Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LV Thạc sỹ_mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.95 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
khoảng 96% tổng số doanh nghiệp và đóng góp gần 40% GDP cả nước. Chính vì
vậy Đảng và Chính phủ ta đặc biệt quan tâm đến việc phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ, thể hiện bằng đường lối, chính sách cụ thể dành riêng cho khối doanh
nghiệp này.
Trong thời điểm hiện nay, có thể khẳng định rằng việc đẩy mạnh phát triển
DNVVN là bước đi hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tình hình nước ta. DNVVN
đã góp phần tích cực khai thác toàn diện các nguồn lực kinh tế, con người, ngày
càng khẳng định vai trò to lớn trong việc giải quyết các vấn đề về tăng trưởng kinh
tế, giải quyết việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên hiện nay, các DNVVN đang phải đối mặt với nhiều khó khăn nhất
là khó khăn thiếu vốn. Về mặt tổng quan, trong những trở ngại mà doanh nghiệp
gặp phải thì thiếu vốn cũng như ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng
nhất, tiếp theo mới là mức độ cạnh tranh và sau đó mới là sự hạn chế về cầu đối với
sản phẩm và khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh. DNVVN là đối
tượng khó tiếp cận các nguồn vốn nhất trong khi lực lượng này có nhu cầu vay vốn
bức thiết nhất.
Để có thể thúc đẩy DNVVN phát triển toàn diện thì cần phải tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đang mắc phải. Vì vậy, giải quyết khó khăn
về vốn cho các DNVVN đã và đang là một vấn đề cấp bách đòi hỏi Nhà nước, các
định chế tài chính và các tổ chức tín dụng phải quan tâm và phối hợp giải quyết.
Mặt khác, thực tế hiện nay, trong khi nguồn vốn tín dụng dành cho các
DNVVN còn rất hạn chế vì các DNVVN khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay vốn
ngân hàng, khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng vốn
chưa hợp lý và hiệu quả. Vì thế, việc tìm ra các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu



2

tín dụng của DNVVN để tháo gỡ khó khăn về vốn, tạo điều kiện cho DNVVN phát
triển đang là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
Đối với Sở Giao dịch NHNO & PTNTVN, từ trước đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện hoặc có nghiên cứu nhưng chưa được
nghiên cứu một cách triệt để vấn đề cho vay đối với DNVVN. Mặt khác, nền kinh
tế trong những năm qua có nhiều biến động nên các giải pháp đã được đưa ra
không còn phù hợp với thời điểm hiện tại mà cần có các biện pháp mới. Để góp
phần giải quyết được những khó khăn, vướng mắc đối với vấn đề cho vay DNVVN
ở Sở Giao dịch NHNO & PTNTVN, tôi đã chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam” làm đề tài luận văn.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài xem xét đánh giá một cách hệ thống thực trạng hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đáp
ứng nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở Giao dịch Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở Giao dịch
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
- Phạm vi: Nội dung nghiên cứu giới hạn chủ yếu ở hoạt động cho vay của
Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 03 năm từ 2007-2009.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể để xem xét, phân tích những hiện tượng, những vấn đề thuộc đối tượng


3

và nội dung nghiên cứu của đề tài. Các phương pháp được sử dụng phổ biên là:
Phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp chuyên gia, …
Nguồn tài liệu chính được thu thập thông qua các tài liệu thống kê, các báo cáo kết
quả hoạt động của Sở Giao dịch và của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam, các kết quả nghiên cứu liên quan được đăng tải trên các báo,
tạp chí, internet.

5. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực trạng cho vay đối
với DNVVN, luận văn đưa ra được một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam; Cụ thể:
- Góp phần hệ thống một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về tín
dụng đối với DNVVN;
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNVVN của Sở
Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam;
- Đề xuất được những giải pháp có căn cứ và có tính khả thi nhằm mở rộng
hoạt động tín dụng đối với DNVVN của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, Luận văn gồm ba chương sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở
Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò đối với nền kinh tế VÀ
NHỎCỦA
1.1.1. Khái niệmNhững ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh
nghiệp vừa và nhỏ và nhỏ
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đề cập đến trong nhiều nghiên
cứu, nhưng việc xác định các tiêu thức phân loại vẫn còn chưa được thống nhất. Để
phân biệt DNVVVVN với doanh nghiệp lớn, người ta thường căn cứ vào các tiêu
thức như : Tổng vốn đầu tư, giá trị tài sản cố định, số lượng lao động thường xuyên,
giá trị bằng tiền của sản phẩm bán ra thị trường hay dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình
quân tính cho một lao động. Tuỳ vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà các tiêu
thức nào được lựa chọn, tuy nhiên các tiêu thức được sử dụng phổ biến thường là:
- Số lao động thường xuyên được sử dụng;
- Tổng số vốn đầu tư huy động vào sản xuất kinh doanh.
Theo Wikipedia tiếng Việt, Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiêp
có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có
thể chia thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro),
doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế

giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người,
doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp
vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước mình.
Sự phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng dựa trên hai tiêu
thức là vốn và lao động. Trước đây theo công văn số 681/CP-KTN do Chính phủ


5

ban hành ngày 20/6/1998, DNVVNVVN là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh
dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000 USD theo tỷ giá giữa đồng VNN và đồng đô
la Mỹ tại thời điểm đó) và số lao động thường xuyên không quá 200 người.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, số lượng các doanh nghiệp đang
ngày một tăng, có không ít doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng chưa
đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Vì vậy Chính phủ ban hành Nghị định số
90/2001/NĐ-CP ra ngày 23/11/2001 về trợ giúp và phát triển DNVVN, trong đó có
nêu ra định nghĩa sau :
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp,
chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao
động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”.
Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP thay thế
Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với
những nội dung chủ yếu sau:
- Chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước là chương
trình mục tiêu được xây dựng trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phát
triển ngành, địa bàn và được bố trí trong kế hoạch hàng năm và 5 năm. Doanh
nghiệp vừa và nhỏ do phụ nữ làm chủ và sử dụng nhiều lao động nữ sẽ được ưu tiên

trợ giúp.
- Tại quy định về trợ giúp tài chính, Nghị định cũng nêu rõ Nhà nước khuyến
khích thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ cũng
giao Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước chủ trì xây dựng cơ chế thành lập và hoạt
động của các quỹ bảo lãnh tín dụng , mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
- Việc thành lập Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng được quy
định. Theo đó, nguồn vốn của quỹ này là vốn cấp từ ngân sách nhà nước; vốn đóng


6

góp của các tổ chức trong nước; các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức nước
ngoài, các tổ chức quốc tế, lợi nhuận từ các nhà hoạt động của quỹ và các nguồn
vốn hợp pháp khác.
- Các chính sách trợ giúp về mặt bằng sản xuất, đổi mới, nâng cao năng lực
công nghệ, trình độ kỹ thuật; xúc tiến mở rộng thị trường; tham gia kế hoạch mua
sắm, cung ứng dịch vụ công; thông tin và tư vấn; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực
cũng được nêu rõ trong Nghị định.
Nghị định này nêu ra định nghĩa DNVVN như sau:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn
(tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể
như sau:

Quy mô

Doanh nghiệp


Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

siêu nhỏ
Khu vực

Số lao động

Tổng nguồn Số lao động Tổng nguồn
vốn

Số lao động

vốn

I. Nông, lâm nghiệp 10 người trở

20 tỷ đồng trở từ trên 10

từ trên 20 tỷ

và thủy sản

xuống

người đến

đồng đến 100 người đến 300


200 người

tỷ đồng

người
từ trên 200

xuống

từ trên 200

II. Công nghiệp và

10 người trở

20 tỷ đồng trở từ trên 10

từ trên 20 tỷ

xây dựng

xuống

xuống

người đến

đồng đến 100 người đến 300

200 người


tỷ đồng

người

từ trên 10 tỷ

từ trên 50

III. Thương mại và

10 người trở

10 tỷ đồng trở từ trên 10

dịch vụ

xuống

xuống

người đến 50 đồng đến 50 tỷ người đến 100
người

đồng

người


7


Như vậy tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký
kinh doanh và thoả mãn hai tiêu chí: tổng nguồn vốn không quá 10 tỷ đồng, số lao
động từ 10 đến 300 người được coi là DNVVVVN.
Việc phân định DNVVN ở Việt Nam theo các tiêu chí được quy định tại
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP nêu trên là hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta.

1.1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và vừa và nhỏ
1.1.2.1. Cơ cấu quản lý của doanh nghiệp gọn nhẹ
2.1. Trong một chừng mực nào đó, so với các doanh nghiệp lớn,
một ưu thế rõ rệt của các DNVVN là cơ cấu quản lý gọn nhẹ và linh
hoạt. Các DNVVN là những doanh nghiệp bám sát thị trường nhất,
đồng thời có thể điều chỉnh phương hướng kinh doanh của mình với tốc
độ nhanh trước những thay đổi liên tục của thị trường. Lợi thế của qui
mô vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ có những lợi thế sau:
Qui mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
So với doanh nghiệp lớn, DNVVN năng động hơn trước những thay
đổi liên tục của thị trường. Với quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật đồ sộ, các doanh
nghiệp lớn thường không nhanh nhạy như những DNVVN để có thể theo kịp sự
chuyển biến của nhu cầu người tiêu dùng.
Về mặt quản lý, so với những bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc ở các doanh
nghiệp lớn, việc ra các quyết định kinh doanh của những DVNVV không cần “thỉnh
thị” nhiều cấp, nên khi gặp khó khăn mọi người đều có thể nhanh chóng giải quyết.
Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, số lượng nhân viên tương đối ít thuận lợi cho sự thống nhất
trong các quyết sách từ lãnh đạo cho đến nhân viên. Do đó, ở các DNVVN quá trình
triển khai và thực hiện các kế hoạch kinh doanh cũng sẽ dễ dàng hơn và thành công
cũng dễ đến hơn so với các doanh nghiệp lớn.


1.1.2.2. Chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh


8

Nhờ cơ cấu gọn nhẹ và chủ yếu là sở hữu tư nhân với các quyền tự quyết
rộng rãi, các DNVVN luôn chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều này tạo lợi thế quan trong cho các DNVVN. Một trong những lợi thế
đó là lợi thế về giá thành và giá bán sản phẩm. Giá thành được coi là một trong
những vũ khí lợi hại nhất của các DNVVN nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
luôn “thiên biến vạn hoá”. Trong khi các doanh nghiệp lớn vất vả với những kế
hoạch cắt giảm chi phí để hạ giá thành, thì các DVNVV liên tục đưa ra những mức
giá linh hoạt khác nhau phù hợp với túi tiền của mọi khách hàng.

1.1.2.3. Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh

Các DNVVN dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng
với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. :
CCác DNVVN là những doanh nghiệp có vốn đầu tư ban đầu tương đối
thấp. Tuy nhiên, do sự chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh
nên hiệu quả cao và dẫn đến thu hồi vốn nhanh. Do đặc điểm này mà các DNVVN
hấp dẫn được nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực
này. Ngoài ra, do
DNVVN có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh
nghiệp lớn (DNL), cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn. Mặt khác, sự
đình trễ, thua lỗ, phá sản của các DNVVN có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên
khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng
hoảng kinh tế dây chuyền.

1.1.2.4. Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu

kém
Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều
hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ doanh nghiệp,
giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ
phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo


9

bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng
quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh
hướng phổ biến là các doanh nghiệp hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm
nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược
cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng công nghệ thông tin. Một số chủ doanh
nghiệp mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu
kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.

1.1.2.5 Trình độ công nghệ phổ biến còn lạc hậu
Về công nghệ, do phần lớn các DNVVN là các cơ sở thủ công "đi lên" hoặc
có tiếp cận được khoa học, công nghệ nước ngoài thì cũng thuộc thế hệ lạc hậu.
Theo khảo sát, hơn 90% DNVVN đang sử dụng công nghệ từ cấp trung bình đến
lạc hậu, khả năng đầu tư nâng cấp công nghệ thấp, tiêu hao nhiều tài nguyên, bao
gồm vật liệu, nhiên liệu, năng lượng... và thường có ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường.

1.1.3 Vai trò của DNVVN
1.13.1 Vài trò kinh tế
Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các DNVVN Việt Nam hiện
chiếm tới 97% tổng số DN cả nước, đóng góp trên 40% GDP mỗi năm. DNVVN
góp phần đáng kể trong việc duy trì đà tăng trưởng kinh tế. Các DNVVN có vai trò

quan trọng và không thể thay thế trong nền kinh tế. Vai trò kinh tế của các DNVVN
thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo
trong tổng số doanh nghiệp. Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ
lệ này là trên 95%). Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là
rất đáng kể.


10

- Góp phần giữ vai trò ổn định nền kinh tế: DNVVN chiếm khoảng 96%
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, đóng góp tới 40% GDP của cả nước, giải quyết
công ăn việc làm cho hàng triệu lao động nên góp phần không nhỏ vào việc giữ ổn
định nền kinh tế.
- Góp phần làm cho nền kinh tế năng động: DNVVN được hình thành và
phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh
vực, lấp vào khoảng trống thiếu vắng của các DN lớn, tạo điều kiện cho nền kinh tế
quốc dân khai thác mọi tiềm năng, tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
- Là bộ phận quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ:
Công nghiệp phụ trợ là ngành sản xuất các sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ
cho việc sản xuất các thành phẩm chính, thường được sản xuất với quy mô nhỏ, nên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng chủ lực tham gia vào ngành công nghiệp
phụ trợ.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có mặt
ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản
lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.

1.1.3.2 Vai trò xã hội
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế, tuy nhiên sự

hình thành và phát triển của các doanh nghiệp đã tạo ra không ít những lợi ích xã
hội mà một trong những lợi ích đó là sự góp phần đáng kể của các doanh nghiệp
vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.Việt Nam hàng năm có
khoảng 1,6 triệu người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng lớn những
người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Đây là nguồn lao động rất đông đảo
không thể khai thác hết được nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp quốc doanh và
các doanh nghiệp lớn. Các DNVVN thường có quy mô không lớn, vốn đầu tư
không nhiều, có thể thành lập bởi một cá nhân, một gia đình hoặc một số người liên
kết lại cộng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động, được


11

hình thành rộng khắp từ thành thị tới nông thôn, là nơi cung cấp việc làm nhanh
nhất cho lực lượng lao động kể trên.
Ở nước ta, sự phát triển tích cực của DNVVN đã góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp, ổn định lại tình hình kinh tế, an sinh xã hội trong những năm vừa qua. Hiện
nay, DNVVN đã giải quyết việc làm cho trên 12 triệu lao động và là một động lực
quan trọng cho phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra, DNVVN góp phần quan trọng vào việc duy trì, bảo tồn và phát
huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc. Trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, các ngành nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh
tranh khốc liệt giữa sản xuất thủ công và sản xuất dây truyền hàng loạt. DNVVN là
một lựa chọn thích hợp để các ngành nghề truyền thống dựa vào đó để sản xuất,
kinh doanh và quảng bá sản phẩm.

1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định.

Nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế
mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng
giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc
nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Mặt khác do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức, cá nhân này và
hiện tượng thiếu vốn ở các tổ chức, cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát
sinh do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn. Trong khi đó số lượng các khoản
thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức, cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải
được tiến hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân
hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được
những mâu thuẫn đó.


12

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nếu được
tổ chức tốt thì đây là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách
linh hoạt, đầy đủ và kịp thời.

1.2.2. Vai trò của tín dụng đối với DNVVN
Do đặc điểm về năng lực tài chính và quản lý của DNVVN mà tín dụng ngân
hàng có vai trò đặc biệt qua trọng đối với các doanh nghiệp này; Cụ thể như sau:

1.2.2.1. Góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNVVN
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự

có để hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp mà còn làm tăng giá vốn của doanh nghiệp đó.
Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư, một doanh nghiệp có thể sử dụng hai
nhóm nguồn vốn: vốn tự có (hay vốn cổ phần) hoặc vốn đi vay.
Nếu sử dụng nhiều vốn vay, DNVVN có thể lợi dụng được nguồn vốn đang
rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế. Mặc dù giá vốn cổ phần có thể tăng lên
nhằm bù đắp sự tăng lên của rủi ro tài chính nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn sự
giảm đi của giá vốn vay, vì trong con mắt của các cổ đông mức rủi ro này đã được
bù đắp bởi các lợi thế về thuế.
Về mặt lý thuyết, mặc dù vốn vay có nhiều lợi thế nhưng không phải lúc nào
doanh nghiệp cũng vay được và muốn vay bao nhiêu tuỳ ý, vì khi vốn vay vượt quá
mức nào đó giá vốn vay sẽ tăng lên và làm tăng chi phí vốn. Chính vì vậy, DNVVN
phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu, đó là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ
cho kinh doanh của một DNVVN nhằm mục đích đạt tối đa hoá giá trị thị trường
của các DNVVN tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất để có thể tận dụng tối đa lợi thế


13

của nguồn vốn vay và đảm bảo một mức chi phí vốn rẻ nhất tại mức rủi ro có thể
chấp nhận được .

1.2.2.2 Tín dụng ngân hàng bổ sung vốn, tạo điều kiện cho DNVVN
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một
trong những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi sau đó cho vay ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho
vay của mình ngân hàng đảm bảo cho các doanh nghiệp nói chung, DNVVN nói
riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh doanh mà còn tái sản xuất mở rộng.
Đối với các DNVVN hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề khó khăn nhất trong

hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp là
phổ biến và nghiêm trọng. Tín dụng ngân hàng là hình thức tốt nhất để đáp ứng nhu
cầu vốn lưu động của doanh nghiệp hoặc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. Tín dụng ngân hàng không chỉ còn là nguồn
vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Tín dụng ngân hàng giúp cho các
doanh nghiệp không bỏ lỡ thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
liên tục, giúp quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong toàn xã hội.
Để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường,…
DNVVN không chỉ cần có vốn lưu động tạm thời mà còn phải có một lượng vốn cố
định và ổn định lâu dài. Qui mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên đôi khi vượt quá
khả năng vốn của DNVVN. Tín dụng ngân hàng có thể giúp cho các doanh nghiệp
thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh đó.

1.2.2.3 Tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý
và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả


14

Các DNVVN khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần
thu hồi đủ vốn mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết
kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất
ngân hàng thì doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và thu lãi.
Về phía ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN vay vốn. Vì vậy, trước khi cho
vay ngân hàng thường xem xét đánh giá rất kỹ lưỡng phương án sản xuất kinh

doanh của DNVVN, ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các DNVVN có phương án khả
thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ ngân hàng. Ngoài ra, DNVVN muốn có được
vốn vay ngân hàng thì phải hoàn thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp
đồng tín dụng, ngân hàng sẽ thực hiện qui trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong
và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng
vốn của DNVVN, buộc các DNVVN phải thực hiện đúng những điều khoản như đã
thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao
nhất.
Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn chặt với quyền lợi
của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với DNVVN để tháo gỡ những
khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho DNVVN về các vấn đề có liên quan,
tạo điều kiện giúp DNVVN tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

1.2.3. Chính sách cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng thương
mại
DNVVN đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế, song trên thực tế họ gặp phải
không ít khó khăn, nhất là việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Vì vậy, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển
DNVVN, trong đó có chính sách trợ giúp về tài chính. Nội dung cơ bản của chính
sách trợ giúp về tài chính được quy định trong Nghị định là:


15

- Nhà nước khuyến khích thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa
và nhỏ
- Có cơ chế khuyến khích và dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật để tăng
cường năng lực cho các tổ chức tài chính phù hợp mở rộng tín dụng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ; đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với doanh nghiệp

vừa và nhỏ, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tư vấn tài chính, quản lý đầu tư và các
dịch vụ hỗ trợ khác cho khách hàng là đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo, Nhà nước hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực lập dự án, phương án kinh doanh nhằm đáp
ứng yêu cầu của tổ chức tín dụng khi thẩm định hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích hoạt động
là: tài trợ các chương trình giúp nâng cao nâng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh
cao và thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ
tiên tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
Ngoài ra, khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây tác động tiêu cực đến
Việt Nam, Chính phủ đã kịp thời ban hành những giải pháp tài chính, hỗ trợ
DNVVN vượt qua khó khăn: thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng (BLTD) hỗ trợ
DNVVN; thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 4% cho DN vay vốn phát triển sản
xuất, kinh doanh; hỗ trợ 50% lãi suất khi vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội..
Thực hiện chính sách và các giải pháp tài chính hỗ trợ DNVVN nêu trên
cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại đã bổ sung những nội dung
mới vào chính sách và cơ chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, áp
dụng chung cho các đối tượng vay vốn là các doanh nghiệp, trong đó có các
DNVVN.

1.2.4. Các nguyên tắc cho vay
1.2.4.1. Nguyên tắc cho vay


16

Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo:
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp;

- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
- Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng

1.2.4.2. Điều kiện cho vay
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các
điều kiện sau:
* Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật:
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
+ Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
+ Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân; Đại diện của hộ gia đình; Đại diện
của tổ hợp tác; Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước
mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước
ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
* Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
* Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
* Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với
quy định của pháp luật.


17

* Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ

và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

1.2.5. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Trên thực tế,
người ta thường đề cập đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức
phân chia sau:

1.2.5.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
* Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ:
Tín dụng có kỳ hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống
nhất về điều này nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn
toàn đồng nhất. Ở Việt Nam hiện nay, theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng cùng với quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN/ ngày 31/12/2000 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì:
- Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ
sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung hạn, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn
vốn vay của tổ chức tín dụng.
+ Thời hạn cho vay trung hạn : từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn
hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp
nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
* Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản
vay không xác định rõ thời hạn trả nợ.

1.2.5.2. Phân loại theo thành phần kinh tế
Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:



18

- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
- Cho vay kinh tế tập thể.
- Cho vay kinh tế tư nhân.
- Cho vay kinh tế cá thể.
- Cho vay kinh tế hỗn hợp.

1.2.5.3. Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay có thể được phân chia theo
hai loại: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
- Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời
gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế được hoàn trả theo thoả thuận
trong hợp đồng, chẳng hạn theo tháng, theo quý hoặc theo năm.
- Cho vay trả góp: việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các khoản này
có thể bằng nhau hay không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận và được thực hiện theo
nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Thông thường, các ngân hàng thương mại thường áp dụng phương thức trả
góp đối với các khoản cho vay trung và dài hạn còn phương thức trả một lần thường
áp dụng đối với cho vay ngắn hạn.

1.2.5.4. Phân loại theo mức độ đảm bảo
Các ngân hàng có thể cho vay có đảm bảo hay không có đảm bảo tùy thuộc
vào mức độ tín nhiệm của ngân hàng đôí với khách hàng vay cũng như độ rủi ro của
phương án xin vay.
* Cho vay có đảm bảo: Từ “đảm bảo” của khách hàng ở đay chỉ được hiểu là
đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Cách đảm bảo
này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không trả
được nợ hay không muốn trả nợ khi đến hạn. Các tài sản được đem thế chấp thường

là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm cố lại là các động sản nhỏ,
vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác…Yêu cầu cơ bản đối với các tài


19

sản đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức là có khả năng thanh
lý được.
* Cho vay không có đảm bảo: Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình
hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì
ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo, điều này các ngân hàng ở Việt Nam
gọi là cho vay tín chấp.
Điều này giải thích tại sao các ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách
hàng những khoản tín dụng lớn mà không cần đảm bảo, đó là những doanh nghiệp
có quan hệ vay trả sòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính
vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý có hiệu quả, sản
phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trường hợp này tương tự như việc các
ngân hàng thương mại quốc doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước vay không phải
có tài sản thế chấp trong thời gian vừa qua.

1.2.5.5 Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
Theo nguồn phát sinh tín dụng (hay theo quan hệ giữa ngân hàng với người
vay), có thể chia các khoản vay thành:
- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay mà trước khi cấp tiền ra ngân hàng
có mối liên hệ trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình
hình người vay…
- Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức
kinh tế xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.

1.2.5.6. Phân loại theo kỹ thuật cấp tín dụng

Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
- Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín
dụng cổ điển, nhưng cho tới ngày nay vẫn được coi là một trong những kỹ thuật cấp
tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ
tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu
chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu
trừ đi số tiền lãi và phí hợp đồng.


20

- Tín dụng thấu chi: mỗi khách hàng đều có một tài khoản tiền gửi tại ngân
hang. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được sử dụng số tiền đã gửi trên tài khoản. Do
nhu cầu kinh doanh, khách hàng thường có nhu cầu chi quá số tiền gửi trên tài
khoản. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng trước được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một số tiền lớn hơn số tiền gửi mà
khách hàng hiện có.
Những khách hàng có nhu cầu đối với hình thức tín dụng thấu chi là những
doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu thường xuyên và thu nhập bằng tiền gửi vào tài
khoản của ngân hàng, thường là các doanh nghiệp thương mại (thường xuyên có
nguồn tiền vào ra).
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ
động và tiện lợi, tuy nhiên cũng gặp nhiều rủi ro. Vì vậy, chỉ áp dụng cho những
khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng
với ngân hàng.
- Tín dụng thuê mua (leasing): Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê
mua rất phát triển. Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê bất động sản như: nhà
cửa, máy móc thiết bị, xe vận tải, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng…Các chủ thể
thuê có thể là: các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các
công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có

thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức thuê tín
dụng thuê mua.
Khách hàng thuê tiến hành trả dần giá trị tài sản theo hợp đồng đã thoả thuận
với ngân hàng. Khi giá trị của tài sản đã trả xong, khách hàng được quyền sở hữu tài
sản đó. Trong thời gian chưa trả hết nợ, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí các loại thuế và lãi kinh doanh, tuỳ từng
loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau.
Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên, thời hạn
trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn ít được sử dụng.


21

- Tín dụng trả góp: là hình thức cấp tín dụng mà khách hàng trả dần số tiền
vay gồm cả gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt chẽ với việc
mua bán hàng hoá (tái sản). Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận
của ba bên có liên quan: khách hàng mua - người đi vay, công ty bán hàng và ngân
hàng.
Tín dụng trả góp khác về cơ bản với tín dụng thuê mua là tài sản sau khi bán
đã thuộc quyền sở hữu của người mua và họ có quyền định đoạt. Trong trường hợp
tài sản thuộc đối tượng của tín dụng là bất động sản thì có thể làm thế chấp cho
ngân hàng, khi khách không trả được nợ thì ngân hàng được phát mại tài sản thế
chấp và chỉ thu được phần nợ còn thiếu.
Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những nó phù hợp với đặc điểm sử
dụng vốn của vay mà còn kích thích lưu thông hàng hoá, mở rộng sản xuất và tiêu
dùng. Mặt khác, người vay phảI trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi
vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả từ đó lập
được kế hoach trả nợ.
- Tín dụng bảo lãnh: là một loại tín dụng phát sinh khi ngân hàng nhận thanh

toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua không có khả năng thanh
toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu
cầu bảo lãnh và thời gian cho vay. Thời hạn có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Hình
thức bảo lãnh của ngân hàng cũng rất phong phú và đa dạng: bảo lãnh tín dụng, bảo
lãnh cung cấp hàng hoá…Tín dụng bảo lãnh phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu
thanh toán, chi tiêu của các nhà sản xuất kinh doanh trong các hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng.
- Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng
và ngân hàng với nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của hình
thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vay vừa dư nợ,
vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều được ghi vào
bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài khoản. Khi không còn số dư có,
khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận trong hợp đồng tín


22

dụng với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không
khống chế số dư có. Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền
mặt, chuyển khoản, tín phiếu…
Điều kiện được vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Ngoài ra trong một số trường hợp, người vay có
uy tín cao thì có thể không cần bảo đảm bằng tài sản. Thời hạn vay thường từ 3 -6
tháng. Trên lý thuyết, tín dụng vãng lai được xem như tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên,
hiện nay có nhiều ngân hàng cho vay với thoả hạn 2-3 năm nên tín dụng vãng lai trở
thành tín dụng trung và dài hạn.

1.3. Mở rộng tín dụng đối với DNVVN
1.3.1. Quan niệm về mở rộng tín dụng đối với DNVVN
Mở rộng tín dụng đối với DNVVN là một thuật ngữ phản ánh sự tăng trưởng

về quy mô và hiệu quả tín dụng đối với DNVVN. Quy mô tín dụng đối với
DNVVN phản ánh khối lượng tín dụng của một ngân hàng cấp cho khách hàng là
DNVVN. Quy mô tín dụng đối với DNVVN trong tổng quy mô tín dụng chung cho
thấy ngân hàng tập trung cho vay đối với DNVVN nhiều hay ít, thể hiện chính sách
phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng đối với DNVVN của NHTM phản ánh mức độ an toàn
và khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng đối với DNVVN mang lại cho ngân
hàng đồng thời nó cũng phản ánh sự thoả mãn của khách hàng về nhu cầu nguồn
vốn, thời gian đáp ứng, tiện ích, ,,, đối với hoạt động tín dụng đối với DNVVN của
ngân hàng.

1.3.2. Chỉ tiêu phản ảnh sự mở rộng tín dụng đối với DNVVN


23

Mở rộng cho vay đối với DNVVN được hiểu là việc NHTM cải thiện và đổi
mới phương pháp cung cấp tín dụng hiện tại cho các DNVVN nhằm tạo điẹu kiện
để các DNVVN dễ dàng hơn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng, đồng thời
nhằm mục đích tăng doanh số cho vay, nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng.
Mở rộng cho vay là sự tăng lên cả về quy mô cũng như chất lượng, sự thay đổi cơ
cấu của khoản mục cho vay theo định hướng kinh doanh, …
Việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN thường được phản ánh thông qua
các tiêu chí cơ bản sau:

1.3.2.1. Tăng trưởng tín dụng đối với DNVVN
Dư nợ cho vay là số tiền mà NHTM cho vay tính đến một thời điểm cụ thể.
Đây là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kỳ. Ngân hàng tính lãi vay dựa trên dư nợ, tức
là lợi nhuận của ngân hàng có được từ hoạt độn cho vay trong thời kỳ phụ thuộc vào
dự nợ cho vay trong thời kỳ đó. Vì vậy, dự nợ cho vay DNVVN càng lớn và dự nợ

kỳ sau tăng hơn so với kỳ trước là chỉ tiêu quan trọng phản ánh mức độ mở rộng
cho vay đối với DNVVN của NHTM.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ = ((Dự nợ kỳ này – Dư nợ kỳ trước)/Dư nợ kỳ
trước)*100%
Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ <0: Dư nợ kỳ sau< Dư nợ kỳ trước tức là ngân
hàng đã thu hẹp cho vay.
Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ >0:Dư nợ kỳ sau< Dư nợ kỳ trước, xét trên
giác độ hoạt động cho vay tổng thể của ngân hàng thì đây là mở rộng cho vay.
Việc mở rộng cho vay DNVVN thể hiện ở giá trị và mức tăng trưởng dư nợ
đối với DNVVN so với mục tiêu, kế hoạch kinh doanh đầu kỳ của ngân hàng. Dư
nợ và tốc độ tăng trưởng dư nợ của khối DNVVN tại NHTM cao hơn so với kế
hoạch ban đầu tức là ngân hàng đó đã thực hiện mở rộng cho vay đối tượng khách
hàng này. Ngoài ra,tốc độ tăng trương dư nợ kỳ sau lớn hơn tốc độ tăng trưởng dư
nợ kỳ trước sẽ phản ánh việc mở rộng cho vày ngày càng nhanh.


24

Tuy nhiên, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN không thể bao
quát được toàn bộ, vì thế cần xem xét kết hợp nhiều chỉ tiêu nhằm bổ sung cho chỉ
tiêu tăng trưởng dư nợ để đánh giá được đúng nhất việc mở rộng cho vay của ngân
hàng. Các chỉ tiêu được xét đến bao gồm:
- Tỷ trọng dư nợ của khối DNVVN trong tổng dư nợ:
Tỷ trọng dư nợ DNVVN = (Dư nợ DNVVN/ Tổng dự nợ)*100%
Tỷ trọng này phản ánh sự mở rộng cho vay đối với loại hình DNVVN so với
các đối tượng khách hàng khác.
Nếu tỷ trọng này càng tăng theo thời gian chứng tỏ ngân hàng đã ngày càng
coi trọng cho vay các DNVVN. Trong trường hợp dư nợ không tăng thoe thời gian
nhưng tỷ trọng cho vay đối với DNVVN tăng lên vẫn chứng tỏ ngân hàng đã quan
tâm và mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.

- Cơ cấu dư nợ trong tổng dư nợ đối với DNVVN
NHTC không bao giờ mở rộng cho vay toàn bộ bởi ngân hàng nào cũng có
định hướng và thị trường mục tiêu. Việc mở rộng cho vay tràn lan sẽ dẫn đến lãng
phí tài nguyên và không phát huy được hiệu quả tối đa. Do đó, ngân hàng thường
tập trung vào mảng khách hàng tiềm năng, ít rủi ro và hứa hẹn mang lại nhiều lợi
nhuận cho ngân hàng.
Như vậy, bản thân việc mở rộng cho vay đối với DNVVN không có nghĩa là
DN nào cũng được ngân hàng quan tâm và khuyến khích kho vay vốn. Căn cứ vào
định hướng phát triển trong từng thời kỳ, ngân hàng sẽ mở rộng cho vay đối với
một số đối tượng khách hàng nhất định. Ngân hàng có thể ưu tiên cho vay ngắn hạn
so với trung dài hạn, cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh so với doanh
nghiệp nhà nước, …
Do đó, khi xem xét mức độ tăng trưởng của từng bộ phận trong cơ cấu dư
nợ, chưa thể kết luận tỷ lệ như thế nào mới là mở rộng, mà tuỳ từng thời điểm, điều
kiện, tuỳ định hướng của ngân hàng mà dự chuyển dịch cơ cầu theo hướng hợp lý
mới được đánh giá là mở rộng cho vay.


25

- Số lượng khách hàng là DNVVN
Số lượng khách hàng là chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay về quy mô, số
lượng khách hàng càng nhiều nghĩa là ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn của
nhiều người hơn.
Do Dư nợ = Số lượng khách hàng x Giá trị trung bình của các món vay nên
số lượng khách hàng tăng lên là một nhân tố làm tăng quy mô dư nợ đối với
DNVVN của NHTM.
Ngoài ra, số lượng khách hàng cũng là chỉ tiêu phản ánh thị phần cho vay
của NHTM. Số lượng DNVVN vay vốn tại một NHTM tăng lên nhiều hơn so với
các NHTM khác cũng có nghĩa là ngân hàng này đã mở rộng được thị phần cho vay.

Mở rộng thêm đối tượng khách hàng: Thực tế cho thấy có nhiều ngân hàng
chỉ quen cho vay với một số bộ phận khách hàng nhất định, do đó khi ngân hàng
cho vay các đối tượng thuộc các ngành nghề, lĩnh vực mới cũng có thể được coi là
mở rộng cho vay.

1.3.2.2. Mức trích lập dự phòng rủi ro
Mức trích lập dự phòng rủi ro là một chỉ tiêu chi phí trong hoạt động tín của
của NHTM, do đó nó quyết định trực tiếp việc lợi nhuận có tăng lên cùng với sự mở
rộng cho vay hay không.
Mỗi quốc gia đều có quy định cụ thể về mức trích lập dự phòng rủi ro đối với
hoạt động của NHTM. Nhìn chung, mức trích lập dự phòng rủi ro thường được tính
như sau:
R= max {0, (A – C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ
C: giá trị của tài sản đảm bảo
R: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể, tỷ lệ này được quy định tương
ứng với từng nhóm nợ của khách hàng, nhóm nợ có mức độ rủi ro càng cao thì tỷ lệ
trích lập dự phòng càng lớn.


×