Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 28 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TẠI NHTM
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHTM:
1.1. Khái niệm:
NHTM là một tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, là doanh nghiệp
đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Một tổ chức cung ứng vốn
chủ yếu và hữu hiệu. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các
dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có rất nhiều khái
niệm về NHTM, nhưng khái niệm có thể nói là chung nhất là: NHTM là tổ chức
tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
a. Huy động vốn:
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn
kinh doanh của NHTM. Đây là hoạt động đóng một vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động, đến khả năng mở rộng kinh doanh của ngân
hàng. Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền tệ (nội tệ và ngoại tệ)
và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận là vốn huy động từ tiền gửi và vốn
huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
- Vốn huy động từ tiền gửi:
Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác
nhau cho khách hàng lựa chọn. Các NHTM nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh tế,
tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
+ Tiền gửi của tổ chức kinh tế gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền
gửi có kỳ hạn.
+ Tiền gửi của dân cư gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán.
+ Tiền gửi khác như: Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi
của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi của tổ chức đoàn thể xã hội…
Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và


tiết kiệm của khách hàng. Đây là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng sử dụng cho
vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác.
- Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá:
Đây là nguồn vốn mà NHTM có được thông qua phát hành giấy tờ có giá
như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… Các kỳ
phiếu và trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền mặt khi cần,
bằng cách bán chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân
hàng. Với cách huy động này ngân hàng có thể tập trung được một khối lượng
vốn lớn trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng. Hình thức này được sử dụng
khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải
ngân nhanh của khách hàng. Tuy nhiên, khi cần nóng thì ngân hàng có thể vay
thêm NHTM, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn…
b. Hoạt động sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của
ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng.
- Cho vay: là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả, có lãi
suất và thời hạn nhất định. Quan hệ này phải được thỏa thuận dựa theo nguyên
tắc giữa người đi vay và người cho vay.
Đây là hoạt động vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các loại tài sản của NHTM. Mục đích của cho vay nhằm
đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, thông qua đó để tìm kiếm lợi nhuận.
+ Cho vay gồm: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ dự án.
+ Cho vay thương mại: Đây là hình thức ngân hàng cho vay đối với
những người bán, sau đó chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay
trực tiếp đối với khác hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng
hoạt động sản xuất.
+ Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn
chính quan trọng giúp khách hàng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và
xe cộ… Bên cạnh đó những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế có thể được tài

trợ bởi cho vay tiêu dùng. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi
suất cho vay thương mại.
+ Cho vay dự án: Các ngân hàng tài trợ cho xây dựng những nhà máy
mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Nhưng hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro. Để đảm bảo an toàn trong
hiệu quả và cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các
tổ chức tín dụng thì các NHTM đã đưa ra các biện pháp đảm bảo trong cho vay,
phòng ngừa rủi ro là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không bảo
đảm bằng tài sản. Đây là điều kiện rang buộc đối với mỗi khách hàng khi đến
vay vốn ngân hàng.
- Đầu tư: Ngân hàng thường đầu tư bằng cách nắm giữ chứng khoán và
tham gia góp vốn với các tổ chức khác như: hùn vốn vào các ngân hàng liên
doanh, các công ty... Nhưng chứng khoán mà ngân hàng nắm là chứng khoán
Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và
chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng đem
lại thu nhập cao và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Chứng
khoán thường chia thành chứng khoán thanh khoản và kém thanh khoản. Chứng
khoán có tính thanh khoản cao là chứng khoán an toàn, dễ bán, ít giảm giá
nhưng có sinh lời thấp; còn chứng khoán kém thanh khoản thì có mức độ rủi ro
cao nhưng đem lại tỷ lệ sinh lời cao. Ngân hàng nên nắm giữ hợp lý loại chứng
khoán và đầu tư sao cho hiệu quả để vừa sinh lời vừa đảm bảo tính thanh khoản
khi có lượng tiền mặt rút ra.
c. Các hoạt động khác:
- Mua bán ngoại tệ:
Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện, tức là
mua một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị
trường tài chính hiện nay mua bán ngoại tệ thường là do các ngân hàng lớn nhất
thực hiện. Bởi vì những giao dịch này có mức độ rủi ro cao, yêu cầu phải có
trình độ chuyên môm cao.
- Bảo quản vật có giá:

Bên cạnh hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, các ngân hàng thực hiện
việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị khác cho khách hàng. Ngân hàng giữ
vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát
hành). Giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền gửi để thanh toán các khoản
nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng
phương tiện thanh toán bắng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng.
Đây là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rut ngắn thời
gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân vì tính an toàn ,
nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chí phí. Điều này đã khuyễn khích các
Doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Đây được
coi là một bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng.
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ:
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường xuyên, chính phủ các nước đều muốn
tiếp cận các khoản cho vay của ngân hàng. Chính phủ thường dùng một số đặc
quyền trao đổi các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng trung
ương thành lập, Chính Phủ đều tìm cách tham dự hoặc trực tiếp can thiệp để có
được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay Chính Phủ dành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng phải thực hiện theo chính sách
của Chính Phủ và tài trợ cho Chính Phủ bằng cách mua trái phiếu Chính Phủ,
hoặc cho vay ưu đãi các doanh nghiệp của chính phủ…
Ngoài ra, ngân hàng còn có các hoạt động khác: Quản lý ngân quỹ, cung
cấp dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch vụ môi giới và đầu tư
chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
2.1. Khái niệm về DNVVN:
Nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn

hay quy mô của các doanh nghiệp, bởi vì khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một nước tại một thời điểm nhất định. Một doanh
nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được xem là DNVVN
nhưng trong môi trường kinh tế của quốc gia khác thì lại là doanh nghiệp lớn,
hoặc doanh nghiệp cực nhỏ. Song, khái niệm chung nhất về DNVVN như sau:
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục
đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính
theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được theo thời
kỳ theo quy định của quốc gia.
Còn đối với DNVVN ở Việt Nam, Ngày 23/11/2001 Chính Phủ đã ban
hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo quy
định của nghị định này: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
và số lao động trung bình hang năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời
cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên.
Theo khái niệm này, cũng như các nước khác, để phân biệt DNVVN với
doanh nghiệp lớn, Việt Nam quan tâm tới hai tiêu thức chính là vốn và lao động.
Như vậy, vốn và lao động là hai tiêu thức cơ bản để đánh giá quy mô và phân
loại doanh nghiệp. Tuy nhiên do đặc điểm của các ngành nghề khác nhau dẫn
đến nhu cầu lao động , nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp rất khác nhau và
tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
2.2 Đặc điểm của DNVVN:
DNVVN không chỉ mang nhũng đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp
mà nó còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- Thứ nhất: DNVVN có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi vốn nhanh.
Là loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên việc đầu tư vốn sản suất
không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản suất của các doanh nghiệp này
thường vào các DNVVN sẽ tăng khả năng thu hồi vốn, tiếp tục tái cấp tín dụng

để đầu tư vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo, đồng thời cũng tăng nhanh tốc độ
luân chuyển vốn của ngân hang, tăng khả năng sinh lời. Đây được coi là một lợi
thế dối với DNVVN so với doanh nghiệp lớn. Khi cho DNVVN vay với số
lượng khách hang lớn hơn, ngân hang sẽ phân tán rủi ro hơn đối với cho vay
doanh nghiệp lớn với cùng tổng dư nợ.
- Thứ hai: DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, năng động,
nhạy bén và dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường.
Với quy mô nhỏ, DNVVN có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh
vực, với giá cả hợp lý đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất , tiêu dung dù là nhỏ nhất
của mọi tầng lớp xã hội. Ngoài ra, với cơ sở vật chất không lớn, bộ máy qản lý
gọn nhẹ nên DNVVN dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực sản phẩm dịch vụ
kinh doanh khi có sự biến động trên thị trường. Nhờ vậy mà DNVVN phân tán
được rủi ro, tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh của mình, đảm bảo
hiệu quả công việc. Đây là một mặt mạnh mà DNVVN có thể khai thác hết
năng lực của mình, để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
- Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu, thủ công do quy mô vốn nhỏ. Số
lượng DNVVN cả nước hiện nay khoảng 240000, chiếm khoảng 96% số doanh
nghiệp trong cả nước, số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, DN có 1-5 tỷ
đồng tiền vốn chiếm 37,03%, DN co 5-10 tỷ đồng tiền vốn chiếm 8,18%, nên
hầu hết nguồn tài chính của các DNVVN còn hạn hẹp. Mặt khác việc tiếp cận
các nguồn vốn, vấn đề đầu tiên co ý nghĩa quyết định thì các DNVVN còn gặp
phải khó khăn không nhỏ, nhất là những khoản vay trung và dài hạn. Chính vì
vậy, các DNVVN ít có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, thay thế công
nghệ phù hợp, có hiệu quả. Thực tế cho thấy, hầu hết máy móc thiết bị đang
dung trong các DNVVN ở Việt Nam là máy móc lạc hậu, đã khấu hao hết
nhưng vẫn được tận dụng, sửa chữa để sử dụng. Trình độ công nghệ được đánh
giá là lạc hậu so với các nước đang phát triển trong khu vực từ 2-3 thế hệ. Do
vậy, sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít,
sức cạnh tranh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu
vực. Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay sửa chữa, mua sắm các trang thiết bị

mới, DN cần có nguồn vốn mang tính chất ổn định và mang tính dài hạn. Hầu
hết các doanh nghiệp được thành lập mới trong những năm gần đây, chưa xây
dụng được hình ảnh riêng, chưa có uy tín nên việc vay vốn ngân hang còn gặp
nhiều khó khăn. Bởi vậy nguồn vốn và công nghệ còn hạn chế, thu nhập thấp.
Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên
thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận với nguồn vay của ngân hang do
không đảm bảo được các điều kiện cần thiết đặc biệt là tài sản đảm bảo.
- Thứ tư: Trình độ người quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao
động chưa cao.Các doanh nghiệp được thành lập chủ yếu là các doanh nghiệp
gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh thường theo
thói quen làm việc và dựa vào mối quan hệ tray ỳ trông công việc, không có
nguyên tắc làm việc,… kỹ năng chuyên môn. Hơn nữa quản lý theo thị trường
hiện đại đang thiếu. Các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo,
thiếu nhiều về hiểu biết quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Người lao động trong DNVVN có tay nghề kém, ít qua trường lớp đào
tạo cơ bản, chủ yếu được chuyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, lao động
phổ thong, trình độ tay nghề đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 60-70R lực
lượng lao động trong các DNVVN. Người lao động chưa chưa được đào tạo tác
phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại.
Bảng 1: Trình độ học vấn, đào tạo của lao động doanh nghiệp năm
1995.
(Đơn vị:%)
Bởi vậy, DNVVN muốn khắc phục những hạn chế này, bản than doanh
nghiệp phải tự vận động kế hợp với hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo, đào
tạo lại cán bộ công nhân, thợ lành nghề kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý
giỏi mới có thể vươn lên, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hôi nhập trong thời kỳ
hội nhập kinh tế mới.
- Thứ năm: Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ,
gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu.

Các DNVVN thường nhận gia công chi tiết, phụ kiện… của sản phẩm
cho xí nghiệp lớn hoặc tổ chức thu mua, thu gom nguyên liệu, phụ kiện làm đại
lý bán hang. Đặc biệt mô hình DNVVN rất phù hợp với các làng nghề thủ công
mỹ nghệ, những mạt hang truyền thống ở Việt Nam. Ở khu vực nông thôn hiện
nay, phổ biến với mô hình DNVVN tận dụng nguyên vật liệu và lao động tại
chỗ. Có tới 80% DNVVN hướng vào khai thác, chế biến nông sản thực phẩm,
gỗ, dệt may, sản xuất gạch ngói, thuộc da, thủ công mỹ nghệ.
- Thứ 6: Mô hình tổ chức kinh doanh gọn nhẹ, quản lý đơn giản. Mô hình
quản lý tổ chức trong các DNVVN thường đơn giản, mối quan hệ chủ - thợ trực
tiếp, thậm chí chủ doanh nghiệp trực tiếp làm thợ. Quan hệ giữa lao động và
người quản lý khá thân thiết. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng
ban, bộ phận rõ rang, thậm chí một người có thể đảm nhận nhiều vị trí. Điều
kiện mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của các DNVVN thường chật hẹp, nhiều
doanh nghiệp còn dung nhà ở làm nơi sản xuất kinh doanh, giao dịch, giới thiệu
sản phẩm bán hang. Chính điều này tạo sự năng động, linh hoạt trong sản xuất
kinh doanh. Đây là điểm mạnh, lợi thế lớn của DNVVN trong cơ chế thị trường
hiện nay, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đặ biệt là khu vực nông thôn.
Trên đây là những đánh giá chung về đặc điểm của DNVVN hiện nay, vì
năng lực tài chính nhỏ bé thiếu tài sản đảm bảo, không có phương án sản xuất
kinh doanh hiệu quả nên việc tiệp cận các nguồn vốn vay của các NHTM và các
tổ chức tài chính còn rất khó khăn. Đây là vấn đề được các NHTM cũng như
Chính phủ quan tâm để khai thác số lượng khách hang tiềm năng này, mở rộng
tín dụng để tăng thu nhập và tồn tại trên thị trường.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách như: Chính sách
khuyến khích đầu tư, chính sách về mặt bằng sản suất kinh doanh, chính sách về
thị trường và khả năng cạnh tranh, chính sách về xúc tiến xuất khẩu, chính sách
về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực. Điều này nhằm khuyến khích và
tạo thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực
quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng lien kết với

các loại hình doanh nghiệp khác, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người
lao động. Chính điều này giúp các ngân hang mở rộng tín dụng một cách dễ
dàng hơn.
2.3 Nguồn vốn của DNVVN:
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của doanh
nghiệp chia làm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
a. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không không chia và
tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
- Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh
nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu
góp. Xét về hình thức sở hữu doanh nghiệp thì:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở huux của doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải
có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Ví dụ
đối với công ty cổ phần vốn do các cổ đông đóng góp, mỗi cổ đông là một chủ
sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ
nắm giữ.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử
dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp giảm được chi phí, bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư lợi nhuận để lại, nguồn vốn tái đầu tư từ
lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang

×