Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 108 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




V TH O



Sở HữU CHéO TRONG LĩNH VựC NGÂN HàNG
THEO PHáP LUậT VIệT NAM HIệN NAY






LUN VN THC S LUT HC








H NI - 2014

I HC QUC GIA H NI


KHOA LUT



V TH O



Sở HữU CHéO TRONG LĩNH VựC NGÂN HàNG
THEO PHáP LUậT VIệT NAM HIệN NAY

Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07




LUN VN THC S LUT HC



Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS. Lấ TH THU THY




H NI - 2014

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Vũ Thị Đào








MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ
Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ SỞ HỮU CHÉO TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG 4
1.1. Khái niệm và phân loại sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng 4
1.1.1. Khái niệm sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng 4
1.1.2. Phân loại sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng 7
1.2. Nguyên nhân hình thành sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng 10
1.3. Tác động của sở hữu chéo đối với hệ thống ngân hàng thƣơng mại 14
1.3.1. Tác động tích cực của sở hữu chéo 15
1.3.2. Tác động tiêu cực của sở hữu chéo 18
Kết luận Chƣơng 1 27

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU CHÉO TRONG
LĨNH VỰC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VỀ XỬ LÝ SỞ HỮU CHÉO 28
2.1. Các quy định pháp lý về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở
Việt Nam 28
2.1.1. Về quản lý nhà nước đối với sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng
thương mại 28
2.1.2. Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần 36
2.1.3. Về sở hữu chéo, đầu tư chéo 41
2.1.4. Về cấp tín dụng 41
2.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới về xử lý sở hữu chéo
trong lĩnh vực ngân hàng 43
2.2.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản 43
2.2.2. Kinh nghiệm của Đức 53

Kết luận Chƣơng 2 61

Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ SỞ HỮU CHÉO Ở VIỆT NAM VÀ MỘT
SỐ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
SỞ HỮU CHÉO TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG 62
3.1. Thực trạng sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam
hiện nay 62
3.1.1. Các loại hình sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay 62
3.1.2. Thực trạng sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay 66
3.2. Một số định hƣớng hoàn thiện pháp luật về sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam 76
3.2.1. Luật hóa vấn đề sở hữu chéo và tăng cường hoạt động quản lý nhà
nước về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng. 76
3.2.2. Tiến hành rà soát các tỷ lệ sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng để
có cơ sở đưa ra giải pháp khống chế tỷ lệ sở hữu chéo 79
3.2.3. Nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của các quy định về kế toán, an
toàn trong lĩnh vực ngân hàng đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế 81
3.2.4. Bổ sung quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và
hoàn thiện các quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần 82
3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp trong nội bộ của các ngân
hàng thương mại 84
3.2.6. Bổ sung thêm các chế tài theo hướng xử lý hình sự để xử lý các hành
vi vi phạm các quy định liên quan đến sở hữu chéo 85
3.2.7. Bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật đối với hoạt động công bố
thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần 86
3.2.8. Ban hành các quy định pháp luật đảm bảo sự tách bạch chức năng
Ngân hàng đầu tư và Ngân hàng thương mại 87
3.2.9. Tăng cường thanh tra, giám sát tài chính đối với hệ thống ngân hàng 89
Kết luận Chƣơng 3 91
KẾT LUẬN 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Chữ viết tắt
Tên/ cụm từ đầy đủ
M&A
Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
NHLD
Ngân hàng liên doanh
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN
Ngân hàng thương mại nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng








DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Danh mục vốn pháp định của TCTD theo Nghị định
141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006
38
Bảng 2.2:
Cổ phần của ngân hàng nắm giữ bởi các doanh
nghiệp tại Nhật Bản giai đoạn 1989 - 1996
46
Bảng 2.3:
Cấu trúc sở hữu các doanh nghiệp tại Đức tính theo
khối lượng cổ phiếu lớn (có quyền biểu quyết lớn)
55
Bảng 2.4:
Tỷ trọng doanh nghiệp có giám đốc ngân hàng là
thành viên của ban giám sát với vị trí Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch
55
Bảng 3.1:
Quan hệ sở hữu chéo tại các ngân hàng liên doanh
63
Bảng 3.2:
Sở hữu cổ phần của một số ngân hàng nước ngoài
tại các NHTM trong nước
64
Bảng 3.3:
Lộ trình giải quyết sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân
hàng ở Việt Nam
77





DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 1.1:
Ích lợi của sở hữu chéo đối với các doanh nghiệp
không niêm yết
17
Biểu đồ 2.1:
Cấu trúc sở hữu của các doanh nghiệp tại Đức
giai đoạn 1950 - 1996
54

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
Sơ đồ 1.1:
Phân loại sở hữu chéo trên cơ sở cấu trúc nắm
giữ cổ phần
8
Sơ đồ 1.2:
Sở hữu chéo gián tiếp dạng vòng ở tập đoàn
Samsung

9
Sơ đồ 1.3:
Sở hữu chéo dạng bức xạ điều chỉnh ở tập đoàn
Allianz
9
Sơ đồ 3.1:
Cổ đông chiến lược tại các NHTMNN,
NHTMCP và NHLD
65
Sơ đồ 3.2:
Doanh nghiệp nhà nước sở hữu các Ngân hàng
thương mại cổ phần
69



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tiền được ví như huyết mạch của nền kinh tế và các tổ chức tín dụng, ngân
hàng được so sánh như là hệ tuần hoàn để lưu chuyển những dòng huyết mạch đó
đến với người cần vốn trong thị trường. Sở hữu chéo, bản thân nó mang rất nhiều
ưu điểm và có tác động tích cực tới hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhưng nếu
không được nhận thức đúng bản chất, được quản lý bởi một hệ thống pháp luật tốt
và các đối trọng khác một cách hiệu quả sẽ gây ra nhiều biến thể có tác động tiêu
cực, ảnh hưởng xấu tới sự bình ổn của thị trường ngân hàng nói riêng và nền kinh tế
nói chung trong đó pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vậy, việc nghiên
cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến việc điều chỉnh hoạt động của
hệ thống ngân hàng trong đó đặc biệt đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật Việt

Nam hiện nay về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng sẽ góp phần xây dựng hành
lang pháp lý có hiệu quả để đưa hoạt động sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng trở
về đúng với quỹ đạo của nó.
Với mong muốn mang đến một cái nhìn toàn diện hơn về sở hữu chéo, hệ
thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến sở hữu chéo và đưa ra một số
định hướng nhằm hoàn thiện các bất cập trong pháp luật về sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam là lý do em chọn đề tài “Sở hữu chéo trong lĩnh
vực ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm nội dung nghiên cứu
cho Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sở hữu chéo là một hiện tượng phổ biến trên thế giới và là chủ đề nghiên cứu
lớn trong giới học thuật, sở hữu chéo được giới thiệu như là một chiến lược quản trị
doanh nghiệp. Các nghiên cứu về sở hữu chéo thường tập trung nhiều ở các quốc
gia có mức độ sở hữu chéo cao như Nhật Bản (phương Đông) và Đức (phương Tây).
Ở Việt Nam, hiện đã có một số bài nghiên cứu về sở hữu chéo như: Trương Quốc
Cường, Cấu trúc sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam; Tô Ngọc Hưng, Quản lý Nhà nước đối với sở hữu


2
chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại; Đinh Tuấn Minh, Các vấn đề sở hữu
chéo và đầu tư chéo trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng Việt Nam, 2013; Nguyễn
Thành Long, Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và tác động ngăn ngừa sở hữu
chéo, 2013; Nguyễn Đức Trung, Phạm Mạnh Hùng, Thực trạng sở hữu chéo trong
hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị, Tạp chí ngân hàng
số 12 tháng 6/2013; Bùi Huy Thọ, Sở hữu chéo đầu tư chéo trong hệ thống các tổ
chức tín dụng: Nhìn từ góc độ an toàn, 2013;….
Tuy nhiên, nội dung các bài nghiên cứu trên mới chỉ được tiếp cận ở góc độ
kinh tế, chưa mang tính hệ thống chuyên sâu (chủ yếu là các bài tạp chí, bình luận),
chưa có đề tài nào đi sâu phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu chéo

một cách có hệ thống với quy mô của một đề tài khoa học. Luận văn này sẽ góp
phần khỏa lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về vấn đề sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng;
- Làm rõ, phân tích các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề sở hữu chéo
trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay;
- Chỉ ra những bất cập của các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng;
- Đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu
chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm, đường lối
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn này bao
gồm: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp quan sát, …v.v để làm rõ các nội dung nghiên cứu
thuộc đề tài.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Sở hữu chéo là một vấn đề không hề mới trên thế giới nhưng lại là một thực


3
trạng đang rất nóng, gây nhiều bức xúc và tiềm ẩn những rủi ro khôn lường đối với
thị trường ngân hàng tại Việt Nam. Hiện nay, có khá nhiều bài viết, nghiên cứu,
phân tích về sở hữu chéo tại Việt Nam nhưng lại chủ yếu đi sâu tìm hiểu các vấn đề
về mặt tài chính, kinh tế mà chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính chính
thống nghiên cứu về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam hiện nay.
Đề tài mà tác giả lựa chọn nhằm phân tích các bất cập về pháp lý, thực tiễn

áp dụng cũng như đưa ra các giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện các quy định
pháp luật điều chỉnh về vấn đề sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng. Qua đó, góp
phần nâng cao hiệu quả của việc quản lý bằng pháp luật, đảm bảo tính bình ổn của
thị trường tiền tệ trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam hiện nay. Đồng thời, Luận
văn còn mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật đầy đủ,
phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế và là cơ sở pháp lý cho việc
hoàn thiện pháp luật về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta hiện nay.
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật của Việt Nam điều
chỉnh về các vấn đề liên quan đến sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng, có sự so
sánh với pháp luật về sở hữu chéo của một số nước trên thế giới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung đề tài được chia thành ba chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng.
Chương 2. Các quy định pháp luật về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế về xử lý sở hữu chéo.
Chương 3. Thực trạng về sở hữu chéo ở Việt Nam và một số định hướng
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng.



4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ SỞ HỮU CHÉO TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

1.1. Khái niệm và phân loại sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
1.1.1. Khái niệm sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng

Trên thế giới, khái niệm về sở hữu chéo đã được các nhà nghiên cứu đưa ra
trong các nghiên cứu dựa trên định nghĩa về sở hữu và có thể hiểu đơn giản là hiện
tượng doanh nghiệp này nắm giữ cổ phần tại doanh nghiệp khác. Sở hữu chéo
(cross ownership) là một hiện tượng phổ biến trên thế giới và là chủ đề nghiên cứu
lớn trong giới học thuật, được giới thiệu như là một chiến lược quản trị doanh
nghiệp. Sở hữu chéo là hiện tượng các doanh nghiệp nắm giữ cổ phần của nhau cho
những mục tiêu cụ thể. Các mục tiêu này có thể là việc thực hiện chiến lược phát
triển của doanh nghiệp, mặc dù sở hữu chéo có thể ảnh hưởng tiêu cực tới các
doanh nghiệp khác nhưng cũng có thể tạo ra lợi ích cho các bên liên quan; hoặc
mục tiêu chống lại những quy định của pháp luật về đảm bảo đủ vốn. Alberto và
Alessia (2009) định nghĩa: “Sở hữu chéo là việc các doanh nghiệp bao gồm cả công
nghiệp và tài chính nắm giữ cổ phần dài hạn tại các doanh nghiệp khác” [22].Sở
hữu cổ phần thường có mối quan hệ qua lại khi doanh nghiệp này nắm giữ cổ phần
của doanh nghiệp khác và cổ phần của bản thân doanh nghiệp đó lại được nắm giữ
bởi các doanh nghiệp còn lại, tạo nên một hệ thống sở hữu chéo giữa các doanh
nghiệp và ngân hàng. Mark Scher (2001) nhận định: “Sở hữu chéo là việc hai doanh
nghiệp nắm giữ cổ phần của nhau. Các doanh nghiệp có thể cùng ngành, có thể là
nhà cung cấp và khác hàng, hoặc là chủ nợ với con nợ” [30]. Tác giả Đinh Tuấn
Minh (2013) định nghĩa “sở hữu chéo là hiện tượng doanh nghiệp này chiếm giữ cổ
phần tại doanh nghiệp khác”[9].
Sở hữu chéo thường được sử dụng để củng cố mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp đặc biệt là đối với các ngân hàng. Sở hữu chéo đã phát triển phổ biến ở
nhiều quốc gia trên thế giới, chủ yếu tại các quốc gia có thị trường tín dụng và hệ
thống NHTM với quy mô và vai trò quan trọng hơn thị trường chứng khoán, trong


5
đó có Đức, Nhật Bản, Italy, Ấn Độ, Trung Quốc… Ví dụ, tại Nhật Bản, một loại
hình sở hữu chéo truyền thống sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai được gọi là hệ
thống ngân hàng chính của Nhật Bản (Japanese main bank system) và một loại hình

khác với tốc độ phát triển nhanh chóng giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp phi
ngân hàng. Trong khi đó, tại những quốc gia như Mỹ và Anh với thị trường tài
chính ở mức độ phát triển cao và nền kinh tế dựa vào thị trường vốn nhiều hơn, sở
hữu chéo thường ít khi được sử dụng để củng cố mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp. Phương thức mà các doanh nghiệp nắm giữ cổ phiếu của chính mình và các
doanh nghiệp khác tại mỗi quốc gia phản ánh đặc điểm quản trị doanh nghiệp tại
doanh nghiệp cũng như những đặc điểm của cấu trúc nền kinh tế, hệ thống tài chính
và lao động các quốc gia đó.
Khái niệm sở hữu chéo cũng thường được dùng để chỉ hiện tượng một cá
nhân hay tổ chức cùng lúc sở hữu cổ phần trọng yếu và nắm quyền quản trị điều
hành tại nhiều đơn vị kinh doanh khác nhau. Nội dung quan trọng nhất của sở hữu
chéo giữa các doanh nghiệp là tạo ra mối liên kết hàng ngang giữa các công ty làm
ăn với nhau bằng phương thức xâm nhập sâu vào hoạt động kinh doanh, quản trị
điều hành của nhau thông qua việc mua cổ phần của đối tác. Phương thức này đặc
biệt phổ biến trong quan hệ giữa nhà sản xuất với các nhà thầu phụ của họ. Do sở
hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương
mại chung nên các doanh nghiệp trong liên minh sở hữu chéo thường có chiến
lược kinh doanh giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi
gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, các công ty thành viên còn chia sẻ với
nhau những bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị,
thâm nhập thị trường v.v.
Do có sự khác biệt giữa hoạt động của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực
kinh doanh thông thường và hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương
mại mà nội dung sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng cũng có những nét đặc
trưng cơ bản. Theo đó, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng xuất phát từ sở hữu
chéo trong hệ thống doanh nghiệp với đặc điểm là có sự tham gia của các Ngân


6
hàng thương mại vào hệ thống sở hữu cổ phần giữa các thành viên. Như vậy, sở hữu

chéo trong hệ thống ngân hàng là việc một hay nhiều ngân hàng nắm giữ cổ phần
của nhau thông qua mua bán cổ phần hoặc có thể đầu tư vào ngân hàng khác thông
qua công ty con hoặc ủy thác đầu tư qua một bên trung gian.
Nếu như vấn đề sở hữu chéo đối với hệ thống các tổ chức tín dụng đã mang
đến không ít hệ lụy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn hệ thống và thường được
dư luận nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực thì sở hữu chéo đối với các doanh nghiệp
thuộc các ngành nghề khác chưa hẳn là tiêu cực. Đặc biệt, trong giai đoạn mà cả
nền kinh tế, các ngành nghề và bản thân các doanh nghiệp đứng trước áp lực phải
tái cơ cấu để nâng cao năng lực cạnh tranh thì đôi khi sở hữu chéo lại giúp nâng cao
mức độ tích tụ vốn và cơ cấu cổ đông, tạo thuận lợi cho các kế hoạch tái cấu trúc.
Đơn cử như ngành mía đường, hiện đang đứng trước thách thức rất lớn vì từ ngày
01 tháng 01 năm 2015, đường nhập khẩu vào Việt Nam sẽ được giảm thuế nhập
khẩu xuống còn 0% (từ mức 5% hiện nay) theo Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA). Ngoài ra, các biện pháp bảo hộ bằng cấp hạn ngạch cũng sẽ phải
gỡ bỏ để đáp ứng nhu cầu hội nhập. Với thực trạng sản xuất manh mún, năng suất
cây mía thấp, hệ thống phân phối chịu sự thao túng của các đại lý, siêu thị, giá
đường bán lẻ đến tay người tiêu dùng của các doanh nghiệp sản xuất nội địa hiện
đều ở mức rất cao, cao hơn đường cùng loại nhập từ Thái Lan khoảng 2.000-3.000
đồng/ki lô gam (tương đương 15%). Các doanh nghiệp mía đường cần có vùng
nguyên liệu ổn định, sản xuất quy mô lớn mới mong hạ giá thành sản phẩm. Tập
đoàn Thành Thành Công hiểu rất rõ điều này và đã thông qua một loạt “nước cờ”
như mua cổ phần, M&A tại Công ty cổ phần mía đường Thành Thành Công Tây
Ninh (SBT), Công ty cổ phần mía đường Biên Hòa (BHS), Công ty cổ phần mía
đường Ninh Hòa (NHS), Công ty cổ phần mía đường Nhiệt điện Gia Lai (SEC).
Chính nhờ lợi thế về sở hữu chéo, các quyết định của Thành Thành Công liên quan
đến việc M&A các doanh nghiệp cùng họ mía đường mới diễn ra nhanh chóng và
dễ dàng như vậy. Trường hợp của Công ty cổ phần Hùng Vương (HVG) trong
ngành thủy sản cũng vậy, việc sở hữu chéo tại các công ty thủy sản cùng ngành đã



7
giúp HVG mở rộng quy mô, chiếm lĩnh các thị trường xuất khẩu mới. Hơn thế nữa,
chuỗi sản xuất khép kín cũng mang đến lợi thế không nhỏ cho HVG với sự gia nhập
của Công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Thắng, tránh sự phụ thuộc vào các
công ty nước ngoài [38].
Để xác định mức độ sở hữu chéo giữa các thành viên trong nhóm, người ta
sử dụng tỷ lệ sở hữu chéo (cross-shareholding ratio) theo hai phương pháp: theo tỷ
lệ số cổ phần trực tiếp nắm giữ, hoặc theo tỷ lệ số cổ phần trực tiếp nắm giữ so với
số lượng cổ phần tham gia biểu quyết, hoặc theo tỷ lệ số cổ phần trực tiếp nắm giữ
và được ủy quyền đại diện trên số lượng cổ phần, hoặc theo tỷ lệ số cổ phần có
quyền biểu quyết của chủ thể nắm giữ trên tổng số cổ phần có quyền biểu quyết…
Về bản chất, việc xác định mức độ sở hữu chéo giữa các thành viên trong nhóm là
xác định khả năng và mức độ ảnh hưởng của một doanh nghiệp hoặc ngân hàng đối
với các thành viên còn lại trong nhóm thông qua số lượng cổ phần nắm giữ và
quyền biểu quyết. Phương pháp xác định sở hữu chéo được tác giả Nguyễn Thành
Long đề xuất là lấy giá trị bình quân của tổng khối lượng cổ phiếu (hoặc giá trị) cổ
phiếu sở hữu lẫn nhau của các doanh nghiệp có quan hệ sở hữu mô tả nêu trên chia
cho tổng khối lượng (giá trị) cổ phiếu đang lưu hành của các doanh nghiệp đó, trong
đó trọng số là tỷ trọng giá trị vốn hóa của các doanh nghiệp đó so với tổng giá trị
vốn hóa toàn thị trường (gọi tắt là tỷ trọng vốn hóa) [7].
1.1.2. Phân loại sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
Sở hữu chéo trong hệ thống Ngân hàng thương mại, với sự tham gia của cả
Ngân hàng thương mại lẫn các doanh nghiệp khác, được phân loại theo một số
phương thức như sau:
1.1.2.1. Phân loại trên cơ sở mối quan hệ qua lại trong quá trình kinh doanh
giữa các doanh nghiệp trong sở hữu chéo
- Sở hữu chéo theo chiều dọc: cổ phần của doanh nghiệp mẹ (parent
company) được nắm giữ bởi các doanh nghiệp con (subsidiaries).
- Sở hữu chéo theo chiều ngang: cổ phần của doanh nghiệp được nắm giữ bởi các
doanh nghiệp khác, nhưng không phát sinh mối quan hệ doanh nghiệp mẹ - con.



8
1.1.2.2. Phân loại trên cơ sở cấu trúc nắm giữ cổ phần
- Sở hữu chéo trực tiếp: cổ phần của doanh nghiệp được nắm giữ trực tiếp
bởi doanh nghiệp khác và ngược lại (hay còn gọi là sở hữu chéo đơn thuần). Ví dụ:
ngân hàng A nắm 20% cổ phần của ngân hàng B; đồng thời, ngân hàng B nắm 10%
cổ phần của ngân hàng A.

Nguồn: Guo và Yakura (2010)
Sơ đồ 1.1: Phân loại sở hữu chéo trên cơ sở cấu trúc nắm giữ cổ phần
- Sở hữu chéo gián tiếp: cổ phần của doanh nghiệp được nắm giữ bởi các
doanh nghiệp khác có mối quan hệ sở hữu lẫn nhau trên cơ sở sở hữu chéo trực tiếp,
tạo ra một mạng lưới nắm giữ cổ phần phức tạp. Sở hữu chéo gián tiếp có thể được
chia thành 05 loại sau:
Sở hữu chéo gián tiếp dạng thẳng (straight): Ví dụ: ngân hàng A nắm 20% cổ
phần của ngân hàng B, ngân hàng B nắm 40% cổ phần của ngân hàng C, và ngân
hàng C nắm 10% cổ phần của ngân hàng A.
Sở hữu chéo gián tiếp dạng vòng (circulation): Ví dụ: ngân hàng A nắm 20% cổ
phần của ngân hàng B, ngân hàng B nắm 10% cổ phần của ngân hàng A. Ngân hàng A
nắm 40% cổ phần của ngân hàng C, và ngân hàng C nắm 10% cổ phần của ngân hàng
A. Ngân hàng D nắm 40% cổ phần của ngân hàng B và 30% cổ phần của ngân hàng C,
hai ngân hàng B và C mỗi ngân hàng nắm 10% cổ phần của ngân hàng D.


9

Nguồn: Korea Investment & Security
Sơ đồ 1.2: Sở hữu chéo gián tiếp dạng vòng ở tập đoàn Samsung
Ngoài ra, còn một số loại sở hữu chéo khác như: Sở hữu chéo gián tiếp bức

xạ (radiation); Sở hữu chéo mạng lưới (web); sở hữu chéo gián tiếp bức xạ điều
chỉnh (modified radiation).

Nguồn: Wojcik, 2003
Sơ đồ 1.3: Sở hữu chéo dạng bức xạ điều chỉnh ở tập đoàn Allianz
1.1.2.3. Phân loại trên cơ sở mức độ kiểm soát trong sở hữu chéo
- Sở hữu chéo điều hành: doanh nghiệp chính kiểm soát hoạt động của doanh
nghiệp con về sản lượng và giá.
- Sở hữu chéo thầm lặng: các quyết định của doanh nghiệp bị sở hữu không bị


10
chi phối bởi doanh nghiệp sở hữu cổ phần của nó trong mạng lưới nhưng quyết định
của doanh nghiệp bất kỳ có thể gây ra ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp khác.
1.2. Nguyên nhân hình thành sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
Sở hữu chéo là thuộc tính khách quan của nền kinh tế, tuy nhiên trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay, sở hữu chéo tiềm ẩn một số rủi ro bắt nguồn từ các nguyên
nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, sở hữu chéo bắt nguồn từ những quy định của Chính phủ về mức
vốn điều lệ tối thiểu để hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, đặc
biệt là hoạt động tài chính ngân hàng. Nhằm bảo đảm các ngân hàng khi thành lập
và đi vào hoạt động có đủ lượng vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng
vốn có nhiều rủi ro, Chính phủ các nước thường quy định mức vốn điều lệ tối thiểu
theo lộ trình nhất định mà các ngân hàng phải đạt được. Trong điều kiện thuận lợi,
các ngân hàng có năng lực tài chính và năng lực kinh doanh tốt có thể tiến hành
phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cho nhà đầu tư trong và ngoài nước,
thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường
tài chính - ngân hàng có diễn biến bất lợi, thực trạng các ngân hàng yếu kém, các
nhà đầu tư tiềm năng sẽ hạn chế đầu tư vào ngân hàng. Xuất phát từ khó khăn này,
các ngân hàng thực hiện các biện pháp để có thể đáp ứng được yêu cầu của Chính

phủ, trong đó có việc thiết lập một liên minh sở hữu chéo. Trong liên minh này,
ngân hàng có thể tiến hành cho vay một doanh nghiệp thuộc quyền kiểm soát của
ngân hàng và sử dụng vốn vay được để tiến hành đầu tư ngược lại thông qua việc
mua cổ phần phát hành mới của ngân hàng. Do nguồn vốn dùng để cho vay doanh
nghiệp có thể đến từ nguồn vốn huy động từ nền kinh tế của ngân hàng nên lượng
vốn dùng cho hoạt động này đủ để đáp ứng quy định của Chính phủ về vốn điều lệ
tối thiểu. Ở Việt Nam, với mục tiêu nâng cao năng lực tài chính, Ngân hàng nhà
nước đã quy định, các ngân hàng thương mại phải có vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ
đồng. Áp lực tăng vốn là cực kỳ khó khăn bởi các ngân hàng chủ yếu huy động vốn
qua việc phát hành cổ phiếu, bán cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, các quỹ đầu
tư nhưng thị trường chứng khoán suốt từ năm 2008 đến nay đang lâm vào tình
trạng sụt giảm nên việc tăng vốn rơi vào bế tắc. Đó cũng chính là lý do Chính phủ


11
gia hạn thời gian tăng vốn đến cuối năm 2011 tuy nhiên trên thực tế, chứng khoán
năm 2011 còn sụt giảm mạnh hơn, đặc biệt là tình trạng mất thanh khoản kéo dài
nên việc phát hành thêm, niêm yết hay kêu gọi sự tham gia của cổ đông chiến lược
trong và ngoài nước càng khó. Có thể nói, áp lực tăng vốn cộng hưởng với tình hình
huy động vốn gặp khó khăn buộc các ông chủ nhà băng phải tìm cách xoay sở, một
trong các cách đó là tăng vốn thông qua sở hữu chéo để rồi kết quả đạt được là
thành tích xuất sắc tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng của các NHTM. Chưa kể nhiều ngân
hàng lớn, dù không nằm trong nhóm phải chạy đua tăng vốn theo quy định cũng
liên tục công bố tăng vốn thêm từ một ngàn tới vài ngàn tỷ.
Thứ hai, Pháp luật về ngân hàng ở nước ta còn tồn tại nhiều kẽ hở dẫn đến
việc các ngân hàng lợi dụng để vi phạm và hình thành hệ thống sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng. Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính năm 1990 quy định: “Tổ chức tín dụng chỉ được dùng vốn tự có và quỹ dự trữ
để hùn vốn hoặc mua cổ phần, nhưng không quá 10% vốn của công ty, xí nghiệp mà
mình hùn vốn hoặc mua cổ phần" [14, Điều 28]. Luật Các tổ chức tín dụng năm

1997 đề cập chung chung về giới hạn góp vốn, mua cổ phần là: “Mức góp vốn, mua
cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của
TCTD trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình TCTD” [14, Điều 80].
Cho đến năm 2005, Ngân hàng nhà nước mới ra các quy định về tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong việc cho phép TCTD được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để đầu tư vào
các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, đầu tư vào các TCTD khác (gọi là khoản đầu tư
thương mại) dưới các hình thức góp vốn đầu tư, liên doanh, mua cổ phần và chỉ đến
khi Thông tư 13/2010 ngày 20/5/2010 có hiệu lực thi hành, Ngân hàng Nhà nước
mới có những quy định rõ hơn các hoạt động này như:
Góp vốn, mua cổ phần là việc TCTD dùng vốn điều lệ và quỹ dự
trữ để góp vốn cấu thành vốn điều lệ, mua cổ phần của các doanh nghiệp,
của công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết, TCTD khác, cấp
vốn điều lệ cho các công ty trực thuộc của TCTD; góp vốn vào quỹ đầu


12
tư, góp vốn thực hiện các dự án đầu tư; bao gồm cả việc ủy thác vốn cho
các pháp nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác thực hiện đầu tư theo các
hình thức nêu trên [11, Điều 2].
Ở đây có một sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật cần thiết. Một kẽ hở nữa về sở hữu chéo là Quy chế phát hành giấy tờ có giá
trong nước của tổ chức tín dụng được ban hành kèm theo Quyết định số
07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008, tại văn bản này, trong điều khoản
quy định về người mua giấy tờ có giá, NHNN không có những quy định cụ thể đối
với từng loại hình tổ chức tín dụng [10, Điều 3].
Ngoài ra, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành cũng còn tồn tại những lỗ
hổng nhất định. Nhiều quy định trong luật vẫn chưa chặt chẽ và rõ ràng trong việc
phân biệt giữa hai loại hình ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại truyền
thống. Các quy định pháp luật thiếu sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng của ngân

hàng thương mại và ngân hàng đầu tư khiến cho nhiều NHTM đã thực hiện các
nghiệp vụ đúng ra chỉ nên được thực hiện bởi các ngân hàng đầu tư. Các NHTM
được phép thành lập các công ty con trực thuộc tham gia vào các lĩnh vực như
chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính và nắm giữ cổ phần của các doanh
nghiệp có chức năng đầu tư chứng khoán, nắm giữ cổ phần của chính ngân hàng.
Thứ ba, thị trường vốn kém phát triển khiến cho hiện tượng sở hữu chéo gia
tăng do áp lực về vốn đối với các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng. Trình độ phát
triển của thị trường chứng khoán Việt Nam còn hạn chế dẫn tới khả năng cung cấp
nguồn vốn dài hạn cho hệ thống doanh nghiệp bị giới hạn, tạo áp lực cấp vốn dài
hạn lên hệ thống ngân hàng. Thực hiện vai trò cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn
cho hệ thống doanh nghiệp dẫn tới mức độ rủi ro về tín dụng và thanh khoản đối với
hệ thống ngân hàng tăng lên đáng kể. Với việc cung cấp lượng vốn lớn cho doanh
nghiệp cũng như nhằm bảo đảm an toàn lẫn hiệu quả sinh lời cho hoạt động kinh
doanh của mình, các ngân hàng cần phải tham gia sâu hơn vào hoạt động kinh
doanh của chính doanh nghiệp vay vốn. Về phía các doanh nghiệp cũng mong muốn
có được một nguồn cung ứng vốn dài hạn và ổn định, từ đó làm phát sinh thêm cơ


13
hội cho ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện các giải pháp làm tăng cường mối liên
hệ giữa các bên dẫn đến hình thành sở hữu chéo.
Thứ tư, việc thiếu vắng nguồn nhân lực quản lý cấp cao, đặc biệt là nguồn
nhân lực quản lý tài chính tại các ngân hàng có quy mô nhỏ, khiến cho các ngân
hàng lớn, có tiềm lực về tài chính khi cho vay thường muốn có sự tham gia vào hoạt
động quản trị của ngân hàng vay nhằm giám sát được việc sử dụng vốn và hoạt
động kinh doanh. Mục đích này có thể thực hiện thông qua việc nắm giữ cổ phần,
tham gia vào ban quản trị, hoặc ban giám sát của doanh nghiệp. Mục tiêu của ngân
hàng cho vay chủ yếu là bảo đảm nguồn vốn vay ngân hàng này được sử dụng đúng
mục đích, hiệu quả và xây dựng mối quan hệ vững chắc giữa người cho vay và
người đi vay. Đồng thời, việc ngân hàng nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp mà

mình cấp vốn tín dụng sẽ giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng, thu được lợi
thế cạnh tranh so với các chủ nợ khác, từ đó giảm rủi ro trong hoạt động cấp tín
dụng và tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng đối thủ.
Thứ năm, các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực về tài chính thường có nhu cầu
mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác trong điều kiện kinh doanh thuận lợi nhằm
đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, giảm thiểu mức độ rủi ro cũng như huy động
được một lượng vốn ổn định cho các phương án, dự án đầu tư của mình. Một trong
những biện pháp mà các doanh nghiệp lớn thường thực hiện là thành lập một ngân
hàng mới hoặc mua cổ phần để sở hữu và kiểm soát phần lớn một ngân hàng đang
hoạt động. Thông qua ngân hàng trong liên minh sở hữu chéo, các doanh nghiệp
trong ngân hàng sẽ dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng với quy mô lớn và chi
phí vốn rẻ hơn so với việc phải tiếp cận với các ngân hàng ngoài. Ngoài ra, với vai
trò là một ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp trong liên minh sở hữu chéo, ngân
hàng chính (main bank) góp phần làm tăng mức độ tín nhiệm cho các thành viên khi
các chủ nợ khác nhận thức được những khó khăn mà thành viên gặp phải trong quá
trình kinh doanh sẽ được sự chia sẻ từ ngân hàng chính.
Thứ sáu, nhu cầu thu hút nguồn vốn và công nghệ từ các ngân hàng mạnh
trong và ngoài nước đã tạo điều kiện cho ngân hàng nước ngoài mua lượng lớn cổ


14
phần của các ngân hàng trong nước và trở thành cổ đông chiến lược của ngân hàng
đối với những ngân hàng tiềm năng trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài
cũng muốn mở rộng quy mô, hoạt động để tài trợ cho chi nhánh của những công ty
đa quốc gia lập tại nước sở tại thông qua việc mở chi nhánh ngân hàng, thành lập
ngân hàng liên doanh, hoặc nắm giữ quyền kiểm soát ngân hàng tại quốc gia đó.
Thứ bảy, chất lượng quản trị doanh nghiệp trong ngân hàng không đạt yêu
cầu, khiến một số cổ đông đã tiến hành các biện pháp tăng mức độ sở hữu và kiểm
soát thông qua sở hữu chéo. Các cổ đông này đã chỉ đạo ngân hàng cho các doanh
nghiệp dưới quyền kiểm soát của mình vay vốn, rồi tiến hành đầu tư ngược lại vào

cổ phần của ngân hàng, qua đó tăng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu (trực tiếp và gián tiếp)
và tương ứng là quyền sở hữu, kiểm soát ngân hàng.
Thứ tám, thực hiện sự chỉ đạo của cơ quan quản lý Nhà nước, một số ngân
hàng thuộc sở hữu Nhà nước đã tiến hành đầu tư vốn vào các NHTM hoặc ngân
hàng liên doanh với các mục tiêu khác nhau như hỗ trợ ngân hàng mới thành lập
phát triển hoặc mở rộng mạng lưới hoạt động. Từ nhiều năm trước khi việc thành
lập hệ thống ngân hàng cổ phần được thực thi, sự hiện diện của những ngân hàng
quốc doanh nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp
lý nếu có cũng như những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới
được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét
từ góc độ nghiệp vụ, các ngân hàng quốc doanh lớn đã chia sẻ kinh nghiệm kinh
doanh, quản trị thậm chí chia sẻ cả nguồn nhân lực với tất cả các ngân hàng họ góp
vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt
Nam, ảnh hưởng của các hình thức sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân hình thành sở hữu chéo giữa các ngân hàng có vốn
nhà nước và các ngân hàng thương mại hoặc ngân hàng liên doanh.
1.3. Tác động của sở hữu chéo đối với hệ thống ngân hàng thƣơng mại
Về bản chất, sở hữu chéo chỉ là việc hai hay nhiều doanh nghiệp, ngân hàng
nắm giữ cổ phần của nhau, phục vụ cho nhiều mục đích trong đó điển hình là tăng
cường mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, nhiều bên cùng có lợi. Tuy nhiên, trong thực tế,


15
sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng tạo ra những ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
phụ thuộc vào mục đích cụ thể dẫn tới tình trạng sở hữu chéo.
1.3.1. Tác động tích cực của sở hữu chéo
Thứ nhất, sở hữu chéo giúp các NHTM phòng ngừa những cuộc thâu tóm và
sáp nhập từ các tổ chức khác, trong đó có cả các ngân hàng là đối thủ cạnh tranh. Sở
hữu chéo có khả năng giữ ổn định quyền hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện các
hoạt động kinh doanh, đầu tư, và tài chính trong dài hạn trước áp lực bị can thiệp về

quyền kiểm soát hoạt động từ bên ngoài. Trái lại, nếu NHTM phải đối mặt với áp lực
thâu tóm và sáp nhập từ bên ngoài, ban điều hành ngân hàng buộc phải đáp ứng những
yêu cầu khắt khe hơn của các cổ đông hiện tại, ví dụ như thực hiện những biện pháp để
tăng lợi nhuận trong ngắn hạn (thay vì tập trung vào mục tiêu dài hạn). Trong trường
hợp tồn tại sở hữu chéo giữa bản thân NHTM và các nhà đầu tư, hai bên có thể thương
lượng để cùng phối hợp chống lại các hành vi thâu tóm, sáp nhập từ đối thủ. Các
nghiên cứu của Sheard (1989) và Morck và Nakamura (1999)[33] về sở hữu chéo tại
Nhật Bản đã cho thấy sở hữu chéo có tác dụng chống lại các cuộc thâu tóm và sáp nhập
thông qua vai trò của những cổ đông ổn định – stable investors (Hộp 1.1).
Hộp 1.1: Cổ đông ổn định (Stable Shareholder)
Cổ đông ổn định là những cổ đông đáp ứng những tiêu chuẩn sau:
- Cổ đông có mối quan hệ chặt chẽ với ban điều hành doanh nghiệp.
- Cổ đông cam kết không bán cổ phần cho bên thứ ba có hành vi chống lại
Ban điều hành doanh nghiệp, thường là bên có ý đồ thâu tóm doanh nghiệp.
- Cổ đông cam kết rằng trong trường hợp bán cổ phần, cổ đông sẽ thông báo
cho doanh nghiệp những mục đích cụ thể của họ.
Lợi ích cổ đông ổn định mang lại cho doanh nghiệp bao gồm:
- Doanh nghiệp có thể giảm thiểu tối đa nguy cơ các cuộc thâu tóm thù địch.
- Ban điều hành doanh nghiệp có thể tập trung vào các mục tiêu dài hạn,
phục vụ mục tiêu đem lại lợi ích tối đa cho cổ đông, đóng góp vào khả năng cạnh
tranh của hệ thống doanh nghiệp trong nước.

Thứ hai, sở hữu chéo có tác dụng tạo ra lợi thế từ sự kết hợp các nguồn lực

×