Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty cổ phần hồng hà dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 114 trang )

1

LỜI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu quan
trọng và phức tạp nhất trong toàn bộ công tác kế toán của mỗi doanh nghiệp.
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phản ánh và giám đốc
toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn là tấm gương phản
chiếu toàn bộ bộ máy tổ chức, trình độ quản lý và công nghệ mà một doanh
nghiệp đã và đang tiến hành trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, bên cạnh
nhiều ngành sản xuất vật chất quan trọng khác thì ngành xây dựng là một
ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Sản
phẩm xây lắp là cơ sở hạ tầng, là huyết mạch của nền kinh tế, là điều kiện tiền
đề để phát triển các ngành kinh tế khác và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên
hàng năm tổng mức đầu tư xây dựng công trình của ngành sản xuất xây lắp
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách Nhà Nước. Để sản xuất ra sản
phẩm xây lắp thì ngành xây dựng cũng phải hao phí các chi phí và kết tinh
trong sản phẩm. Thực tế tại các doanh nghiệp xây lắp hiện nay, việc quản lý
chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn nhiều điểm bất cập cần phải
khắc phục như công tác quản lý chi phí còn yếu kém, giá thành của sản phẩm
xây lắp chưa phản ánh đúng với thực tế phát sinh. Vì vậy, việc hạch toán các
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp một cách chính xác, đầy đủ,
kịp thời là một yêu cầu xuyên suốt trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh
của các đơn vị xây lắp. Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế, đạt được
mục tiêu tiết kiệm và tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra lợi
ích cho xã hội, tôi đã chọn đề tài: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần Hồng Hà Dầu Khí.



2

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu thực trạng hạch toán chi phí, giá thành sản phẩm
xây lắp tại Công ty CP Hồng Hà Dầu Khí từ đó rút ra nhận xét và đề xuất
những biện pháp giúp Công ty nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh xây
lắp nói chung đưa báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đáng tin cậy cho
các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp cũng như tăng cường
thông tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp kinh doanh trong việc đưa ra
quyết định kinh doanh để mang lại hiệu quả cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm, thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại các doanh nghiệp thuộc Công Ty
CP Hồng Hà Dầu khí
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp thuộc Công Ty CP
Hồng Hà Dầu khí
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Các phương pháp toán học, phương pháp thống kê học, phương pháp phân
tích kinh tế, phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp trình bày kết hợp
giữa diễn giải và quy nạp, đồng thời luận văn kết hợp lý luận khoa học
chuyên ngành kế toán- kiểm toán để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về kế toán chi phí xây lắp và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí đồng thời nêu rõ những tồn
tại cơ bản cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới trên phương diện kế toán
tài chính và kế toán quản trị.



3

- Căn cứ vào lý luận và kết quả khảo sát thực tiễn, luận văn đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí, doanh thu và xác
định kết quả kinh doanh xây lắp tại Công Ty CP Hồng Hà Dầu khí.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những lý luận cơ bản về Hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty CP Hồng hà Dầu khí


4

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Đặc điểm hoạt động xây lắp ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Hoạt động sản xuất xây lắp có những điểm riêng mang tính đặc thù do
vậy phương pháp và cách thức tổ chức quản lý nói chung và công tác hạch
toán nói riêng. Những đặc điểm cơ bản có thể kể đến là:
Thứ nhất, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc rõ rệt, mỗi sản phẩm là
một công trình hay hạng mục công trình được xây lắp theo thiết kế kỹ thuật,
mỹ thuật kết cấu, hình thức, phương thi công, địa điểm thi công, địa điểm thi

công xây dựng khác nhau, riêng biệt theo từng hợp giao nhận thầu xây lắp của
bên giao thầu, đặc biệt sản phẩm được sản xuất ngay tại nơi tiêu thụ. Do vậy,
việc tổ chức quản lý và tổ chức kế toán quản trị nhiều, nhất thiết phải có các
dự toán thiết kế thi công. Điều này giúp cho các doanh nghiệp xây lắp có thể
giám sát các chi phí phát sinh đối với từng công trình và tổ chức kế toán quản
trị tương đối chính xác về giá trị công trình.
Mặt khác, do mỗi sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ và
được sản xuất theo các hợp đồng giao nhận thầu xây lắp nên chi phí bỏ vào
sản xuất thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công trình, ở các địa
điểm khác nhau với điều kiện thi công khác nhau thì chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm của công trình cũng khác nhau(vì đơn giá vật liệu, nhân công
ở các địa phương khác nhau là khác nhau). Vì vậy kế toán phải tính chi phí,
giá thành và kết quả thi công cho từng công trình xây lắp riêng biệt. Một điều
đặc biệt nữa là do sản xuất xây lắp được thực hiện theo các hợp đồng giao
nhận thầu xây dựng nên ít phát sinh chi phí trong quá trình lưu thông, tiêu thụ.


5

Thứ hai, sản phẩm xây lắp chỉ được tiến hành sản xuất sau khi có đơn
đặt hàng (hợp đồng giao thầu) của chủ đầu tư (người giao thầu, người mua
sản phẩm). Nói khác là sản phẩm xây lắp thường được sản xuất theo hợp đồng
đã được đăng ký kết do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp thường
không thể hiện rõ nét. Sản phẩm được bán theo giá dự toán hay giá thoả thuận
với người giao thầu từ trước. Hầu hết các sản phẩm hoàn thành được nghiệm
thu và bàn giao không qua nhập kho. Bên cạnh đó, tình hình và điều kiện sản
xuất xây lắp thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai
đoạn xây dựng. cụ thể là trong xây dựng, con người và công cụ lao động luôn
phải di chuyển từ công trình này sang công trình khác, còn sản phẩm xây lắp
(công trình xây dựng) thì hoàn thành đứng yên một chỗ, một đặc điểm ngược

lại và hiếm thấy đối với các ngành sản xuất khác. Phương án xây dựng về mặt
kỹ thuật và tổ chức sản xuất luôn phải thay đổi theo từng địa điểm và giai
đoạn xây dựng. Đặc điểm này gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó
cải thiện điều kiện làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng
sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất như: Chi phi điều động nhân
công, máy móc thi công, chi phí chuẩn bị mặt bằng và dọn mặt bằng tập kết
vật liệu và máy thi công...đòi hỏi kế toán phải phản ánh chính xác chi phí này
và phân bố chi phí cho hợp lý.
Thư ba, sản phẩm xây lắp có giá trị lớn vượt quá số vốn lưu động của
doanh nghiệp xây lắp. Hơn nữa thời gian thi công thường kéo dài, trong thời
gian thi công xây dựng doanh nghiệp chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng
lại sử dụng rất nhiều nguồn lực điều này làm cho vốn đầu tư xây dựng công
trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp xây lắp phải lựa chọn phương án thi công hợp lý,
kiểm tra chất lượng chặt chẽ, phải có quy ước thanh toán chia thành nhiều giai


6

đoạn theo giai đoạn thi công, dự trữ vốn phù hợp, theo dõi sát chi phí phát
sinh trong quá trình thi công tránh thất thoát, lãng phí.
Mặt khác, do thời gian thi công trình thường kéo dài nên kỳ tính giá
thành không phải hàng tháng như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp mà
thường tuỳ vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình được thể hiện qua
phương pháp lập dự toán và phương thức thanh toán giữa bên giao thầu và
bên nhận thầu. Cũng như chu kỳ sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài nên đối
tượng tính giá thành có thể là toàn bộ công trình xây lắp hoàn thành hay đến
điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Sản phẩm xây lắp có thể có kết cấu phức tạp nên
giá trị sản phẩm xây lắp đòi hỏi tính toán tỉ mỉ. Việc xác định đúng đối tượng
tính giá thành và kỳ tính giá thành sẽ đáp ứng yêu cầu quản lý kịp thời và chặt

chẽ chi phí sản xuất, đánh giá đúng đắn tình hình quản lý thi công trong từng
thời kỳ nhất định.
Thứ tư, hoạt động xây lắp thường tiến hành ngoài trời, chịu tác động trực
tiếp của môi trường, khí hậu, thời tiết. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
xây lắp trong cả năm gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi
vật tư dự trữ nhiều hơn. Đặc điểm này yêu cầu các doanh nghiệp xây lắp
trong quá trình thi công phải tổ chức phân phối, điều hoà, cắt cử lực lượng lao
động, vật tư hợp lý đảm bảo thi công nhanh, gọn, hiệu quả. Hơn thế nữa,
trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, có thể có nhiều rủi ro bất ngờ như
bão lụt làm phát sinh các khoản thiết hại phải làm lại, thiệt hại do ngừng sản
xuất. Những khoản thiệt hại này đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp phải theo
dõi riêng. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao
cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán: Các nhà thầu
phải có trách nhiệm bảo hành công trình, khi hết hạn bảo hành công trình mới
trả lại cho đơn vi xây lắp


7

*Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán
trong đơn vị xây lắp :
Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai
đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công
trinh… từ đó xác định phương pháp hạch toán chi phí thích hợp.
Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các
giai đoạn công việc đã hoàn thành, khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng
đã hoàn thành…từ đó xác định phương pháp tính giá thành thích hợp: Phương
pháp tín gia trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp hệ số,
hoặc tỷ lệ.
Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong XDCB dự

toán được lập theo từng hạng mục chi phí. Để có thể so sánh kiểm tra chi phí
sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán, chi phí sản xuất xây lắp được
phân loại theo nguyên, vật liệu trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí
sản xuất chung.
1.2. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.1. Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất xây lắp.
 Khái niệm về chi phí sản xuất xây lắp
Chi phí xây lắp biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động
sống, lao động vật hóa và các chi phí khác mà doanh nghiệp xây lắp đã chi ra
để tiến hành hoạt động xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Có thể nói về bản
chất của chi phí sản xuất kinh doanh trong hoạt động xây lắp hay chi phí của
hợp đồng xây dựng là chi phí phát sinh trong khâu sản xuất và cấu thành nên
giá thành sản phẩm xây lắp do doanh nghiệp xây lắp thực hiện. Việc xác định
đúng, đủ chi phí của hoạt động xây lắp cụ thể là chi phí của từng công trình,
hạng mục công trình gắn liền với từng hợp đồng xây dựng là rất quan trọng.


8

Đây là một nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp xây lắp.
 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp
Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất như: phân loại chi phí sản xuất
theo tính chất kinh tế, nội dung kinh tế của chi phí; phân loại chi phí theo mục
đích, công dụng của chi phí; phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí
sản xuất và đối tượng tập hợp chi phí; phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp; phân loại chi phí
sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động,…
Trong hoạt động xây lắp, theo cơ cấu dự toán hiện nay chi phí sản xuất
thường được phân loại theo mục đích, công dụng của chi phí, bao gồm:

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Trong hoạt động xây lắp là những
chi phí vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công
trình, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp
hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như:
Vật liệu xây dựng: cát, đá, sỏi, sắt, thép, xi măng...
Vật liệu khác: bột màu, đinh, dây,...
Nhiên liệu: than củi dùng để nấu nhựa rải đường...
Vật kết cấu: bê tông đúc sẵn...
Thiết bị gắn liền với vật kiến trúc như: thiết bị vệ sinh, thông gió, ánh sáng.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, tiền công phải trả
cho số ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng xây
lắp, công nhân phục vụ xây lắp, kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu
trong phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện
trường thi công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay thuê ngoài.
Chi phí sử dụng máy thi công: Máy thi công là loại xe máy chạy bằng
động lực (điện, xăng dầu, khí nén,....) được sử dụng trực tiếp để thi công xây


9

lắp các công trình như: máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi,
máy đóng cọc, ô tô vận chuyển đất đá ở công trường . Các loại phương tiện
thi công này doanh nghiệp có thể tự trang bị hoặc thuê ngoài. Chi phí sử dụng
máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân công và các chi phí khác
có liên quan đến sử dụng máy thi công và được chia thành hai loại: Chi phí
thường xuyên là những chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng máy thi
công, được tính thẳng toàn bộ vào giá thành ca máy như tiền lương của công
nhân trực tiếp điều khiển hay phục vụ xe máy, chi phí về nhiên liệu, vật liệu
dùng cho xe máy thi công, khấu hao và sửa chữa thường xuyên xe máy thi
công, tiền thuê xe máy thi công, và chi phí tạm thời là những chi phí phải

phân bổ dần theo thời gian sử dụng máy thi công như: chi phí tháo lắp, vận
chuyển, chạy thử máy thi công khi di chuyển từ công trường này đến công
trường khác.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí có liên quan đến việc tổ chức,
phục vụ và quản lý thi công của đội xây lắp ở các công trường xây dựng. Chi
phí sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm các khoản chi phí khác nhau
thường có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây lắp như: tiền lương
nhân viên quản lý đội xây dựng; khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ được tính
theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp và
nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của DN); khấu hao TSCĐ dùng cho
hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội .
Cách phân loại chi phí sản xuất này xuất phát từ phương pháp lập dự
toán trong xây dựng cơ bản. Dự toán được lập theo từng hạng mục công trình
và lập theo từng khoản mục chi phí. Đây là căn cứ để so sánh, kiểm tra, phân
tích chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán.


10

1.2.2. Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
 Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên
quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền
thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp
đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu
vào mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục
đích chính của cơ chế thị trường là tái sản xuất mở rộng tức là giá tiêu thụ
hàng hóa sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải bảo đảm có lãi. Do đó, việc

quản lý, hạch toán giá thành sao cho vừa hợp lý, chính xác vừa bảo đảm vạch
ra phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm có vai trò vô cùng quan trọng.
 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Có rất nhiều cách phân loại giá thành sản phẩm. Tùy theo tiêu chí lựa
chọn mà giá thành sản phẩm có thể được phân loại thành các trường hợp sau:
- Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này thì chi phí được chia thành giá thành dự toán,
giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
+ Giá thành dự toán: là chỉ tiêu giá thành được xây dựng trên cơ sở
thiết kế kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước
quy định, tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích
định mức.
Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản phẩm xây lắp
theo công thức:

Giá thành dự toán
sản phẩm xây lắp
Trong đó :

=

Giá trị dự toán
sản phẩm xây lắp

-

Thu nhập chịu
thuế tính trước



11

 Thu nhập chịu thuế tính trước(lãi định mức trong XDCB) được Nhà
nước quy định trong từng thời kỳ.
 Giá trị dự toán xây lắp được xác định dựa vào định mức đánh giá của
các cơ quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả của thị trường.
+ Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi
bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức,
các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này được xác lập trên cơ sở giá
thành dự toán gắn liền với điều kiện cụ thể, năng lực thực tế của từng doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Giá thành kế hoạch

Giá thành dự toán Mức hạ giá
Chênh lệch
+
sản phẩm xây lắp
sản phẩm xây lắp thành dự toán
định mức
Giá thành kế hoạch là căn cứ để so sánh, phân tích tình hình thực hiện
=

kế hoạch giá thành, là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp
+ Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định
mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên,
khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình
quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định
mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời
điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù
hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực

hiện kế hoạch giá thành.
+ Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau
khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát
sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí,
xác định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ
đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.


12

- Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá
thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
+ Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát
sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng
sản xuất.Đối với các đơn vị xây lắp giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật
liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
+ Giá thành tiêu thụ: (hay còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản
ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm xây lắp hoàn thành. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức sau
đây:

Giá thành toàn
=
bộ của sản phẩm

Giá thành sản xuất
Chi phí quản lý
+

+
của sản phẩm
doanh nghiệp

Chi phí
bán hàng

Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả
kinh doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh
doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng
loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên
cứu.


13

1.2.3.Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
Để xác định được một các chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cần phân biệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
xây lắp.
Chi phí sản xuất xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp giống nhau về
chất nhưng khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất xây lắp là tổng chi phí phát
sinh trong một thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm xây lắp là tổng chi
phí sản xuất gắn liền với một khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành và bàn
giao. Chi phí sản xuất trong kỳ không những liên quan đến sản phẩm đã hoàn
thành mà còn liên quan đến cả chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ. Trong khi
đó giá thành sản phẩm xây lắp liên quan đến cả chi phí của khối lượng công
tác xây lắp kỳ trước chuyển sang nhưng không bao gồm chi phí thực tế của
khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ. Chi phí sản xuất xây lắp là tiền đề, là cơ

sở để tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Nghiên cứu mối quan hệ và sự khác biệt giữa chi phí sản xuất xây lắp
và giá thành sản phẩm xây lắp sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tập hợp chi phí
sản xuất và đặc biệt là tính giá thành một cách chính xác.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm hay nói
cách khác giá thành sản phẩm chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí
sản xuất xây lắp. Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự khác nhau thể hiện:
- Khi nói đến chi phí sản xuất là xem xét tới các hao phí trong một
thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm là xem xét các hao phí
liên quan đến sản phẩm đã hoàn thành.
- Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có sự khác nhau. Sự khác
nhau này thể hiện qua công thức tính giá thành sản phẩm tổng quát.


14

Chi phí

Tổng giá thành

sản xuất

sản phẩm hoàn
thành

=

dở dang


Chi phí sản

Chi phí

xuất dở

sản xuất phát
+

sinh trong kỳ

-

dang cuối

đầu kỳ
kỳ
Khi chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các
ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng
tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản là khối lượng sản phẩm đã hoàn
thành bàn giao theo từng hạng mục công trình hoặc theo từng công trình nên
giá thành được tính chỉ khi nào hạng mục công trình hoặc công trình được
hoàn thành có nghĩa là giá thành bao gồm chi phí sản xuất của kỳ này và có
thể cả chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang chứ không theo một thời
gian nhất định như chi phí.
1.3. Đối tượng và Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
1.3.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
Để xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất phải căn cứ
vào đặc điểm phát sinh chi phí, các yếu tố, tính chất sản xuất như đặc điểm

quy trình công nghệ sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, loại hình sản xuất,
yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ
và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi
công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất là công trình, hạng mục công trình hoặc có
thể là bộ phận thi công, từng giai đoạn công việc hay từng đơn đặt hàng
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính
xác, đòi hỏi công việc đầu tiên mà người làm kế toán phải làm là xác định đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm.


15

Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ
và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi
công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất là công trình, hạng mục công trình hoặc có
thể là bộ phận thi công, từng giai đoạn công việc hay từng đơn đặt hàng.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là đối tượng để tập hợp chi phí
sản xuất, là phạm vi giới hạn nhất định mà các chi phí sản xuất xây lắp cần
được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính
giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thực
chất là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Đối với doanh
nghiệp xây lắp, đối tượng kế toán chi phí sản xuất là nơi phát sinh chi phí và
nơi chịu chi phí chính là công trình, hạng mục công trình.
Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp theo đúng đối tượng có tác dụng
phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất phục vụ cho công tác
tính giá thành sản phẩm được kịp thời.
1.3.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất xây lắp

Cơ sở xuất phát từ đối tượng hạch toán chi phí để xác định phương
pháp hạch toán chi phí cho thích hợp.
Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai
đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công
trình…
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ
thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản
xuất theo đối tượng hạch toán chi phí.


16

Bao gồm:
Phương pháp phân bổ trực tiếp:
Áp dụng trong trường hợp các chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp đòi
hỏi phải tổ chức việc ghi chép ban đầu(chứng từ gốc) theo từng đối tượng,
trên cơ sở đó, kế toán tập hợp số liệu từ các chứng từ gốc theo từng đối tượng
liên quan và ghi trực tiếp vào các tài khoản cấp 1, cấp 2 hoặc các chi phí theo
đúng đối tượng. Phương pháp phân bổ trực tiếp bảo đảm việc tập hợp chi phí
sản xuất theo đúng đối tượng chi phí với mức độ chính xác cao
Phương pháp phân bổ gián tiếp:
Áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có liên quan với
nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất mà không thể tổ chức việc ghi chép
ban đầu riêng rẽ theo từng đối tượng được. Phương pháp này đòi hỏi phải ghi
chép ban đầu các chi phí sản xuất có liên quan tới nhiều đối tượng theo từng
địa điểm phát sinh chi phí, trên cơ sở đó tập hợp các chứng từ kế toán. Sau đó
chọn tiêu chuẩn phân bổ để tính toán phân bổ chi phí sản xuất đã tập hợp cho
các đối tượng có liên quan.
Trong các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu dùng các phương pháp tập hợp
chi phí sau:

- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục
công trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào
thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản
xuất phát sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ
cho đơn đặt hàng đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh
theo đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế
của đơn đặt hàng đó.


17

- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công:
phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực
hiện khoán. Đối tượng hạch toán chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như
tổ, đội sản xuất hay các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được
tập hợp theo từng đối tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, mỗi đối tượng có thể áp dụng một hoặc một
số phương pháp hạch toán trên. Nhưng trên thực tế có một số yếu tố chi phí
phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải tiến hành phân bổ các
khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý cho từng đối tượng.
Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế
toán mở thẻ (sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác
định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng
tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng
với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này
biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí
Do đặc thù của ngành xây dựng nên các đơn vị sản xuất xây lắp sử
dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công
trình hoặc theo đơn đặt hàng và sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên

để hạch toán hàng tồn kho.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản
ánh thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn vật tư trên sổ
kế toán.
1.3.3 Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp
1.3.3.1.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên vật
liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định một
cách tách biệt rõ ràng cụ thể cho từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực


18

tiếp bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc
các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành nên thực thể sản
phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu được tính theo giá thực tế khi xuất
dùng bao gồm cả chi phí thu mua, vận chuyển từ nơi mua về nơi nhập kho
hoặc xuất thẳng đến chân công trình.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá vốn
hàng bán, thường từ 60-70%. Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công
trình nào thì phải được tính trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó
dựa trên cơ sở chứng từ gốc theo giá thực tế của vật liệu và số lượng thực tế
vật liệu đã sử dụng. Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến
hành kiểm kê số vật liệu còn lại tại công trình để giảm trừ chi phí vật liệu đã
tính cho từng hạng mục công trình, công trình. Trường hợp vật liệu xuất dùng
có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức kế toán
riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho
các đối tượng liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ
theo định mức tiêu hao theo hệ số, trọng lượng, số lượng sản phẩm...
Công thức phân bổ như sau:


*Chứng từ sử dụng:
- Hoá đơn bán hàng, hóa đơn giá trị gia tăng
- Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho.
- Giấy đề nghị tạm ứng, phiếu chi.
- Hợp đồng mua bán....


19

Vật liệu mua về có thể nhập kho hoặc có thể xuất thẳng cho công trình.
Trường hợp các đơn vị thi công tự đi mua vật tư thì chứng từ gốc là hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho của người bán. Phiếu xuất kho và chứng từ liên quan như
hoá đơn vận chuyển tạo thành bộ chứng từ được chuyển về phòng kế toán làm
số liệu hạch toán. Dựa trên hợp đồng, hóa đơn sẽ làm giấy đề nghị tạm ứng
tiền chi trả cho nhà cung cấp.
*TK sử dụng: Tài khoản 621 dùng để tập hợp chi phí nguyên vật liệu
dùng cho sản xuất phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kết cấu TK 621 như sau:
Bên Nợ: Trị giá gốc thực tế của nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho
sản xuất sản phẩm xây lắp.
Bên Có: Trị giá nguyên liệu vật liệu sử dụng không hết nhập kho, Kết
chuyển chi phí NVL vào TK 154- Chi phí SXKD dở dang
TK 621 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho
từng công trình, hạng mục công trình.
* Phương pháp kế toán được khái quát qua sơ đồ Hạch toán nguyên vật
liệu trực tiếp (Phụ lục 1.01)
1.3.3.2.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho người
lao động trực tiếp tham gia công tác thi công xây dựng công trình, hạng mục

công trình. Chi phí nhân công trực tiếp thuộc hoạt động sản xuất xây lắp bao
gồm các khoản phải trả cho người lao động thuộc quyền quản lý của doanh
nghiệp và các khoản phải trả cho lao động thuê ngoài theo từng loại công
việc. Chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá vốn hàng
bán, từ 15-20%
Chi phí nhân công trực tiếp được trả lương theo các hình thức sau: trả lương
theo thời gian, trả lương theo sản phẩm, trả lương theo khối lượng công việc.


20

Chi phí nhân công trực tiếp nếu tính theo từng loại công việc hoặc tiền
lương trả theo thời gian nhưng có liên hệ trực tiếp với từng loại đối tượng tập
hợp chi phí cụ thể thì dùng phương pháp tập hợp trực tiếp. Đối với chi phí
nhân công trực tiếp sản xuất trả theo thời gian có liên quan tới nhiều đối
tượng và không hạch toán trực tiếp được và các khoản tiền lương phụ của
công nhân sản xuất xây lắp thì phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp. Tiêu
chuẩn được dùng để phân bổ hợp lý là phân bổ theo giờ công định mức hoặc
theo tiền lương định mức, hay phân bổ theo giờ công thực tế.
*Chứng từ sử dụng:
- Bảng chấm công hoặc theo dõi công tác của các tổ
- Phiếu làm thêm giờ
- Hợp đồng giao khoán
- Bảng tính lương
- Bảng thanh toán lương và BHXH cho người lao động
*Tài khoản sử dụng: TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản
phẩm xây lắp bao gồm tiền lương, tiền thuê lao động, không có các khoản
trích trên lương về BHXH, BHYT, KPCĐ.
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên nợ TK 154Chi phí SXKD dở dang

TK 622 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho
từng công trình, hạng mục công trình.
*Phương pháp kế toán được thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí nhân
công trực tiếp (Phụ lục 1.02)


21

1.3.3.3.Hạch toán chi phí máy thi công
Chi phí sử dụng máy thi công phản ánh các chi phí liên quan trực tiếp
đến việc sử dụng máy thi công (Vật liệu, nhân công, khấu hao máy) nhằm
thực hiện khối lượng công tác xây lắp bằng máy, chiếm từ 5-10% giá vốn
hàng bán.
Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử
dụng máy thi công: doanh nghiệp thuê ngoài máy thi công hoặc doanh nghiệp
sử dụng máy thi công trong trường hợp các doanh nghiệp có tổ chức đội máy
thi công riêng.
*Chứng từ sử dụng:
- Phiếu theo dõi hoạt động xe máy thi công
- Nhật ký theo dõi hoạt động xe máy thi công.
* Tài khoản sử dụng: TK 623: Chi phí sử dụng máy thi công
Bên nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí nghuyên liệu
cho máy thoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương, tiền công
của công nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi
công)
Bên có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên Nợ TK 154 –
Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
Tài khoản 623 không có số dư cuối kỳ
TK 623 có 6 TK cấp I
+ TK 6231 – Chi phí nhân công: Dùng để phản ánh lương chính, lương

phụ: phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiếp điều khiển xe, máy thi
công, công nhân phụ vụ máy thi công kể cả khoản tiền ăn giữa ca của các
công nhân này. TK này không phản ánh khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ
tính theo tỷ lệ trên tiền lương của công nhân sử dụng xe, máy thi công. Khoản
tính trích này được phản ánh vào TK 627: Chi phí sản xuất chung


22

+ TK 6232: Chi phí vật liệu: Dùng để phản ánh chi phí nhiên liệu như
xăng, dầu, mỡ..) vật liệu khác phục vụ xe máy thi công.
+ TK 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất: Dùng để phản ánh công cụ, dụng
cụ lao động liên quan tới hoạt động của xe, máy thi công
+ TK 6234: Chi phí khấu hao máy thi công: Dùng để phản ánh khấu
hao máy móc thi công sử dụng vào hoạt động xây lắp công trình
+ TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài: Dùng để phản ánh chi phí dịch
vụ mua ngoài như thuê ngoài sửa chữa xe, máy thi công, bảo hiểm xe, máy thi
công, chi phí điện, nước, tiền thuê TSCĐ, chi phí trả cho nhà thầu phụ…
+ TK 6238: Chi phí bằng tiền khác: Dùng để phản ánh các chi phí bằng
tiền phục vụ cho hoạt động của xe, máy thi công, khoản chi cho lao động
nữ…
* Phương pháp kế toán được thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí sử
dụng máy thi công ( Phụ lục 1.03, 1.04)
1.3.3.4. Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng cần
phải tổng hợp rồi cuối kỳ phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức thích hợp.
Chi phí sản xuất chung gồm lương nhân viên trông coi công trình, vật
liệu làm lán trại cho công nhân sinh hoạt, khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương
phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và

nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của doanh nghiệp), khấu hao tài sản cố
định dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác có liên quan
đến hoạt động của đội.
* Chứng từ sử dụng: là những chứng từ hợp pháp, hợp lệ phục vụ cho
sản xuất chung như hoá đơn bán hàng, bảng kê phải nộp BHXH, BHYT,
KPCĐ, tiền điện, tiền nước dụng riêng cho từng công trình


23

* Tài khoản sử dụng: Kế toán sử dụng TK 627: Chi phí sản xuất chung
Bên nợ: Các chi phí sản xuất cung phát sinh trong kỳ
Bên có:
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
- Kết chuyển chi phí sản xuất chung voà bên Nợ TK 154
TK 627 không có số dư cuối kỳ
TK 627 có 6 TK cấp 2
TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng
TK 6272: Chi phí vật liệu
TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất
TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ
TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
TK 6278: Chi phí bằng tiền khác
Phương pháp kế toán thể hiện qua sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
chung (Phụ lục 1.05)
1.3.3.5.Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp
Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp bao gồm những chi phí có liên quan
trực tiếp đến từng đối tượng và những chi phí không thể tập hợp trực tiếp theo
từng đối tượng thì phải tính phân bổ các chi phí này cho từng đối tượng theo
tiêu thức thích hợp. Trong ngành xây dựng cơ bản thường phân bổ chi phí sử

dụng máy thi công và phân bổ chi phí sản xuất chung.


24

Phân bổ chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí sử dụng máy thi công được phân bổ cho các đối tượng xây lắp
theo phương pháp thích hợp căn cứ vào số ca máy hoặc khối lượng phục vụ
thực tế
Phân bổ chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng công trường, hoặc đội
thi công hoặc toàn doanh nghiệp và tính phân bổ cho từng công trình, hạng
mục công trình theo phương pháp thích hợp như phân bổ theo chi phí sản xuất
chung định mức, phân bổ theo giờ công sản xuất kinh doanh định mức hoặc
thực tế, phân bổ theo chi phí nhân công, phân bổ theo chi phí trực tiếp (chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp)
Để tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp sử dụng TK 154 - Chi phí sản
xuất, kinh doanh dở dang
Kết cấu của TK 154
Bên nợ:
- Các chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ liên
quan đến giá thành sản phẩm xây lắp công trình
Bên có:
- Gía thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao
Số dư bên nợ:
- Chi phí sản xuất kinh doanh còn dở dang cuối kỳ
Phương pháp kế toán thể hiện qua sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí
sản xuất xây lắp (Phụ lục 1.06)



25

1.4. Đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm xây lắp hoàn
thành
1.4.1. Đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong
quy trình sản xuất, chế biến, đang nằm trên dây chuyền công nghệ hoặc đã
hoàn thành một vài quy trình chế biến nhưng vẫn phải gia công chế biến tiếp
mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh
Sản phẩm dở dang của các doanh nghiệp xây lắp có thể là công trình,
hạng mục công trình chưa hoàn thành khối lượng công tác xây lắp trong kỳ và
chưa được chủ đầu tư nghiệm thu chấp nhận thanh toán.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất
mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc đánh giá sản phẩm dở dang hợp
lý là yếu tố quan trọng quyết định tính trung thực, hợp lý của giá thành sản
phẩm sản xuất trong kỳ và từ đó xác định được chính xác lãi ròng của doanh
nghiệp cuối kỳ kinh doanh.
Muốn đánh giá sản phẩm dở dang một cách chính xác cần phải tiến
hành kiểm kê khối lượng nguyên nhiên vật liệu chưa sử dụng đến ở công
trường thi công. Bộ phận kế toán cần kết hợp chặt chẽ với cán bộ kỹ thuật tại
công trường thi công để xác định mức độ hoàn thành của khối lượng xây lắp
dở dang.
Việc đánh giá trị sản phẩm dở dang trong sản xuất xây lắp phụ thuộc vào
phương thức thanh toán, bàn giao khối lượng xây lắp giữa bên nhận thầu và
bên giao thầu
Các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang mà doanh nghiệp xây
lắp thường áp dụng là:
- Đánh giá theo chi phí thực tế phát sinh: áp dụng đối với các công
trình bàn giao thanh toán hoàn thành toàn bộ, tổng chi phí sản xuất từ khi khởi



×