Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LV Thạc sỹ_nghiên cứu hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thủy sản của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.01 KB, 97 trang )

MỤC LỤC

ỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2

Chữ viết tắt
AHP
BĐPG

3

DOC

4

EU

5

GATT

6

GCF

7
8


9
10

GDP
GTTT
GXK
VCAD

11

WTO

Cụm từ đầy đủ
Mô hình cây phân cấp
Biên độ phá giá
United States Department of Commerce – Bộ
thương mại Hoa Kỳ
Liên minh châu Âu
General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước
chung về thuế quan và thương mại
Chương trình Hỗ trợ cạnh tranh toàn cầu cho doanh
nghiệp Việt Nam
Gross Domestic Product – Tổng Sản phẩm quốc nội
Giá trị thông thường
Giá xuất khẩu
Cục quản lý Cạnh tranh – Việt Nam
World Trade Organization – Tổ chức thương mại
Thế Giới

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chiến lược hội nhập kinh tế sâu rộng, thương mại quốc tế ngày
càng trở thành một bộ phận quan trọng có vai trò quyết định đến sự phát triển
của mỗi quốc gia. Đối với một nước đang phát triển, có sự khan hiếm về vốn
để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc phát triển các
ngành kinh tế tận dụng được lợi thế vốn có của quốc gia là điều vô cùng quan
trọng. Trong những năm qua ngành thuỷ sản nước ta đã từng bước khẳng định
được lợi thế và vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân, đưa Việt Nam trở
thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu
thủy sản nhanh nhất.
Tuy nhiên, khi hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì
những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và mặt hàng thủy sản nói
riêng đều sẽ gặp phải những khó khăn. Một trong những khó khăn thường gặp
nhất là việc các quốc gia nhập khẩu tiến hành kiện chống bán phá giá nhằm
bảo hộ nền sản xuất trong nước. Kể từ năm 1994 đến nay, con số các vụ kiện
đã lên đến 31 vụ, trong đó phần lớn là các vụ kiện chống bán phá giá. Thực tế
cho thấy, các vụ kiện chống bán phá giá đã gây ra những tác động lớn cho nền
kinh tế Việt Nam, thể hiện ở sự tốn kém tài chính khi các doanh nghiệp Việt
Nam phải thuê luật sư tư vấn, tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất
khẩu cũng bị giảm đi do các doanh nghiệp nhập khẩu đều có xu hướng cắt
giảm việc nhập khẩu hàng hóa là đối tượng đang bị điều tra do có những lo
ngại về nguy cơ phải trả thêm các khoản thuế chống bán phá giá khi nhập
khẩu. Các tác động kinh tế không chỉ dừng lại ở các nhà sản xuất sản phẩm bị
kiện chống bán phá giá mà lan rộng sang các ngành công nghiệp khác. Đó


chính là phản ứng mang tính dây chuyền của các ngành công nghiệp sử dụng

các sản phẩm bị điều tra bán phá giá làm nguyên liệu đầu vào.
Để giảm các thiệt hại do các vụ kiện chống bán phá giá gây ra đối với
các hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đồng thời giúp cho doanh nghiệp có
thêm thời gian chuẩn bị và chủ động phòng tránh các vụ kiện có thể xảy ra,
cần thiết phải có một hệ thống các dữ liệu, thông tin cung cấp cho doanh
nghiệp đầy đủ về thị trường quốc tế, về luật pháp và quy định quốc tế liên
quan, để từ đó điều chỉnh chiến lược xuất khẩu của mình nhằm tránh được
những nguy cơ bị kiện chống bán phá giá. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu hệ
thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thủy sản
của Việt Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Cho đến nay, ở Việt Nam và thế giới đã có nhiều đề tài nghiên cứu về
vấn đề bán phá giá, chống bán phá giá đối với hàng hóa Việt Nam nói chung
và đối với mặt hàng thủy sản nói riêng. Một số công trình nghiên cứu về vấn
đề này như:
Luận án Tiến sĩ của Lê Thị Thùy Vân (2008): “Thuế chống bán phá giá
đối với Việt Nam trong hội nhập WTO”
Luận án đã làm rõ những vấn đề cơ bản về thuế chống bán phá giá. Trên
cơ sở nghiên cứu Hiệp định chống bán phá giá của WTO, Luận án đã khai
thác và làm nổi bật các vấn đề quan trọng về thuế chống bán phá giá như:
phạm vi áp dụng; nguyên tắc và điều kiện áp dụng; quá trình điều tra; áp dụng
mức thuế và thu thuế; hồi tố thuế; hoàn thuế; và rà soát thuế chống bán phá
giá; đồng thời kết hợp phân tích thêm nhiều dẫn chứng liên quan từ các vụ
tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO để làm sáng tỏ vấn đề. Luận án
đã khẳng định xu thế bán phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá tăng lên


trong giai đoạn hiện nay và các năm tới, đặc biệt trong các giai đoạn sau
khủng hoảng. Do đó, những thách thức đặt ra đối với Việt Nam cũng sẽ tăng
lên, đặc biệt xét ở khía cạnh Việt Nam phải đối phó với các vụ điều tra và áp

thuế chống bán phá giá của nước ngoài.
Luận văn của Nguyễn Thị Quyên (2007): “ Vấn đề chống bán phá giá
hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Mỹ và Liên minh Châu Âu”.
Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về chống bán phá giá,
phân tích, làm rõ thực trạng một số vụ kiện của Mỹ và EU kiện các doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá các mặt hàng như: cá Tra, cá Basa, tôm đông
lạnh, giày mũ da và xe đạp. Từ đó đề xuất những giải pháp giúp các doanh
nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá.
Luận văn của Nguyễn Thanh Duy (2010): “Tìm hiểu về vấn đề bán phá
giá cá tra, cá basa của Việt Nam ở thị trường Mỹ”. Luận văn đi vào nghiên
cứu và phân tích thực trạng xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang thị
trường Mỹ trước khi bị kiện bán phá giá. Nghiên cứu, đánh giá về vấn đề bán
phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ và tác động của nó tới
tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam. Từ đó, đưa ra giải pháp góp
phần phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu về chống bán phá giá đã có từ trước mới
chỉ đề cập đến các giải pháp để hạn chế và đối phó với các vụ kiện chống bán
phá giá đối với doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài, cũng có đề
cập đến giải pháp cần phải có một hệ thống cảnh báo sớm vấn đề này. Tuy
nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về hệ thống cảnh
báo sớm và các cơ chế hoạt động của hệ thống cảnh báo, cũng như những tác
động tích cực mà hệ thống mang lại.


3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung đi sâu vào nghiên cứu hệ thống cảnh báo sớm các vụ
kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam, cụ thể là về
các mảng:
- Quá trình hình thành hệ thống cảnh báo sớm, về những nguồn dữ liệu

cung cấp cho hệ thống cảnh báo, về các phương pháp phân tích để
đưa ra các mức độ cảnh báo cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
- Thực trạng của hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá
hiện nay nói chung và đối với mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam nói
riêng.
- Thông qua kinh nghiệm quốc tế, luận văn sẽ chỉ ra những điểm còn
thiếu sót của hệ thống, từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp để
hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đối
với mặt hàng thủy sản của Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống
bán phá giá.

-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu tổng quan toàn bộ về
hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá. Trong đó, tập
trung đi sâu vào nghiên cứu hệ thống trong việc cảnh báo đối với mặt
hàng thủy sản khi xuất khẩu trên thị trường Hoa Kỳ.

5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu các nội dung của đề tài được vận dụng những phương
pháp sau:


- Phương pháp tiếp cận vấn đề: Luận văn đi vào tìm hiểu một số nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài để hiểu được các mô hình
thường được dùng để cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá trên

thế giới. Sau đó, đi vào tìm hiểu cơ chế vận hành của hệ thống Việt Nam
để thấy được những điểm khác giữa cách tiếp cận của Việt Nam và cách
tiếp cận của thế giới. Từ đó, trên quan điểm nghiên cứu của tác giả, luận
văn sẽ đưa ra những kiến nghị mới để hoàn thiện hệ thống.
- Phương pháp thu thập số liệu: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê
nguồn số liệu sẵn có từ các nguồn đáng tin cậy của WTO, Cục Quản lý
Cạnh tranh, Tổng cục Hải Quan…để phân tích. Cũng từ nguồn số liệu
này, tác giả đã vận dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh và phân chia
dữ liệu đã có để có được nguồn số liệu theo mục đích nghiên cứu của tác
giả.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn trực tiếp
các cán bộ của Cục quản lý cạnh tranh để hiểu sâu hơn về hệ thống hiện tại
của Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1:

Một số vấn đề về bán phá giá và chống bán phá giá và

cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá.
Chương 2:

Thực trạng hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán

phá giá đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam.
Chương 3:

Một số kiến nghị để hoàn thiện và ứng dụng có hiệu quả

hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thủy

sản của Việt Nam.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ,
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM

1.1. Bán phá giá, chống bán phá giá
1.1.1. Bán phá giá
1.1.1.1. Thế nào là bán phá giá
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài
với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ: Từ điển kinh tế học hiện
đại cho rằng bán phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hoá ở
nước ngoài với mức giá thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước [57,
tr 282]; Theo Từ điển chính sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn
bán hàng của một công ty với giá bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị
trường trong nước (giá nội địa của nước xuất khẩu) [35, tr 82]; Theo cuốn
Black’s Law dictionary: phá giá là hành vi bán hàng hoá ra nước ngoài với giá
thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa [93, tr 518]. Theo cách hiểu này, bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt giá của cùng loại sản phẩm tiêu
thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên thị trường nước nhập khẩu.
Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán được giá xuất
khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (còn gọi là giá nội
địa).
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được
ghi nhận trong đạo luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8
năm 1904. Sau đó, New Zealand và Úc cũng ban hành các văn bản pháp luật
về chống bán phá giá vào năm 1905 và 1906. Khi chống bán phá giá đã trở
thành một nội dung quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái



niệm bán phá giá cũng được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại năm 1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi
Điều VI của GATT 1994 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều 2.1
của ADA quy định: trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán
phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác với giá
thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản
phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu
theo các điều kiện thương mại thông thường
Trong đó: Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có
tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường
hợp không có sản phẩm nào như vậy thì sản phẩm tương tự là sản phẩm khác
mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với
sản phẩm đang được xem xét.
Trong thực tế điều tra, các cơ quan điều tra đã phát triển thêm một số
tiêu chí mà họ áp dụng theo từng trường hợp cụ thể. Một số những tiêu chí
được các thành viên của WTO áp dụng là:
 Mức độ chuyên đổi thương mại của các sản phẩm;
 Các đặc tính vật lý của hàng hoá;
 Những phương thức sản xuất và công nghệ sản xuất được sử dụng
trong quá trình sản xuất hàng hoá;
 Những chức năng và mục tiêu sử dụng cuối cùng của hàng hoá;
 Phân loại ngành công nghiệp;…
Trong trường hợp không có sản phẩm tương tự được bán trong nước theo
các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc


trong trường hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh
chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng hóa

quá nhỏ, biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước
thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính
đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước
xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán
hàng, các chi phí chung và lợi nhuận.
Việc bán các sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất
khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba với giá thấp hơn chi phí sản xuất theo
đơn vị sản phẩm (bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi) cộng với các
chi phí quản trị, chi phí bán hàng và các chi phí chung có thể được coi là giá
bán không theo các điều kiện thương mại thông thường và có thể không được
xem xét tới trong quá trình xác định giá trị thông thường của sản phẩm chỉ khi
các cơ quan có thẩm quyền quyết định rằng việc bán hàng đó được thực hiện
trong một khoảng thời gian kéo dài với một khối lượng đáng kể và được bán
với mức giá không đủ bù đắp chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu
như mức giá bán thấp hơn chi phí tại thời điểm bán hàng nhưng lại cao hơn
mức chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm trong khoảng thời gian
tiến hành điều tra thì mức giá đó được coi là đủ để bù đắp cho các chi phí
trong một khoảng thời gian hợp lý.
Theo khái niệm như vậy thì có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá
giá đối với hàng xuất khẩu của một nước đến một quốc giá nội địa nếu xét
thấy:
- Giá xuất khẩu thấp hơn giá bán hàng hoá đó ở thị trường nội địa.
- Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất.


- Giá xuất khẩu sang nước tiến hành điều tra chống bán phá giá thấp hơn
giá xuất khẩu hàng hoá đó sang thị trường nước khác.
1.1.1.2. Cơ sở kinh tế của việc bán phá giá
Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương mại

quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước
đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh hay
không công bằng của hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, một cá nhân hay một tổ
chức chỉ bị kết luận là có bán phá giá nếu có đủ hai điều kiện: một là đang
bán phá giá và hai là mục tiêu của hành động bán phá giá nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh mà thể hiện cụ thể là làm thiệt hại vật chất hoặc đe doạ gây
thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp nội địa của nước nhập khẩu. Việc
xác định cơ sở kinh tế của việc bán phá giá có thể xác định được những hành
vi bán phá giá nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khi nào thì hành vi
đó là bình thường về mặt kinh tế.
Để tìm hiểu vấn đề tại sao bán với giá xuất khẩu dưới chi phí sản xuất lại
bị coi là bán phá giá, ta cùng xem xét khái niệm chi phí bằng cách phân biệt
chi phí trung bình và chi phí biên. Chi phí trung bình là chi phí tính trên một
đơn vị sản phẩm đầu ra. Chi phí biên là chi phí tăng lên do sản xuất thêm một
đơn vị sản phẩm đầu ra. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn
hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng
sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất
thay đổi. Chính chi phí biên là yếu tố quyết định trong việc xác định giá của
một công ty trong ngắn hạn khi phải chịu chi phí cố định.
Trong trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí trung bình:
Ta sẽ xem xét xem trong ngắn hạn công ty sẽ quyết định lựa chọn mức
sản lượng sản xuất thế nào để tối đa hoá lợi nhuận.


Hình 1.1. Đường chi phí và thu nhập biên
MC: Đường chi phí biên
MR: Đường thu nhập biên

AVC: Đường chi phí biến đổi trung bình
ATC: Đường chi phí trung bình


Trong thời kỳ ngắn hạn, công ty tối đa hoá lợi nhuận của mình bằng cách
lựa chọn đầu ra q* mà tại đó chi phí biên của công ty bằng với giá cả P của
sản phẩm và bằng thu nhập biên MR. Lợi nhuận của công ty chính là hình
chữ nhật ABCD. Mức sản lượng q1 thấp hơn q* hay mức sản lượng q2 cao
hơn q* đều dẫn tới việc hạ thấp lợi nhuận. Vùng xám cho thấy mức giảm lợi
nhuận tương ứng với việc lựa chọn sản lượng q1 và q2.
Các đường MR và MC cũng cắt nhau tại E, tương ứng với mức sản
lượng q0. Tuy nhiên ở mức sản lượng q 0 lợi nhuận chưa được tối đa hoá.
Tăng sản lượng vượt quá q0 sẽ tăng được lợi nhuận vì chi phí biên vẫn thấp
hơn thu nhập biên. Do đó điều kiện để tối đa hoá lợi nhuận của một công ty là


thu nhập biên bằng chi phí biên ở điểm mà ở đó chi phí biên đang đi lên chứ
không đi xuống.
Trong ngắn hạn, khi thị trường suy thoái bất cứ công ty nào dù là cạnh
tranh hoàn hảo hay không hoàn hảo cũng có thể bán sản phẩm với giá thấp
hơn chi phí trung bình chỉ cần mức giá này cao hơn giao điểm của chi phí
biên và chi phí biến đổi trung bình. Hành vi này của nhà sản xuất chính là để
bù đắp chi phí cố định. Nhà sản xuất có thể hy vọng rằng sau một thời gian
suy giảm tạm thời, thị trường sẽ hồi phục và công ty có thể tăng giá; hoặc chỉ
đơn giản là nhà sản xuất đang cố gắng bán hàng nhằm giảm thiểu thua lỗ
trước khi rút khỏi thị trường.
Mô hình dưới đây cho ta thấy rõ hơn hiện tượng này.

Hình 1.2. Chi phí và thu nhập biên
MC: Đường chi phí biên AVC: Đường chi phí biến đổi trung bình
MR: Đường thu nhập biên ATC: Đường chi phí trung bình
Trong thời gian ngắn công ty có thể chịu lỗ nếu nó vẫn tạo ra thu nhập đủ
để bù đắp chi phí biến đổi. Với mức giá P thấp hơn ATC như hình vẽ, công ty



vẫn tiếp tục tiến hành sản xuất mức sản lượng q *. Tại mức sản lượng này,
công ty sẽ bị lỗ phần hình chữ nhật ABCD do giá bán thấp hơn chi phí sản
xuất trung bình. Tuy nhiên công ty vẫn duy trì sản xuất vì nếu đóng cửa thì nó
thậm chí còn phải chịu thua thiệt lớn hơn, biểu diễn bằng hình chữ nhật
CBEF. Sở dĩ như vậy vì số chênh lệch giữa chi phí trung bình ATC và chi phí
biên đổi trung bình là chi phí cố định trung bình. Đoạn BE chính là biểu thị
chi phí cố định trung bình tại mức sản lượng q * và hình chữ nhật CBEF biểu
thị tổng chi phí cố định của sản xuất. Khi DN không sản xuất một đầu ra nào
thì DN vẫn phải chịu mất phần chi phí cố định đã đầu tư CBEF.
Khi cả nhà sản xuất trong nước và nhà xuất khẩu đều bán phá giá dưới
chi phí trung bình do suy thoái của thị trường thì việc đánh thuế chống bán
phá giá đối với nhà xuất khẩu là không hợp lý. Trong trường hợp này, biện
pháp chống bán phá giá chỉ mang tính bảo hộ đơn thuần nhằm làm giảm tác
động bất lợi đối với công ty trong nước khi thị trường suy thoái.
Cơ cấu chi phí sản xuất của công ty sẽ quyết định điểm hòa vốn (giao
điểm G giữa đường MC và đường ATC) và điểm đóng cửa (giao điểm H giữa
đường MC và đường AVC). Công ty nào có chi phí cố định lớn hơn sẽ chấp
nhận bán ở mức giá thấp hơn nhằm cố gắng bù đắp chi phí cố định đã bỏ ra.
Do đó, nhà xuất khẩu có thể bán ở mức giá mà các công ty trong nước đã
đóng cửa, chỉ để bù đắp chi phí cố định đã bỏ ra.
Sự khác biệt về cơ cấu chi phí của các công ty trên thế giới có thể do
nhiều nguyên nhân. Ví dụ như việc các công ty của Mỹ thường đầu tư lớn vào
máy móc, thiết bị khiến cho tỷ lệ chi phí cố định của các công ty này trong
tổng chi phí thường cao hơn các nhà cạnh tranh khác ở nước ngoài. Do đó,
các công ty này sẽ dễ bị coi là bán phá giá trong thời gian cầu của thế giới
giảm. Hay như ở Nhật Bản, do tiền lương công nhân thường được coi là chi



phí cố định vì các công ty Nhật hiếm khi sa thải công nhân nên các công ty
này có thể sẽ tiếp tục sản xuất và xuất khẩu sang Mỹ ở mức giá mà công ty
Mỹ cho là quá thấp để duy trì hoạt động.
Nếu việc bán phá giá là do sự khác biệt về cơ cấu chi phí gây ra thì nước
nhập khẩu có thể định hướng nhà sản xuất trong nước thay đổi cơ cấu chi phí,
qua đó góp phần làm giảm gánh nặng thuế khoá cho người tiêu dùng do
không phải chịu thuế chống bán phá giá.
1.1.1.3. Cơ sở pháp lý của việc bán phá giá
- Tính pháp lý của đơn kiện: Một cuộc điều tra để quyết định xem có
thực sự tồn tại việc bán phá giá hay không cũng như xác định mức độ và ảnh
hưởng thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất đối với sản phẩm
tương tự sẽ được bắt đầu khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất
trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước. Đơn
yêu cầu hợp lệ phải thỏa mãn:
 Các nhà sản xuất nội địa ủng hộ kiện phải chiếm ít nhất 25% tổng sản

lượng của sản phẩm tương tự (trong trường hợp phần còn lại không
có kiến ủng hộ hoặc phản đối); và
 Trong trường hợp có cả ý kiến ủng hộ lẫn ý kiến phản đối kiện thì số

các nhà sản xuất nội địa phải chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của
sản phẩm tương tự được làm bởi các nhà sản xuất nội địa.
- Tính pháp lý của việc xác định hàng hóa nhập khẩu có bán phá giá hay
không và có gây thiệt hại vật chất hay đe dọa gây thiệt hai vật chất cho ngành
công nghiệp nội địa hay không?


+ Căn cứ vào biên độ bán phá giá: Theo quy định của EU thì biên độ bán
phá giá nếu vượt quá 2% của giá xuất khẩu thì sản phẩm bị xem xét là bán
phá giá.

Biên độ phá giá được xác định theo công thức:
BĐPG = (GTTT – GXK)
Biên độ phá giá có thể được tính theo giá trị tuyệt đối hoặc phần trăm
theo công thức:
BĐPG = (GTTT – GXK)/GXK
Việc tính toán biên độ phá giá được thực hiện theo một quy trình gồm 5
bước:
Bước 1: Xác định giá xuất khẩu
Bước 2: Xác định giá thông thường
Bước 3: Điều chỉnh GXK và GTTT về cùng một cấp độ thương mại
Bước 4: So sánh GXK với GTTT sau khi đã điều chỉnh để tìm ra biên độ
phá giá (tìm hệ số so sánh).
Bước 5: Tính biên độ phá giá (nếu tính theo phần trăm) bằng phần trăm
của hiệu số so sánh trên GXK.
Cách tính GTTT
Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
1 - SPTT không được bán ở nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại

thông thường; hoặc
2 - SPTT có bán ở nước xuất khẩu trong điều kiện đặc biệt; hoặc


3

- SPTT có lượng bán ra không đáng kể (< 5% số lượng SPTT bán ở nước
NK)

thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý

chung,…)
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do Chính Phủ ấn định hoặc
can thiệp nhiều) thì các quy tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT.
Cách tính GXK
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu
đầu tiên
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
1 - Giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ Công ty; hoặc
2 - Theo một thỏa thuận đền bù nào đó

thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người
mua độc lập ở nước nhập khẩu.
So sánh giá trị thông thường và giá xuất khẩu Giá xuất khẩu sẽ được
so sánh một cách công bằng với giá trị thông thường. Có ba cách so sánh giá
trị thông thường (GTTT) và giá xuất khẩu (GXK)
Cách 1: so sánh GTTT bình quân gia quyền với GXK bình quân gia
quyền của tất cả các giao dịch của từng nhà sản xuất, xuất khẩu.


Cách 2: so sánh GTTT và GXK của từng giao dịch (hoặc của các giao
dịch thực hiện trong cùng một ngày hoặc gần như trong cùng một ngày).
Cách 3: so sánh GTTT bình quân gia quyền với GXK của từng giao dịch
nếu cơ quan có thẩm quyền cho rằng có sự chênh lệch đáng kể về cơ cấu
GXK giữa những người mua hoặc thời điểm khách nhau và có giải thích
chính thức về việc tại sao việc sử dụng hai cách trên không tính đến các khách
biệt trên một cách hợp lý.
Khi so sánh GTTT và GXK cần đảm bảo một số các nguyên tắc sau:
 So sánh trong cùng cấp độ thương mại

 Hai loại giá này phải được xác định tại cùng thời điểm .
 Khi tiến hành so sánh cần phải tính đến những khác biệt (như điều
kiện bán hàng, thuế, dung lượng thương mại, khối lượng sản phẩm,
đặc tính vật lý,…) có thể ảnh hưởng đến việc so sánh về giá để có sự
điều chỉnh phù hợp;
 Nếu GTTT và GXK xác định theo hai loại đơn vị tiền tệ khác nhau
dẫn đến việc phải chuyển đổi để phục vụ cho việc so sánh thì tỷ giá
chuyển đổi là tỷ giá có hiệu lực tại thời điểm bán hàng.
Biên độ phá giá phải được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu
liên quan. Trên cơ sở biên độ phá giá, cơ quan có thẩm quyền của nước nhập
khẩu sẽ tính toán mức thuế chống phá giá (trong mọi trường hợp không được
cao hơn biên độ phá giá). Tuy nhiên, số lượng nhà sản xuất, xuất khẩu quá lớn
khiến cho việc tính toán biên độ phá giá đơn lẻ không thể thực hiện được thì
cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu có thể chỉ lựa chọn một số lượng
thích hợp các nhà sản xuất,


+ Căn cứ vào khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá hoặc gây tổn
hại thực tế hoặc gây tổn hại tiềm ẩn: khối lượng hàng nhập khẩu chiếm hơn
3% tổng nhập khẩu các sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu (hoặc trường
hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối
lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau
được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%) thì cũng được xem
xét là bán phá giá. Riêng EU thì quy định tổng các thiệt hại do việc bán phá
giá đem lại phải lớn hơn 25% giá trị của toàn ngành.
1.1.1.4. Tác động của bán phá giá
Tác động của hiện tượng bán phá giá được nhìn nhận cả góc độ tích cực
và tiêu cực bằng việc phân tích ảnh hưởng của nó đối với lợi ích của người
tiêu dùng, nhà sản xuất có liên quan và các doanh nghiệp kinh doanh sản
phẩm cạnh tranh nội địa.

Việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá có những ảnh hưởng đáng kể đến
người tiêu dùng của nước nhập khẩu cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong
ngắn hạn, việc bán phá giá đã tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng vì họ có
cơ hội mua được hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Với tâm lý có lợi, người tiêu
dùng luôn có xu hướng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu sử dụng ở
mức giá thấp nhất có thể. Sự xuất hiện của hàng hóa nhập khẩu phá giá trên
thị trường đã làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ. Phân tích thị
trường trong trạng thái tĩnh, dùng phương pháp nhân độ thỏa dụng của từng
cá nhân thành độ thỏa dụng của cả thị trường, có thể thấy, hiện tượng bán phá
giá có khả năng làm tăng thặng dư tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Với nguyên
tắc, trong kinh tế thị trường, lượng hàng hóa người ta mua phụ thuộc vào giá
cả của nó [55, tr 102], hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu có thể
là động lực kích thích tiêu dùng. Theo đó, bằng việc tối đa hóa độ thỏa dụng


cho người tiêu dùng, hàng hóa nhập khẩu phá giá tác động đến nhu cầu của
người tiêu dùng qua hiệu ứng thu nhập. Trong giáo trình Kinh tế học tập 1,
hai nhà kinh tế học Paul A Samuelson - Wiliam D. Nordhalls khẳng định rằng
hiệu ứng thu nhập phản ánh tác động của sự thay đổi giá cả đến lượng cầu
của hàng hóa bằng cách làm tăng hoặc giảm thu nhập thực tế của người tiêu
dùng [55, tr 178]. Một khi giá của hàng hóa có xu hướng giảm, sẽ làm tăng
hiệu ứng thu nhập của người tiêu dùng, từ đó tăng lượng tiêu thụ hàng hóa.
Ngoài ra, việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu còn làm tăng mức độ cạnh
tranh trên thị trường. Việc hàng hóa nhập khẩu phá giá với giá bán rẻ hơn so
với hàng hóa nội địa đã tạo ra sức ép cho ngành sản xuất nội địa trong việc
tìm phương cách nâng cao khả năng cạnh tranh theo nguyên tắc giá cả là tín
hiệu đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu có
giá rẻ hơn, hàng hóa nội địa trở thành mặt hàng có giá cao tương đối. Với sự
tác động của hiệu ứng thay thế, người tiêu dùng có xu hướng dùng hàng hóa
nhập khẩu với giá rẻ hơn để thỏa mãn nhu cầu của mình và đẩy các doanh

nghiệp nội địa vào tình trạng hoặc tìm cách giảm chi phí để tăng khả năng
cạnh tranh về giá, hoặc mất khách hàng. Mức cạnh tranh tăng sẽ có tác dụng
làm giảm sức ỳ của các doanh nghiệp nội địa, làm giảm khả năng bóc lột
khách hàng của các doanh nghiệp nội địa với giả thiết rằng trước khi có hiện
tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu, các doanh nghiệp này đang có vị
trí độc quyền.
Trong dài hạn, quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị xâm hại nếu
doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá hàng hóa để thực hiện chiến lược chiến
đoạt thị trường bằng cách định giá hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Mặc
dù bán phá giá đem lại lợi ích cho người tiêu dùng ở hiện tại, song khi đã
chiếm đoạt được thị trường nhập khẩu, giá của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng
vọt trong tương lai để các doanh nghiệp lấy lại những gì đã mất từ việc phá


giá. Người tiêu dùng lại trở thành nạn nhân của mức giá độc quyền do các
doanh nghiệp nước ngoài ấn định. Sự suy đoán về khả năng giá tăng trong
tương lai hoặc sản lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm để chi phối cung cầu là
một trong những căn cứ để kết luận về bản chất hạn chế cạnh tranh của hành
vi bán phá giá có mục đích cướp đoạt thị trường [60, tr 59 - 60].
Tác động của bán phá giá đối với các doanh nghiệp có liên quan tại
nước nhập khẩu.
Các doanh nghiệp có liên quan được xác định là những doanh nghiệp của
nước nhập khẩu hoạt động ở ngành sản xuất khác có sử dụng hàng hóa nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, các DN
nói trên có được nguồn nguyên liệu rẻ để sản xuất, kinh doanh, từ đó góp
phần thúc đẩy tăng trưởng cho ngành sản xuất mà họ hoạt động.
Tác động của bán phá giá đến ngành sản xuất nội địa kinh doanh sản
phẩm cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu (gọi tắt là ngành sản xuất nội địa
hoặc doanh nghiệp sản xuất nội địa). Tác động tiêu cực của bán phá giá hàng
hóa nhập khẩu chủ yếu được chứng minh bằng những thiệt hại mà ngành sản

xuất nội địa phải gánh chịu. Các doanh nghiệp sản xuất nội địa và người lao
động trong các doanh nghiệp này là nạn nhân thực tế và trực tiếp của việc
hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Nếu mức phá giá làm giá cạnh tranh của sản
phẩm nhập khẩu thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa, doanh nghiệp
nội địa sẽ bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh không lối thoát, hoặc chịu lỗ để
chạy đua theo mức giá phá giá, hoặc mất khách hàng. Trong trường hợp mức
phá giá làm giá cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán hiện tại
nhưng không thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa thì thiệt hại mà
ngành sản xuất nội địa phải chịu là sự suy giảm lợi nhuận, suy giảm lợi tức


đầu tư…. Tuy nhiên, trong trường hợp này có hai khả năng trái ngược nhau
xảy ra:
Thứ nhất, việc suy giảm lợi nhuận của ngành sản xuất nội địa là cần thiết
cho lợi ích chung của thị trường nước nhập khẩu do các doanh nghiệp nội địa
đang chi phối thị trường. Hàng hóa nội địa đang được bán với mức giá độc
quyền nên việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu có thể giải phóng khách
hàng khỏi tình trạng bị bóc lột cho dù gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội
địa.
Thứ hai, sự suy giảm lợi nhuận làm giảm tính hấp dẫn về đầu tư của thị
trường nội địa. Khi mức phá giá đẩy mặt bằng giá hàng hóa cạnh tranh với
hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nhập khẩu xuống gần bằng chi phi phí
bình quân (giá thành của hàng hóa) sẽ làm giảm khả năng có lợi nhuận xuống
mức tối thiểu. Đương nhiên, sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư vào ngành sản
xuất nội địa sẽ giảm cho dù việc bán phá giá không đủ để loại bỏ các doanh
nghiệp đang hoạt động.
Như vậy, việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vừa có những tác
động tích cực, vừa có tác động tiêu cực cho thị trường của nước nhập khẩu.
Vì thế, khi tiến hành xử lý hành vi phá giá, Nhà nước bị đặt vào tình trạng
phải giải quyết xung đột giữa quyền lợi của người tiêu dùng đang được thụ

hưởng (hiện tại đang mua được hàng hoá giá rẻ) và lợi ích của nhà sản xuất
trong nước (phải hạ giá thành để có thể cạnh tranh với hàng hoá đang phá
giá, và việc mất dần thị phần của họ). Vấn đề là Nhà nước phải lựa chọn lợi
ích cơ bản cần được bảo vệ. Đôi khi, trong các vụ việc chống bán phá giá, các
lực lượng thị trường với lợi ích đối lập luôn đấu tranh với nhau và tạo ra
những áp lực không nhỏ để buộc cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết
sách phù hợp với lợi ích của họ.


1.1.2. Chống bán phá giá
1.1.2.1. Quan niệm về chống bán phá giá
Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên Hiệp hội các quốc gia (League of
Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ
chức GATT (General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về
thuế quan và thương mại), các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt
dưới sự chi phối của pháp luật quốc tế. Lúc ấy, đề tài này chưa được chú ý
nhiều, chỉ đến khi thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở
nên ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng ngày càng đông đảo
hơn, thì chống bán phá giá mới trở thành một mối quan tâm thật sự. Năm
1967, một số quy định về chống bán phá giá tại GATT được chuẩn hoá trong
Hiệp định về thi hành điều VI của GATT (Agreement on the Implementation
of Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá. Hiệp định
này không chỉ quy định về chống phá giá, mà còn qui định các biện pháp
chống tài trợ đối với hàng nhập khẩu đã được tài trợ tại nơi sản xuất. Thời
gian sau đó, Hiệp định về chống bán giá được bổ sung thêm nhiều nội dung
quan trọng.
Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định
chống bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của
WTO. Các quy định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý giúp các nước bảo hộ
quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra hiện tượng

bán phá giá. Năm 1995, WTO đã thành lập Uỷ ban về chống bán phá giá để
giám sát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước
thành viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán phá giá có khả năng ảnh
hưởng đến sản xuất trong nước, các ngành đó đề nghị những cơ quan hữu
trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận về việc có thực hiện hay không


thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định các biện pháp chống
bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp
ứng được 4 điều kiện sau:
Sản phẩm đang bán phá giá: Sản phẩm của nước xuất khẩu đang được
bán ở thị trường của nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn giá bán thông
thường của sản phẩm đó ở trên thị trường nước xuất khẩu.
Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe doạ
gây ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản xuất các sản phẩm tương tự
với sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình thành lập
của một ngành công nghiệp trong nước.
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất
(hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây
ra. Cơ quan điều tra không được áp đặt cho hàng nhập khẩu những gì do các
yếu tố khác gây ra.
Tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng
đồng rộng lớn.
1.1.2.2. Thuế chống bán phá giá
Thuế chống phá giá được ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20, trước
hết tại Canada (1904), sau đó đến New Zealand (1905), Australia (1906), Mỹ
(1914). Thuế chống bán phá giá là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập
khẩu, khi một doanh nghiệp sản xuất bị nhận định là đã bán phá giá. Về bản
chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung đánh vào hàng nhập khẩu,

nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm đó
(điều VI.2 của Hiệp định GATT). Mục tiêu chính của thuế chống bán phá giá
là nhằm vô hiệu hóa việc bán phá giá, bù đắp những tổn thất do bán phá giá


và cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho các doanh nghiệp của nước nhập
khẩu hàng bán phá giá.
1.2. Cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá
1.2.1. Thế nào là cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá
Hiện tại, việc cảnh báo chống bán phá giá trong nước có hai cách hiểu.
Một là dựa vào quốc gia nhập khẩu đối với bên đề xuất chống bán phá giá,
gọi là “cảnh báo chống bán phá giá” trái ngược với những quốc gia khác liên
quan đến cảnh báo chống phá giá của họ. Cách hiểu thứ hai là bên nhận cáo
buộc của nước xuất khẩu sẽ là cảnh báo chống bán phá giá, còn các nước
khác tự cảnh báo chống bán phá giá của riêng họ. Cả hai cách hiểu đều có
phần chính có thể giống nhau, nhưng vai trò lại khác nhau. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài đứng về quan điểm là nước xuất khẩu chịu phán quyết.
Các cảnh báo chống bán phá giá liên quan đến điều kiện khả năng của nước
xuất khẩu trong việc ứng dụng các quy tắc xuất khẩu WTO cũng như hệ
thống pháp luật và quy định liên quan của quốc gia đó, dựa trên việc sử dụng
các nguyên tắc kinh tế, phương pháp nghiên cứu và công nghệ thông tin,
thông qua việc thu thập dữ liệu hải quan, chính phủ hoặc những nhà dự báo
tình hình phát triển của những tổ chức thương mại, theo dấu các hình thức
bảo đảm công bằng thương mại khác nhau ở những nước có thông tin tiềm
năng, đến chính quyền quốc gia, doanh nghiệp, các cơ quan thương mại và
dịch vụ cung cấp các dịch vụ cảnh báo sớm chuyên nghiệp, bao gồm cả sản
xuất công nghiệp nội địa và bán hàng, thay đổi năng suất, tiến bộ công nghệ,
thay đổi trong sản xuất và hoạt động của thông tin doanh nghiệp sản xuất,
thông tin giá cả thị trường trong nước. Sản phẩm của họ được xuất khẩu sang
các nước theo xu hướng khối lượng và giá, biên độ bán phá giá sản phẩm,

mức độ thiệt hại công nghiệp, thông qua tổng kim ngạch xuất khẩu các sản
phẩm trong nước để tiến hành giám sát, phát hiện và ngăn chặn kịp thờiviệc


cạnh tranh xuất khẩu thiếu công bằng, để tránh các cáo buộc chống bán phá
giá từ nước ngoài.
Dựa trên phân tích trên, dễ thấy rằng cốt lõi của các cảnh báo chống bán
phá giá là áp dụng yếu tố trọng điểm, những sản phẩm nhạy cảm, khối lượng
xuất khẩu, giá cả và tình trạng hoạt động của những sản phẩm tương tự của
nước ngoài cũng như những thông số quan trọng khác để giám sát và đánh
giá chính xác các tác động của ngành công nghiệp của nhà nhập khẩu.
Như vậy, cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đang được áp
dụng ở Việt Nam là việc thu thập, theo dõi, tổng hợp và phân tích các thông
tin liên quan đến các vụ kiện bán phá giá các mặt hàng của các thị trường, từ
đó đưa ra các tín hiệu cảnh báo kịp thời các nguy cơ bị kiện bán phá giá có
thể xảy ra với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nhằm ngăn chặn và
hạn chế tối đa những tác động bất lợi cho các doanh nghiệp.
Trong khái niệm có một thuật ngữ cần phải làm rõ, đó là thế nào là
“sớm” và bao lâu thì được gọi là “sớm”. Thuật ngữ “sớm” là khái niệm chỉ
khoảng thời gian mà hệ thống cảnh báo phát ra tín hiệu cảnh báo trước khi bắt
đầu một vụ kiện chống bán phá giá. Hiện nay hệ thống cảnh báo sớm của Việt
Nam cho phép cảnh báo sớm trong khoảng thời gian từ 12 tháng đến 3 năm.
1.2.2. Những nghiên cứu về lý thuyết của hệ thống cảnh báo sớm chống
bán phá giá ở nước ngoài
Hiện nay tồn tại một lượng tài liệu đồ sộ, cả mang tính lý thuyết và dựa
trên kinh nghiệm, nhằm nâng cao tính hiệu quả (và sự kết quả) của điều tra
chống bán phá giá lên các mô hình thương mại cho các nước nhập khẩu, liên
quan nhiều tới kiểm tra cho các tác động của chuyển hướng thương mại như:
Staiger và Wolack (1994), Prusa (1997), Vandenbussche et al (1999),
Malhotra và Rus (2008) và Prusa (2001)…



×