tăng
trưởng bình quân 20% mỗi năm.
"Đây là dịch vụ ngân hàng điện tử có tốc độ tăng trưởng ấn tượng về lượng
khách hàng tham gia sử dụng nhờ sự tiện lợi, tiện ích dịch vụ. Khách hàng có thể giao
dịch mọi lúc, mọi nơi và 24/24, trong ngày không kể thời gian không gian", ông Minh
bình luận tại sự kiện Vietnam Retail Banking Forum 2018 diễn ra mới đây.
Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP HCM, để tiếp tục phát triển
thanh toán không tiền mặt, các tổ chức tín dụng cần quan tâm phát triển các giải pháp,
gắn kết sử dụng các dịch vụ thẻ, Internet Banking, Mobile Banking để thanh toán
trong lĩnh vực công.( Hà Phương, 2018)
Trên thực tế, Thời gian qua, nắm bắt được xu thế, nhiều NHTM đã tập trung
đầu tư vào công nghệ nhằm thay đổi hệ thống quản lý, dịch vụ phục vụ khách hàng,
nâng cao khả năng cạnh tranh trong cuộc CMCN 4.0. 93% ngân hàng phản hồi khảo
sát của Vietnam Report cho biết hiện đang đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển
kênh bán hàng qua công nghệ số (Internet Banking, Mobile Banking…); 80% cho biết
đang số hóa các nghiệp vụ lõi của ngân hàng và thu hút lao động trong lĩnh vực Công
nghệ cao và Công nghệ thông tin.

20


Khảo sát ngân hàng thương mại Việt Nam tháng 05/2018.

Nguồn: Vietnam Report

Bên cạnh đó, trong những năm trở lại đây, sự xâm nhập của công nghệ vào lĩnh vực
tài chính (Fintech – Công nghệ tài chính) được xem như một trào lưu “hợp thời” trước bối
cảnh công nghệ 4.0 phát triển toàn cầu và sự thay đổi hành vi online của khách hàng (bao
gồm hoạt động mua sắm, giải trí, mạng xã hội…). Với hoạt động chính là sử dụng công
nghệ thông tin và viễn thông để cung cấp dịch vụ tài chính, các công ty Fintech đã mang
lại rất nhiều sản phẩm dịch vụ thuộc về lĩnh vực tài chính như thanh toán điện tử, thanh
toán trên di động, tài chính cá nhân, hay tài chính doanh nghiệp. Nắm bắt được điều đó,
các NHTM đang có xu hướng hợp tác với các công ty Fintech nhằm gia tăng trải nghiệm
mới cho khách hàng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao khả năng cạnh tranh của thị
trường. Cụ thể, Theo số liệu khảo sát các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt
Nam do Vietnam Report thực hiện, 100% ngân hàng được hỏi

21


cho biết, họ dự định sẽ hợp tác với các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh toán nhằm
hướng đến mục tiêu “thanh toán không tiền mặt”.
Gần đây, Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank)
đã ký thỏa thuận hợp tác với Công ty Opportunity Network (ON) để cung cấp nền tảng
số cho việc kết nối doanh nghiệp là khách hàng của VietinBank với trên 15.000 doanh
nghiệp ở 113 quốc gia là thành viên của ON, tạo ra cơ hội mở rộng thị trường hiệu quả
cho các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Trong khi đó, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Quân đội (MB) đã phát triển mô hình ngân hàng số dựa trên sự
hợp tác với đối tác chiến lược Viettel, hay như mô hình hợp tác giữa Ngân hàng
Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Công ty M_Service
trong thanh toán chuyển tiền…
Từ những số liệu trên cho thấy, CMCN 4.0 dần đi vào đời sống của mọi người,
đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng tạo ra nhiều lợi ích và tiết kiệm các khoản chi phí,

góp phần nâng cao chất lượng phục vụ và tính đa dạng trong thanh khoản.
2.1.1.2. Hệ thống các TGTC khác trong CMCN 4.0
CMCN 4.0 với các trung gian tài chính khác được nhắc đến là sự phát triển của
các quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức tiết kiệm và cho vay trong hệ thống trung gian
tài chính tiền gửi, đồng thời là sự góp mặt của các trung gian tài chính phi tiền gửi gồm
các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí kèm theo các trung gian tài chính khác.
Phần lớn , CMCN 4.0 chưa đi sâu vào trong các quỹ tín dụng nhân dân và các
tổ chức tiết kiệm và cho vay. Một hình thức có thể coi là tiên tiến và cải cách đó là
cách xử lý công cụ tài chính qua hệ thống máy tính ví dụ các công đoạn nhân tiền và
gửi tiền, tạo tài khoản để người gửi tiền và vay tiền theo dõi mức lãi suất hay dòng tiền
tiền cần phải trả khi đến kì hạn cũng chỉ là những bước thử nghiệm sơ khai. Đa phần là
vẫn nằm trên hệ thống quản lý của các cơ quan, khách hàng chỉ có thể biết khi đến tại
quầy giao dịch của các tổ chức này, tuy nhiên trong CMCN 4.0 thời kì được coi là mới
nổi thì việc áp dụng công nghệ vào là điều hoàn toàn có thể.

22


Ngành bảo hiểm, một trong những ngành đang khá phổ biến và có khởi sắc trên
thị trường VN. Có thể kể đến các công ty bảo hiểm như Bảo Việt, Prudential,..Vậy
trong bối cảnh CMCN 4.0, cảnh bảo hiểm đã có những bước nhảy như thế nào?
Tại Việt Nam, không ít doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đã nhanh nhạy đón
đầu xu thế để tận dụng lợi thế của cuộc CMCN 4.0 thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng
kỹ thuật số vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm tiên phong đón đầu cuộc CMCN 4.0 phải
kể đến một số tên tuổi lớn, hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam như Tập đoàn
Bảo Việt. Năm 2017, Bảo Việt đã xây dựng chiến lược chuyển đổi trên nền tảng kỹ
thuật số và bước đầu triển khai chiến lược này theo xu hướng của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 và các xu hướng công nghệ InsurTech.


10 XU HƯỚNG CÔNG NGHỆ TRONG NGÀNH BẢO HIỂM: INSURTECH
(INSURANCE TECHNOLOGY)

Insurtech trend Tự động hoá sẽ thay thế nỗ lực của con người trong toàn bộ chuỗi
#1

giá trị bảo hiểm

Insurtech trend Phí bảo hiểm sẽ trở nên cá nhân hóa cao nhờ công nghệ hiểu biết
#2

khách hàng hơn

Insurtech trend Kỷ nguyên blockchain đã bắt đầu và sẽ có sự chuyển đổi nhanh
#3

chóng từ tập trung sang phân tán

Insurtech trend Bảo hiểm truyền thống và công ty công nghệ mới sẽ được kết hợp
#4

tất yếu

23


Insurtech trend Ứng dụng kỹ thuật số vào cuộc sống sẽ làm thay đổi mối quan hệ
#5

giữa công ty bảo hiểm và khách hàng


Insurtech trend Hợp đồng bảo hiểm trọn gói all-in-one
#6

Insurtech trend Các mô hình mới sử dụng kỹ thuật số sẽ thách thức chuỗi giá trị bảo
#7

hiểm truyền thống

Insurtech trend Mô hình của công ty lemonade đã đặt ra tốc độ trong insurtech 2.0
#8

Insurtech trend Giải quyết khiếu nại sẽ trở thành dịch vụ tự động, tự phục vụ và
#9

nhanh chóng trả tiền cho khách hàng

Insurtech trend Công nghệ ngăn ngừa tổn thất sẽ trở thành một đặc điểm chính trong
# 10

sản phẩm bảo hiểm

(Nguồn: The Digital Insurer)
Năm 2018, Bảo Việt sẽ tiếp tục tập trung đầu tư hoàn thiện hạ tầng công nghệ
thông tin tiên tiến, hiện đại, đẩy mạnh triển khai các dự án công nghệ thông tin trọng
điểm nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong xu hướng CMCN 4.0, góp phần nâng cao
chất lượng của công tác quản trị điều hành tập trung và thúc đẩy hoạt động kinh doanh
của toàn hệ thống, tạo điều kiện cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tài chính trực
tuyến trọn gói và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong xu hướng CMCN 4.0. Minh chứng
cho chiến lược này của Bảo Việt là việc ngày 1/2/2018, Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo

Việt (Bảo hiểm Bảo Việt) –đơn vị thành viên của Tập đoàn Bảo Việt đã tiên phong và
chính thức ký kết hợp đồng hợp tác cùng MoMo – Công ty Fintech cung cấp giải pháp
24


ví điện tử an toàn. Ngoài ra, gần đây, Bảo Việt ra mắt nhiều phần mềm quản lý và ứng
dụng trực tuyến hữu ích như Baoviet Online, Baoviet Pay, Baoviet Direct,
BVS@Trade. Động thái này của Bảo Việt nhằm cung cấp các giải pháp ví điện tử an
toàn, có thể chủ động lựa chọn và trực tiếp mua sản phẩm bảo hiểm của Bảo hiểm Bảo
Việt như bảo hiểm xe ô tô, xe máy, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm bệnh ung thư, bảo
hiểm du lịch… trên ứng dụng. Đây là kế hoạch nằm trong định hướng phát triển bền
vững thông qua việc ứng dụng thành quả công nghệ của cuộc CMCN 4.0 trong hoạt
động kinh doanh để mang lại cho khách hàng những trải nghiệm ngày một thuận tiện
hơn, thú vị hơn và nhanh hơn khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm tài chính.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, từ tháng 8/2018, nhằm rút ngắn thời gian giải
quyết chi trả quyền lợi bảo hiểm, nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và trải nghiệm
dành cho khách hàng, Bảo Việt Nhân thọ đã triển khai quy trình giải quyết quyền lợi bảo
hiểm 15 phút trên toàn quốc và trở thành nhà bảo hiểm giải quyết quyền lợi cho khách
hàng trong thời gian ngắn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay

Có thể thấy, việc một doanh nghiệp lớn như Bảo hiểm Bảo Việt hợp tác với 1
start-up về Fintech có uy tín tại Việt Nam đã cho thấy bước chuyển mình mạnh mẽ, sẵn
sàng đón đầu CMCN 4.0 để mang sản phẩm gần hơn, tiện lợi hơn, thông minh hơn đến
cho khách hàng trong thời đại số hoá. Bảo Việt sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ để hoàn
thiện hệ thống CNTT, nắm bắt kịp thời những xu thế công nghệ mới đang thịnh hành
trên thế giới, tạo nền tảng nền tảng để có khả năng kết nối, liên thông, tích hợp và chia
sẻ thông tin để thực sự đưa CNTT là thế mạnh của Bảo Việt để cạnh tranh trong thời
đại mới, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0. Đến năm 2020, phần lớn các giao
dịch tại Bảo Việt sẽ được số hoá hoàn toàn, nâng cao hiệu quả của toàn doanh nghiệp,
nâng cao trải nghiệm dịch vụ của Bảo Việt trên nền tảng kỹ thuật số cho khách hàng và

cho các đối tác phân phối.

25


(Báo cáo thường niên bảo hiểm Bảo Việt 2017)
Ngoài ra, có thể kể đến một số trường hợp điển hình khác như Công ty bảo
hiểm nhân thọ FWD Việt Nam hiện đã số hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ, hay Công
ty Prudential Việt Nam. Trong năm 2017 cũng đã giới thiệu giải pháp công nghệ ứng
dụng trên nền tảng AI và Big Data như chatbox tư vấn bảo hiểm PRUbot hay tương tác
với khách hàng thông qua facebook, website. Theo thống kê của Prudential trong năm
2017, đã có gần 290.000 lượt tin nhắn trò chuyện của khách hàng với PRUbot.. Đến
nay, toàn bộ trải nghiệm của khách hàng với FWD đã được số hóa. Từ khâu phân tích
nhu cầu, tư vấn, minh họa hợp đồng bảo hiểm, nộp hồ sơ bảo hiểm, theo dõi và phát
hành hợp đồng đến bồi thường bảo hiểm đều thực hiện trên nền tảng kỹ thuật số. Đây
cũng là một trong những doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thị trường loại
bỏ hợp đồng bảo hiểm in giấy truyền thống và phát hành hợp đồng bảo hiểm điện tử
tới toàn bộ khách hàng.
Trước đây, doanh nghiệp cũng đã tiên phong giới thiệu thành công sản phẩm
bảo hiểm bệnh ung thư "FWD Sống khỏe" trên trang thương mại điện tử Tiki. Qua đó
khách hàng có thể chủ động trải nghiệm tham gia bảo hiểm hoàn toàn trực tuyến, từ
khâu tìm hiểu sản phẩm, kê khai thông tin, thẩm định, đóng phí đến nhận hợp đồng
bảo hiểm điện tử.
Gần đây nhất, FWD cũng là một trong những công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên
tại Việt Nam triển khai thành công hợp đồng bảo hiểm điện tử tới toàn bộ khách hàng và
ngưng phát hành hợp đồng in giấy truyền thống. Ngoài trải nghiệm số hóa khi nhận
26


hợp đồng bảo hiểm trực tuyến, khách hàng còn có thể truy cập cổng thông tin điện tử

tại bất kỳ thời điểm nào để theo dõi, lưu về hoặc in hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm điện
tử có chữ ký điện tử của FWD mang đầy đủ giá trị pháp lý như hợp đồng in và đóng
dấu truyền thống.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mang lại
cho lĩnh vực bảo hiểm nhiều lợi ích như gia tăng kênh bán hàng, phương tiện tương
tác, cơ hội có được dữ liệu toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNBH. Theo
các chuyên gia bảo hiểm, cuộc CMCN 4.0 với các ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ
giúp các DNBH đẩy mạnh kênh phân phối qua giao dịch điện tử, đồng thời giúp các
DNBH tiết kiệm chi phí nguồn nhân lực thực hiện công đoạn bán hàng. Khách hàng
cũng sẽ chủ động tìm hiểu các nguồn thông tin về sản phẩm bảo hiểm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của họ...
Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), CMCN 4.0 sẽ
ảnh hưởng đến mọi mặt của ngành Bảo hiểm, bởi các công đoạn của một chu trình sản
phẩm dịch vụ bảo hiểm (hay chuỗi giá trị bảo hiểm) đều chịu sự ảnh hưởng rất lớn của
kỹ thuật số. Giai đoạn thẩm định rủi ro, tính phí bảo hiểm, Big Data giúp tra xuất dữ
liệu về khách hàng tiện lợi, đầy đủ, khiến việc thẩm định, tính phí bảo hiểm diễn ra
nhanh hơn. Big Data cũng giúp tránh, ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm hoặc hành vi lựa
chọn bất lợi. Đến giai đoạn phục vụ sau bán hàng, các công cụ trực tuyến giúp quản trị
hợp đồng bảo hiểm mọi nơi, mọi lúc, rất thuận tiện cho khách hàng. Các dịch vụ 24/7,
sử dụng AI trả lời những thắc mắc của khách hàng; công nghệ định vị, địa phương hóa,
cá thể hoá chăm sóc khách hàng..
Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh BH đã giúp các
DNBH phi nhân thọ gia tăng lợi thế cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiếp cận
khách hàng nhanh chóng hơn. Đại diện các DNBH cũng khẳng định, ứng dụng công nghệ
số hóa vào hoạt động kinh doanh BH đã giúp DN đứng vững và tiếp tục tăng trưởng
Theo số liệu mới nhất từ Cục Quản lý, giám sát BH, 6 tháng đầu năm 2018 tổng
doanh thu phí BH gốc của thị trường phi nhân thọ ước đạt 22.297 tỷ đồng, tăng 12,97% so
với cùng kỳ. Về thị phần, Bảo hiểm Bảo Việt tiếp tục dẫn đầu thị trường về doanh thu phí
BH gốc, với doanh thu ước đạt 4.647 tỷ đồng, tăng 28,09%, chiếm 20,84% thị
27



×