Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Các Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Ngân Hàng Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÙY TRANG

CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÙY TRANG

CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS PHẠM CÔNG NGUYÊN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài “Các tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng theo pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu riêng
của tôi.
Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, kết quả nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Trần Thị Thùy Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG ......... 10
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng ......................................................................................................... 10
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các tội phạm trong lĩnh vực
ngân hàng ................................................................................................ 15
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG ................................................................................................ 24
2.1. Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam .......... 24
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng .................................................... 43
2.3. Nhận xét, đánh giá chung................................................................. 51
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HIỆU
QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI

PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG .............................................. 58
3.1. Dự báo .............................................................................................. 58
3.2. Giải pháp .......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bọ luật TTHS

BLDS

Bộ luật Dân sự

TNHS

Trách nhiệm Hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

CSKT

Cảnh sát kinh tế

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

TCTDQD

Tổ chức tín dụng quốc doanh

TCTDCP

Tổ chức tín dụng cổ phần

TSĐB

Tài sản đảm bảo


VPĐD

Văn phòng đại diện

VNĐ

Việt Nam đồng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng nhất giúp Chính phủ
điều hành nền kinh tế, là kênh huy động vốn lớn nhất cho các dự án, là trung
tâm thanh toán và thực thi chính sách tiền tệ, nơi tập trung khối lượng lớn
tiền, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các tài sản quý vàng, bạc... Do đó, các loại
tội phạm luôn xác định đây là mục tiêu để thực hiện các hoạt động phạm tội
nhằm chiếm đoạt tài sản.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong giai đoạn
hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế và khu vực, hoạt động ngân hàng đang
bị chi phối rất lớn bởi các yếu tố bên ngoài. Điều này khiến hoạt động ngân
hàng đang trở nên ngày càng phức tạp và dễ bị tác động theo chiều hướng tiêu
cực nếu thiếu sự quản lý thận trọng và các chính sách chậm được đổi mới.
Khi các điều kiện cần thiết cho hoạt động ngân hàng không vững chắc sẽ dẫn
đến hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng mất ổn định, có thể đổ vỡ mang
tính hệ thống, đe doạ nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và sự phát triển kinh
tế xã hội đất nước. Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất cho lập luận trên
đây là tình trạng vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thời
gian qua gia tăng mạnh mẽ với nhiều hình thức vi phạm và phương thức, thủ
đoạn phạm tội tinh vi, phức tạp.

Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh
tế, buôn lậu, từ năm 2010 đến tháng 6/2019, lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu đã phát hiện 1.861 vụ với 2.384 đối
tượng vi phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng; trong đó, khởi
tố, điều tra 696 vụ với 1.875 bị can. Những năm gần đây, tội phạm trong lĩnh
vực ngân hàng có xu hướng gia tăng cả về số vụ và số đối tượng, phương
thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt và phức tạp, gây hậu
quả, thiệt hại lớn về nhiều mặt. Về cơ cấu tội phạm, chủ yếu ở hai nhóm tội

1


tham nhũng, chức vụ và xâm phạm sở hữu như: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”,
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Cho vay lãi nặng”, “Cố ý làm trái
quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “Vi
phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD”, “Sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”, “Tham ô
tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng…
Công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng đã được các
cơ quan tố tụng, Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng triển khai
quyết liệt, tuy nhiên, quá trình thực hiện còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế như:
còn quan điểm không đồng tình việc hình sự hóa các hành vi sai phạm trong
lĩnh vực ngân hàng, cho rằng việc xử lý hình sự làm chậm quá trình thu hồi
nợ, thu hồi TSĐB, tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, nhất là sau khi
xảy ra nhiều “đại án” thời gian vừa qua; về phía cơ quan tố tụng, việc đấu
tranh với loại vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng gặp khó
khăn do liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống; khoa học- công
nghệ phát triển tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới như: giao dịch điện tử,

công nghệ số, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử nên việc thu thập tài liệu,
chứng cứ, việc kiểm tra, xác minh kéo dài; quan điểm đánh giá chứng cứ, xác
định tội danh, diện xử lý còn nhiều ý kiến khác nhau cũng là nguyên nhân dẫn
đến chất lượng và thời hạn giải quyết các vụ án tín dụng, ngân hàng còn hạn
chế; ngoài ra, số lượng vụ án hình sự, vụ án dân sự, kinh doanh thương mại
trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng gia tăng, trong khi số lượng Kiểm sát viên,
Điều tra viên, Thẩm phán cơ bản không tăng, lại không được đào tạo chuyên
sâu trong lĩnh vực giải quyết vụ án tín dụng, ngân hàng nên không ít sai sót
khi giải quyết các vụ án này.

2


Từ thực trạng nói trên, học viên lựa chọn đề tài “Các tội phạm trong lĩnh
vực ngân hàng theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ
và đưa ra những giải pháp thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng gây nhức nhối dư luận, tác động
mạnh đến kinh tế xã hội, do hậu quả thiệt hại thường lớn lên đến hàng nghìn tỷ
đồng, làm mất lòng tin của người dân, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân tín
dụng, gián tiếp gây ra tình trạng khan hiếm nguồn vốn do người dân e dè, lo
lắng khi gửi tiền vào ngân hàng, tuy nhiên, đây là vấn đề tương đối mới, nảy
sinh và phát triển mạnh sau tiến trình hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới,
nhu cầu vốn tăng mạnh trong khi cơ chế chính sách và quy định của pháp luật
chưa theo kịp, do đó, đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về chủ đề này hoặc
nghiên cứu từ thời kỳ trước, chỉ đi sâu về công tác phòng chống tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng, chưa đi sâu vào phân tích các yếu tố CTTP theo quy định
của pháp luật hình sự hoặc mới chỉ nghiên cứu một tội danh, chưa có sự khái
quát để đề ra giải pháp chung đối với hệ thống ngân hàng.

Một số nghiên cứu về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng: Luận văn thạc sĩ luật học: “Phòng chống tội phạm trong hoạt động
ngân hàng” của thạc sĩ Trần Thị Hằng tại Trường Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2006. Luận văn thạc sĩ luật học: Phòng chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng Việt Nam của thạc sĩ Lê Xuân Hiền, trường đại học kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2010. Luận án Tiến sĩ luật học: “Thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh
vực ngân hàng” của nghiên cứu sinh Nguyễn Đình Trung, Viện trưởng
VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019. Luận văn thạc sĩ,
“Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại thành phố Hồ
Chí Minh và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh”, Đặng Tuấn Tú,

3


2014, Học viện An ninh nhân dân. Luận văn đã phân tích, làm rõ tình hình
hoạt động và những phức tạp về an ninh nảy sinh trong hoạt động của hệ
thống NHTM cổ phần; đánh giá thực trạng triển khai công tác an ninh đối
với hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần và đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác an ninh đối với hoạt động của hệ thống NHTM
cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, các luận văn trên có nhiều nét tương đồng với đề tài nghiên
cứu của học viên, chỉ khác về không gian và giới hạn đề tài nghiên cứu. Đây
sẽ là một trong những cơ sở để học viên kế thừa, chắt lọc phục vụ nghiên
cứu về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, có cái nhìn tổng quan, đánh
giá sát với thực tiễn tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay, từ đó giúp
học viên đưa ra các giải pháp phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: Góp phần bổ sung, phát triển lý luận về các tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình

sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; đưa ra các giải pháp bảo
đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng thời gian tới.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong lĩnh
vực ngân hàng.
+ Phân tích đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, chỉ ra
kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
+ Dự báo và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy
định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung khoa học: Luận văn tập trung nghiên cứu về các tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng dưới khía cạnh pháp lý hình sự (CTTP, nguyên
nhân, thực trạng…), đặc biệt làm rõ cơ sở và những hành vi phạm tội của loại
tội phạm này, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng trong giai đoạn từ năm
2010 – 2017, để từ đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp có hệ thống và khả
thi, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội
phạm trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta hiện nay. Với mục đích nghiên cứu
như đã đặt ra ở trên, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở 06 điều luật
được quy định trong BLHS năm 1999 và thực tiễn xét xử 06 tội danh tương

ứng trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2017. Cụ thể là: Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Điều 139- BLHS năm 1999, Điều 174 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140
BLHS năm 1999, Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội
cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng (Điều 165- BLHS năm 1999, không còn điều này ở BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), nội dung của điều luật đã được cụ thể hóa thành
một số tội danh khác); tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của
các TCTD (Điều 179 BLHS năm 1999, Điều 206 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), tên điều được sửa đổi thành tội vi phạm quy định về hoạt
động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động khác liên quan đến
hoạt động ngân hàng); tội rửa tiền (Điều 251 BLHS năm 1999, Điều 324 LHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS
năm 1999, Điều 353 BLHS năm 2015). Trong số 06 tội danh này, thì chỉ có

5


một điều, Điều 206 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
trực tiếp về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng là tội vi phạm quy định về
hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Do BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông qua, sau đó được bổ
sung, sửa đổi năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 nhưng
phần thực tiễn xét xử chưa phát sinh nhiều. Vì vậy, toàn bộ các số liệu, bản án
trong luận văn xin được giữ nguyên tên gọi và số điều khoản theo BLHS năm
1999 để bảo đảm giữ nguyên bản gốc, số liệu gốc và thuận tiện theo dõi.
+ Về không gian: Tại các cơ quan tố tụng cấp Trung ương (Cục Cảnh
sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, TAND tối cao,
VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước.
+ Về thời gian: Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng từ năm

2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lênin để đưa ra những lý luận cơ bản về tội phạm trong lĩnh vực
ngân hàng.
Để hoàn thành luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể sau:
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Được sử dụng để nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tại các cơ quan tố tụng cấp
trung ương (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu,
TAND tối cao, VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, tập trung
nghiên cứu các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo chuyên đề phòng, chống tội
phạm trên lĩnh vực ngân hàng nhằm đánh giá, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn
chế, thiếu sót và nguyên nhân tại mục 2.2, Chương 2; rút ra những bài học
kinh nghiệm, giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trên lĩnh
vực ngân hàng ở mục 3.2, Chương 3 của luận văn.

6


- Phương pháp chuyên gia: Ngoài ý kiến của người hướng dẫn, học viên
xây dựng hệ thống câu hỏi và phỏng vấn, tranh thủ ý kiến giảng viên Đại học
Luật Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Điều tra viên, cán bộ của Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, TAND Tối cao,
VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước để làm sáng tỏ lý luận về phòng
chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng; đề nghị góp ý vào đề cương chi tiết,
nhận xét các vấn đề lý luận được trình bày trong luận văn. Về thực tiễn, nghiên
cứu sinh đã xây dựng hệ thống câu hỏi, tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học,
cán bộ, lãnh đạo các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Ngân hàng Nhà nước, Cục An ninh kinh tế đã và

đang chỉ đạo, tổ chức công tác phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu, khảo sát 30 vụ án
trong lĩnh vực ngân hàng điển hình, xử lý dữ liệu bằng SPSS (Statistics
Program for Social Sciences - Phần mềm thống kê dành cho các Khoa học xã
hội), từ đó, rút ra những vấn đề đặc trưng, quy luật phổ biến của tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng (CTTP, nguyên nhân, thực trạng…).
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và tiếp cận hệ thống: Được sử dụng
để phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng, từ đó góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về
phòng, chống tội phạm; xem xét, đánh giá phòng, chống tội phạm trong lĩnh
vực ngân hàng trong tổng thể công tác phòng, chống tội phạm, gắn với điều
kiện lịch sử, các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa từ năm 2010 đến nay.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng phân tích các công
trình khoa học có liên quan ở trong và ngoài nước, từ đó, xác định những vấn
đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu. Học viên phân tích về đặc
trưng, quy luật phổ biến của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng (CTTP, nguyên
nhân, thực trạng. Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng, luận văn tổng hợp và rút ra bản chất, quy luật trong

7


phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Phân tích, đánh giá toàn diện
các mặt công tác, các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng, tổng hợp, đánh giá rút ra được những thành công, hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế; đề xuất giải pháp.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Được sử dụng thống kê hoạt động của
tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Để làm rõ hoạt động của đối tượng, học
viên đã thống kê số vụ án, số lượng tội phạm, làm rõ đặc điểm nhân thân (giới

tính, tuổi, nghề nghiệp, thành phần...), địa bàn hoạt động; các công tác, biện
pháp nghiệp vụ áp dụng trong điều tra, xử lý. Đồng thời, học viên còn thu thập
dữ liệu, xây dựng phụ lục, bảng biểu, so sánh dẫn chiếu theo các mốc sự kiện,
thời gian, địa điểm... từ đó, minh chứng cho các kết luận của luận văn.
Ngoài ra, học viên còn sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp... để lý
giải những vấn đề liên quan, tác động đến đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Góp phần hoàn thiện và nâng cao nhận thức những vấn đề lý luận cơ
bản về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Đánh giá đầy đủ và toàn diện về thực trạng, nguyên nhân, đặc điểm, tác
động xã hội của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở cho việc đề xuất
các giải pháp.
Đề xuất các định lý và giải pháp có luận cứ khoa học và phù hợp thực
tiễn, có tính khả thi hỗ trợ các cơ quan tố tụng trong phòng chống tội phạm;
cơ quan lập pháp trong hoàn thiện hệ thống pháp luật và rút ra bài học đối với
ngân hàng trong khâu quản lý.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu
khoa học, giảng dạy và học tập trong các nhà trường về tội phạm, phòng
chống tội phạm nói chung, tội phạm và phòng chống tội phạm trong lĩnh vực
ngân hàng nói riêng.

8


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung và quy định của pháp luật Việt Nam về tội
phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.

9


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong lĩnh vực
ngân hàng
1.1.1. Khái niệm
Theo Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa, thuật ngữ “lĩnh vực” là phạm vi
hoạt động hay xem xét nào đó, phân biệt với các phạm vi hoạt động hoặc xem
xét khác (Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), NXb Đại học
quốc gia TP Hồ Chí Minh, năm 2008, trang 933).
Theo Điều 4, Luật các TCTD năm 2010 định nghĩa, “ngân hàng” là loại
hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác xã.
Như vậy có thể hiểu “lĩnh vực ngân hàng” gồm sự tồn tại của chính hệ
thống ngân hàng (Ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại và ngân
hàng chính sách xã hội) và các hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. Nói
cách khác, lĩnh vực ngân hàng là khái niệm tương đối có nội hàm chỉ sự tồn
tại của các ngân hàng và hoạt động của các ngân hàng đó theo quy định của
pháp luật [14].

Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự
ra đời của nhà nước, pháp luật cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối
kháng. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước đã quy định hành
vi nào là tội phạm và áp dụng TNHS hoặc hình phạt đối với người nào thực

10


hiện hành vi đó. Do vậy, tội phạm không chỉ mang thuộc tính lịch sử - xã hội
mà nó còn có bản chất là một hiện tượng pháp lý.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác định rõ
khái niệm tội phạm, pháp luật hình sự Việt Nam và các nước XHCN đều có
định nghĩa thống nhất khái niệm tội phạm thể hiện bản chất xã hội của tội
phạm, qua đó phản ánh quan điểm, đường lối, chính sách đúng đắn về hình sự
của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, cách mạng, bảo vệ các lợi ích của
toàn thể nhân dân. Hơn nữa, khái niệm tội phạm trong luật hình sự còn là cơ
sở để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác và với hành
vi trái đạo đức, cũng như các trường hợp không phải là tội phạm, qua đó, bảo
vệ, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm, bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của nhà nước, của xã hội,
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 8, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy

định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [8].
Căn cứ quy định trên, có thể khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự, do người có TNHS hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan
hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ và phải chịu hình phạt.

11


Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý, có thể hiểu:

Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm hại những quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện
các quy định của pháp luật ngân hàng, được quy định trong BLHS, gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến hoạt động đúng đắn của ngân
hàng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và xã hội.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế của nhà nước, đang được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác
nhau như sản xuất, kinh doanh, lưu thông, quản lý tài chính, tiền tệ, … gây
ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng tác động chủ yếu của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
thường là tiền, vàng hoặc các loại giấy tờ có giá khác.
Hành vi phạm tội có thể tác động vào các đối tượng cụ thể khác nhau
của khách thể - các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Các đối tượng này
có thể là con người, đối tượng vật chất khác và hoạt động bình thường của
chủ thể. Như vậy, có thể thấy đối tượng tác động chủ yếu của tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng thường là tiền, vàng hoặc các giấy tờ có giá trị khác.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng

Hầu hết các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có cấu thành vật chất,
tức là các tội được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện một hành vi quy định
trong điều luật với một số lượng, giá trị vật chất cụ thể. Tuy nhiên, cũng có
những tội cấu thành hình thức, tức là tội này không cần có hậu quả xảy ra thì
tội phạm đã được coi là hoàn thành. Một số tội có quy định là đã bị xử phạt
hành chính, đã bị kết án về tội quy định trong nhóm các tội trong lĩnh vực
ngân hàng chưa được xoá án tính mà còn vi phạm. Một trong những dấu hiệu

12


nêu trên là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Hầu hết các tội trong
lĩnh vực ngân hàng được biểu hiện bằng những hành động cụ thể, thể hiện
bằng các thủ đoạn khác nhau khi thực hiện tội phạm, công cụ, phương tiện,
thời gian, địa điểm… thực hiện tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, trừ trường hợp luật định.
Các hành vi phạm tội thường gặp trong lĩnh vực ngân hàng:
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để thực hiện hành vi tham nhũng. Thủ
đoạn phạm tội này tương đối phổ biến trong hầu hết các vụ án đã xảy ra trong
thời gian qua, một số cán bộ ngân hàng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được
giao để thực hiện hành vi phạm tội vì động cơ vụ lợi và có sự tính toán, che
giấu tinh vi khi thực hiện.
Lợi dụng vị trí công tác, uy tín của tổ chức ngân hàng để thực hiện
hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tiền của các ngân hàng, tổ chức và cá nhân.
Cán bộ ngân hàng lợi dụng vị trí công tác, uy tín của ngân hàng để thực hiện
hành vi lừa đảo nhằm rút tiền của ngân hàng hoặc chiếm đoạt tiền của các tổ
chức, cá nhân, thông qua các biện pháp nghiệp vụ như: huy động vốn cho
ngân hàng (thỏa thuận trả lãi suất cao hơn quy định Nhà nước cho phép), sau
đó không đưa vào ngân hàng mà chiếm đoạt luôn tiền, tài sản của các cá nhân, tổ
chức; cán bộ ngân hàng sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhằm sửa chữa, tẩy

xóa nâng giá trị tiền lên nhiều lần trong các chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng
phát hành, rồi đem thế chấp tại chính ngân hàng mình đang công tác.
Cán bộ ngân hàng bị lôi kéo, mua chuộc, tiếp tay cho tội phạm. Những
người ngoài ngành ngân hàng chỉ thực hiện được tội phạm khi lôi kéo, mua
chuộc được cán bộ ngân hàng, chủ yếu là cán bộ trực tiếp làm công tác tín
dụng, cán bộ thẩm định hồ sơ, tài sản thế chấp, hoặc lãnh đạo của các chi
nhánh ngân hàng, bằng cách cho hưởng phần trăm hoặc “hoa hồng” trên tổng
số tiền vay, thực chất những hành vi đó là đưa, nhận hối lộ để có được sự
thông đồng tiếp tay của cán bộ ngân hàng dưới nhiều hình thức.

13


Cán bộ ngân hàng thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Loại
hành vi này xảy ra do lãnh đạo đơn vị ngân hàng hoặc người có trách nhiệm
trong các ngân hàng cả tin, quan liêu, năng lực yếu kém thiếu kiểm tra cấp
dưới dẫn đến bị lợi dụng và để xảy ra vi phạm, tội phạm.
Hành vi lừa đảo với các thủ đoạn như tạo dựng hồ sơ dự án để thế chấp
vay vốn ngân hàng: các đối tượng phạm tội đăng ký thành lập doanh nghiệp
để lấy tư cách pháp nhân, sau đó xây dựng các bộ hồ sơ dự án giả mạo để thế
chấp vay ngân hàng; giả mạo hợp đồng đồng mua bán hàng hóa để thế chấp
vay vốn ngân hàng: đối tượng phạm tội thường làm giả con dấu của doanh
nghiệp khác, tạo ra các hợp đồng mua bán hàng hóa; hoặc lập ra nhiều doanh
nghiệp để ký kết các hợp đồng kinh tế giả mạo dùng thế chấp vay vốn ngân
hàng; giả mạo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở; hoặc lừa đảo sử
dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân; hoặc cùng một
tài sản (nhà, đất) lập ra nhiều giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở, đất ở
đem thế chấp tại nhiều ngân hàng để vay vốn.
Mua chuộc cán bộ nhà nước, cán bộ ngân hàng tiếp tay cho hành vi lừa
đảo. Thông qua các vụ án đã khảo sát cho thấy, trong lĩnh vực ngân hàng đã

có rất nhiều quy định chặt chẽ nhất là quy định về vay vốn, mặc dù hành vi và
thủ đoạn của bọn tội phạm lừa đảo ngân hàng rất tinh vi, nhưng nếu không có
sự tiếp tay của cán bộ Nhà nước, đặc biệt là cán bộ trong ngành ngân hàng, thì
khó xảy ra các hành vi lừa đảo chiếm đoạt được tài sản của ngân hàng.
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường được thực hiện với lỗi cố ý,
bao gồm cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Động cơ, mục đích của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường
mang tính vụ lợi. Tuy nhiên, động cơ, mục đích tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, trừ trường
hợp điều luật quy định cụ thể.

14


1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
Đa số các tội, chủ thể là bất kể người nào có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi quy định. Tuy nhiên, một số tội cũng được quy định chủ
thể đặc biệt, người có chức vụ, quyền hạn và có thể là pháp nhân ngân hàng.
Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường là người có
trình độ học vấn nhất định, song bên cạnh đó có nhiều chủ thể là đối tượng
chủ mưu không có trình độ đại học hoặc tương đương, thậm chí chưa tốt
nghiệp Phổ thông trung học.
Nghiên cứu về đặc điểm nhân thân của tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng có thể thấy, chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm
những người có chức vụ, quyền hạn trong các ngân hàng; cán bộ ngân hàng;
khách hàng vay tiền của ngân hàng [1].
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các tội phạm trong lĩnh
vực ngân hàng
1.2.1. Lịch sử phát triển những quy định của pháp luật Việt Nam về

các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
- Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước pháp điển hóa
lần thứ nhất (BLHS năm 1985).
Sau thành công của Cách mạng Tháng 8/1945, nước ta đã ban hành một
số văn bản pháp luật hình sự quy định về việc trừng trị các tội phạm xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như:
Sắc lệnh số 26- SL ngày 25/2/1946 về tội phá hoại công sản;
Sắc lệnh số 223 – SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ;
Sắc lệnh số 267 – SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở chính
sách, kế hoạch của Nhà nước...
Giai đoạn này còn có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân do Lệnh số 150 – LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước và

15


Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149
– LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố để điều chỉnh một số
hành vi gian lận để chiếm đoạt tài sản. Thông tư 442- TTg ngày 19/01/1955
của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm, trong đó đề cập đến các tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản... song các tội danh mới chỉ được nêu, chưa mô tả được
hành vi phạm tội...
Đây là những quy định manh nha đầu tiên về nghiệp vụ ngân hàng mà
Nhà nước yêu cầu các TCTD cần tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng về
hành vi vi phạm thể lệ quản lý tiền mặt; một số hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Sau ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành
thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội phạm xâm phạm
sở hữu như ở miền Nam có Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội

phạm và hình phạt, trong đó có quy định các tội phạm chiếm đoạt tài sản như
trộm cắp, tham ô, lừa đảo, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép....
Sau đó, để đảm bảo thống nhất một số tội danh, Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 06/7/1977 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành pháp luật thống nhất đối với hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trong đó thống nhất dấu hiệu của tội phạm và áp dụng hình phạt...
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985
có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có những quy định về một số tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, do có nhiều loại văn bản khác nhau nên không
tránh khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện.
Vì vậy, cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này
để đảm bảo tính thống nhất, BLHS năm 1985, có hiệu lực từ ngày 01/1/1986
ra đời đã giải quyết được yêu cầu đó.

16


- Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi ban hành
BLHS năm 2015.
Giai đoạn này Nhà nước có những lần ban hành BLHS sau: Từ khi ban
hành BLHS năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai - BLHS năm
1999 và từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến trước khi ban hành BLHS năm
2015, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi pháp điển
hóa lần thứ hai: Các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tiếp tục được điều
chỉnh, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được chia ra thành tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân; tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được phân thành tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản của công dân; BLHS năm 1985 vẫn còn có sự phân biệt giữa tài

sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân khi phân biệt thành các nhóm tội
khác nhau; Tội phạm trực tiếp liên quan đến hoạt động của các ngân hàng lần
đầu tiên đã được BLHS năm 1985 quy định tại Điều 179 với tên gọi tội vi
phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD.
Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến trước khi ban hành
BLHS năm 2015, BLHS sửa đổi năm 2017: Ngoài những điểm tích cực mà
BLHS năm 1985 đã mang lại cho xã hội, BLHS năm 1985 đã bộc lộ nhiều
điểm hạn chế, thiếu sót do ảnh hưởng của nền kinh tế quan liêu, bao cấp, nhà
nước còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý và điều hành kinh tế. Để khắc phục
những hạn chế này, BLHS năm 1999 ra đời, tiếp đó là BLHS sửa đổi, bổ sung
năm 2009. Trong đó:
- Các tội danh trong BLHS Việt Nam được áp dụng để xử lý các tội
phạm trong hoạt động liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.
Những tội danh trong BLHS được áp dụng để xử lý các tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng không có tính riêng biệt bao gồm:

17


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999); Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS năm 1999); Tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 165 BLHS năm 1999); Tội rửa tiền (Điều 251 BLHS năm 1999); Tội
tham ô tài sản (Điều 278, BLHS năm 1999).
- Tội danh trong BLHS Việt Nam được áp dụng để xử lý các tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng có tính riêng biệt.
Trong BLHS năm 1999, chỉ có một tội duy nhất được áp dụng để xử lý
các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có tính riêng biệt, đó là tội vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của TCTD. Theo đó, “Người nào trong
hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm

trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt
tù từ một đến bảy năm:
Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; Cho vay quá
giới hạn quy định; Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay
trong hoạt động tín dụng”.
Trong tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD,
hành vi phạm tội được thể hiện ở cả hai dạng: hành động và không hành động
phạm tội. Dưới dạng hành động phạm tội, tội phạm xảy ra khi các cán bộ ngân
hàng đã cố ý không thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Cụ
thể: các cán bộ bằng những biện pháp nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp và kinh nghiệm trong nghề có cơ sở, căn cứ hoặc có thể nhận thấy
những điểm chưa đúng, chưa phù hợp trong hồ sơ đề nghị cấp tín dụng nhưng
vẫn bỏ qua hoặc chủ động đề xuất với cấp có thẩm quyền quyết định hoặc tự
mình quyết định (trong trường hợp cán bộ đó được giao thẩm quyền phê duyệt
tín dụng và khoản đề xuất cấp tín dụng thuộc phạm vi phán quyết của cán bộ).
Ngoài ra, còn một số hành vi nguy hiểm trong lĩnh vực ngân hàng
nhưng chưa được quy định trong BLHS Việt Nam: Hành vi huy động vốn trái

18


pháp luật; Hành vi lừa đảo tín dụng; Hành vi thiếu trách nhiệm với Ngân
hàng; Hành vi không tố giác tội phạm trong hoạt động tín dụng.
Qua nghiên cứu các quy định của BLHS thời kỳ này về tội phạm trong
lĩnh vực ngân hàng cho thấy tiếp tục đề cao chính sách hình sự bảo vệ tốt
hơn quan hệ xã hội chủ nghĩa; các dấu hiệu pháp lý của tội phạm ngày càng
được bổ sung hoàn thiện hơn; mức hình phạt áp dụng ngày càng có xu
hướng nghiêm khắc hơn; yếu tố định lượng đã được sử dụng để phân biệt
hành vi phạm tội và hành vi chỉ được coi là vi phạm hành chính và bị xử
phạt hình chính đối với một số hành vi cụ thể; coi đặc điểm xấu về nhân thân

là dấu hiệu CTTP với một số loại tội phạm cụ thể trong lĩnh vực ngân hàng...
Qua mỗi lần sửa đổi, các nội dung nói trên ngày càng được quy định hoàn
thiện hơn.
1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) liên tục hoàn thiện các
quy định theo hướng định lượng các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt;
các quy định mang tính thực tiễn hơn; có mục riêng quy định về các tội phạm
thuộc nhóm ngân hàng, bảo hiểm tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng hết các yêu cầu
của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Về kết cấu của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với
các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng: BLHS năm 2015 đã tách riêng mục 2
của Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế để quy định về nhóm
“Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo
hiểm”, cụm từ “ngân hàng” đã được nêu lên cho thấy nhận thức của nhà làm
luật đã đánh giá được mức độ quan trọng và sự ảnh hưởng của các tội phạm
trong lĩnh vực này đối với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dù được nêu
tên thì toàn bộ các mục cũng chỉ có duy nhất một điều trực tiếp đề cập tới
hoạt động của các ngân hàng (Điều 206) [8]. Cụ thể:

19


“Điều 206. Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động
khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho
người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm:
a) Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường

hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu
đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật Các TCTD;
d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín
dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối
với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng
và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua
cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp
pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ
thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và Luật Các TCTD.

20


×