Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

chuyên đề đặc sắc nghệ thuật và cá tính sáng tạo của thơ xuân diệu trước cách mạng tháng tám 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.19 KB, 31 trang )

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT VÀ CÁ TÍNH SÁNG TẠO CỦA THƠ XUÂN DIỆU
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

I. Xuân Diệu – Cây đời mãi xanh tươi:
“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong”, Xuân Diệu đã từng sống ở cả ba
miền đất nước. Từ khi còn là một học sinh trung học hay là một viên ch ức,
Xuân Diệu luôn lao động sáng tạo say mê, bền bỉ. V ới h ơn n ửa th ế k ỉ c ầm
bút, ông đã để lại một khối lượng tác ph ẩm đồ sộ: khoảng 50 tác ph ẩm
thuộc nhiều thể loại: thơ, văn, phê bình, nghiên cứu phê bình văn h ọc và
dịch thuật... Ở lĩnh vực nào tài năng Xuân Diệu cũng đ ược ghi nh ận, nh ưng
thơ vẫn là bộ phận sáng tác có giá trị nhất của ông. Xuân Diệu là m ột trong
những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật, Xuân Diệu đã nêu m ột tấm g ương
cho các thế hệ cầm bút về sự cần cù, say mê, không mệt mỏi, đã để lại sự
ngưỡng mộ, khâm phục với bao thế hệ độc giả.
Khi Thơ mới bắt đầu thắng thế, nếu Thế Lữ được coi là ngôi sao sáng
nhất của bầu trời Thơ mới buổi đầu, thì chỉ vài năm sau, ở giai đo ạn th ứ
hai, Thế Lữ phải nhường ngôi “đệ nhất thi sĩ” cho Xuân Di ệu. Trong “Thi
nhân Việt Nam”, Hoài Thanh khi nhận xét (và có ý so sánh) m ột s ố phong
cách các nhà Thơ mới đã tinh tường khái quát: “Hùng tráng nh ư Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa nh ư
Nguyễn Bính, kì dị như Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực,
băn khoăn như Xuân Diệu…”. “Thiết tha, rạo rực, băn khoăn”, phải là ba
tính từ (chứ không phải một) đã thâu tóm đúng thần thái th ơ và đ ời Xuân
Diệu. Các nhà phê bình, các nhà thơ, bạn đọc trong và ngoài n ước đã không
tiếc lời ngợi ca thơ ông, Với Thế Lữ thì Xuân Diệu là “một tâm h ồn đ ằm
thắm và rất dễ cảm xúc”, là “nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu, và c ủa
ánh sáng”, còn thơ Xuân Diệu “không phải là văn ch ương nữa; đó là l ời nói,
là tiếng reo vui hay tiếng năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là nh ững
tình ý rạo rực biến lẩn trong những thanh âm”. “Xuân Diệu là ng ười c ủa
đời, một người ở giữa loài người. Lầu th ơ của ông xây d ựng trên đ ất c ủa


một tấm lòng trần gian”. Cả Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan đều có chung
một đánh giá: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ mới” và “Xuân Di ệu
đã đem đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất”. Hoài Thanh – tác giả
của “Thi nhân Việt Nam” dường như đã giành những tình cảm đặc biệt c ủa
mình cho thi sĩ của tình yêu thương bằng những l ời có cánh: “Th ơ Xuân
Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn n ước non l ặng


lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh tr ời, sống vội vàng, s ống
cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi c ủa mình. Khi vui cũng
như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình
thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn
sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không c ần
phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm m ới là sống. S ự bồng
bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đ ủ h ơn c ả trong
những rung động tinh vi”.
Không thể kể hết những ý kiến, những đánh giá của độc giả giành
cho “thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu” ấy. Tất cả nói lên r ằng Xuân Di ệu đã có
một vị trí khó thay thế trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Khi ông xuất hiện,
Thế Lữ đã từng reo mừng: “Thế là từ nay, chúng ta đã có Xuân Diệu”. Và khi
nhà thơ qua đời, “thế là từ nay chúng ta không còn Xuân Di ệu n ữa”, “M ột
cây lớn đổ xuống làm cho cả một khoảng trời trống vắng” (Hà Xuân
Trường). Tuy nhiên, sự nghiệp mà Xuân Diệu để lại sẽ còn sống mãi trong
lòng người yêu thơ, trong lòng dân tộc, bởi “sự sống còn c ủa m ột nhà văn
là ở tác phẩm”.
II. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu trước CMT8 1945:
Trong “Bài thơ tuổi nhỏ” sáng tác năm 1933 – khi Xuân Diệu m ười
bảy tuổi, thi sĩ đã dõng dạc bày tỏ tuyên ngôn sống của mình:
Giơ tay muốn ôm cả Trái đất
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực

Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn
Bao la muôn trời, sâu vạn vực…
Đây chính là nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật c ủa ông: ni ềm
khát khao giao cảm với đời, cuộc đời hiểu theoo nghĩa chân th ật và tr ần
thế nhất. Khát khao giao cảm – có thể hiểu là nh ững mong ước, mong
muốn, hi vọng một cách thiết tha, cháy bỏng được hòa nhập, đ ược tiếp
cận, được tâm sự, giãi bày, được cảm thông, chia sẻ. Nhà nghiên c ứu
Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Có thể nói trên đời này có bao nhiêu
cách để tiếp xúc với đời, để tâm sự giao cảm với đời, Xuân Diệu đ ều không
bỏ qua và khai thác triệt để... Đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim c ủa
một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm tràn đầy tính
nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối v ới cu ộc sống và


kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình” (T ư t ưởng và phong cách m ột
nhà thơ lớn).
1. Xuân Diệu sáng tác nhiều và khỏe:
Đây là một cách để được giao hòa, gặp gỡ, tâm sự, giãi bày. Suốt cu ộc
đời lao động bền bỉ của người nghệ sĩ, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp
sáng tác lớn lao với nhiều thể loại. Ở cả hai chặng sáng tác, Xuân Di ệu đ ều
có những cống hiến đáng kể đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông
đã viết gần năm mươi cuốn sách, bình thơ trên bốn trăm cuộc, ngoài ra
còn làm biên tập sách báo, viết báo, làm báo,… thì không k ể hết. Quả th ực
là “một khối lượng khổng lồ” (Mai Quốc Liên). “Bài h ọc l ớn nh ất, t ấm
gương sáng nhất mà Xuân Diệu để lại cho các th ế hệ cầm bút về sau là
tấm gương lao động nghệ thuật cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ, say mê và liên t ục”
(Hà Xuân Trường).
Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là nhà th ơ tiêu bi ểu của
phong trào Thơ mới. Với hai tập “Thơ thơ” (1938) và “Gửi h ương cho gió”
(1945), Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ xuất sắc nhất và

điển hình nhất của phong trào Thơ mới, có nhi ều đóng góp vào vi ệc cách
tân các thể loại thi ca dân tộc và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Nhà th ơ T ế
Hanh khi được hỏi nếu chọn năm nhà th ơ tiêu biểu nhất của phong trào
Thơ mới đã trả lời sau khi suy nghĩ: “Kể cũng khó, nh ưng theo tôi thì ph ải
kể đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc T ử”. Lại h ỏi
tiếp: nếu chọn một người tiêu biểu nhất thì là ai? Tế Hanh đã trả lời ngay:
Xuân Diệu. Như vậy, công lao của Xuân Diệu trong phong trào Th ơ m ới
thật không nhỏ.
Sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu thuộc số ít người ở hàng đ ầu
của nền thơ ca cách mạng, trở thành một trong những người đầu tiên xây
dựng nền móng cho thơ ca cách mạng Việt Nam.
2. Xuân Diệu – nhà thơ của tình yêu:
Sinh thời, Xuân Diệu đã tự nhận mình là “kẻ uống tình yêu dập cả
môi”, thơ viết về tình yêu là mảng đặc sắc nh ất của th ơ Xuân Di ệu. Th ơ
tình của ông có tới vài trăm bài, có những bài về tình yêu hay nh ất trong s ố
những bài thơ tình hiện đại. Một danh hiệu cao quý mà Xuân Di ệu đ ược
phong tặng ngay từ thời “Thơ thơ” và “Gửi h ương cho gió” và mãi sau này
ông vẫn bền bỉ vun đắp bằng cả cuộc đời sáng tạo của mình; đó là danh
hiệu “ông hoàng của thơ tình” hoặc thân thiết hơn là “thi sĩ của tình yêu”…
Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao nh ững đóng góp của Xuân Di ệu trong
địa hạt thơ tình: “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà th ơ tình kiệt


xuất” (Lê Đình Kị), “có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh v ực th ơ tình” (T ố
Hữu). Chính Xuân Diệu, những năm cuối đời nhìn lại suốt chặng đường dài
sáng tạo của mình cũng tự hào rằng “đặc sản của tôi là th ơ tình”, và nh ấn
mạnh: “Đã làm thơ tình là phải làm thơ tình nguyên chất”. Xuân Di ệu là nhà
thơ của niềm giao cảm hết mình với cuộc sống, nên cũng là nhà th ơ th ật
sự của tình yêu; nói cách khác, Xuân Diệu mượn tình yêu đ ể giao tiếp v ới
đời vì tình yêu là một trong những niềm giao cảm mãnh liệt nh ất, sâu s ắc

nhất, toàn vẹn nhất – niềm giao cảm tuyệt vời của tuổi tr ẻ. Đó là s ự hòa
hợp tuyệt diệu giữa hai tâm hồn, hai trái tim, hai thể xác, v ừa r ất m ực tr ần
thế, vừa hết sức cao thượng. Tình yêu là tình cảm người nhất. Có th ể nói,
khát vọng yêu đương nồng nàn và da diết thường th ấy ở Xuân Di ệu cũng
chính là biểu hiện đầy đủ nhất của lòng say mê yêu đời. Đối v ới ông, tình
yêu là biểu tượng tràn đầy rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân và là h ạt nhân
của sự sống. Tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu được hình thành và phát
triển trên cơ sở nguồn cảm xúc yêu đương ấy.
Đi sâu vào thế giới tình yêu của Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đây mọi cung
bậc tình cảm yêu đương muôn thuở của con người. T ừ nh ững tâm tr ạng
nhớ nhung bâng quơ, những hẹn hò xa xôi đến những thứ tình nh ư mây
đưa gió thoảng, từ những tình cảm vu vơ đến thứ tình cho không nh ư “G ửi
hương cho gió”, như “Phấn thông vàng”, từ những phút say nồng c ực l ạc
đến những khoảng trống vắng lạnh lùng… nghĩa là có đủ m ọi tr ạng thái
bâng khuâng, hồi hộp, đắm say, giận dỗi, hờn ghen, hi v ọng, tuy ệt v ọng…
của tình yêu. Nhiều nhà thơ chọn tình yêu làm tiền đề cho cảm h ứng sáng
tạo nhưng có lẽ chỉ Xuân Diệu là đạt đến độ si mê đắm đuối nh ất của c ảm
xúc yêu đương, là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tình yêu của th ời đại.
Đến với tình yêu, Xuân Diệu muốn khám phá thực chất ý nghĩa của nó
và đồng thời qua đó, bộc lộ quan niệm sống của mình. Có th ể coi Xuân
Diệu là người đầu tiên đã đưa vào thơ Việt Nam tình yêu thật sự là tình
yêu, nghĩa là sự giao cảm tuyệt đối, tuyệt đỉnh, sự hòa nh ịp giữa linh h ồn
và thể xác. Tình yêu phải thực sự là tình yêu của con ng ười tr ần t ục ch ứ
không phải thứ tình Biêlinxki từng chế giễu “ch ỉ làm đ ẹp lòng các v ị b ảo
hộ hậu cung vua chúa phương Đông” mà thôi. Tuy nhiên cái đích mà tình
yêu nhằm đạt tới phải là sự hòa hợp cao độ của tâm hồn, là trái tim đ ỏ
thắm của em, tâm hồn xanh thẳm của em, là phút giây giao cảm tuy ệt v ời
của những con người “Trời ơi, anh muốn uống hồn em!”.
Với tình yêu, con người sinh ra để mà yêu ấy luôn sôi n ổi cuồng nhi ệt:
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,

Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần,


Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái
(Phải nói)
Xuân Diệu ý thức được ý nghĩa cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ, ý nghĩa
tình yêu nằm trong vòng khoảnh khắc, thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều
những khoảnh khắc ngưng đọng của tâm h ồn v ới một c ường đ ộ c ảm xúc
mạnh mẽ: khoảnh khắc gặp gỡ:
Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian
Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ
Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay
(Xuân không mùa)
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu
(Vì sao)
Khoảnh khắc chợt bùng lên nỗi nhớ:
Anh nhớ tiếng! Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi
(Tương tư chiều)

Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình của ta


Rồi khoảnh khắc vội vàng, giục giã, được giao cảm chiếm lĩnh và khao

khát vươn tới cái vô biên, tuyệt đích:
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi
(Giục giã)
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
Vì luôn khát khao vô biên, tuyệt đích, nên:
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
(Vô biên)
Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu th ứ nhất, là mùa xuân đầu:
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hát ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước
(Xuân không mùa)
Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh


(Rạo rực)
Sau này, khi đã chiều tà bóng xế, tình yêu trong thơ ông vẫn luôn nồng nàn:
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng

(Đa tình)
Cho đến lúc sắp giã biệt cuộc đời, nhà th ơ vẫn khao khát:
Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
Thơ tình Xuân Diệu thực sự là thơ tình, tình yêu của những người
yêu. Trong “Thơ thơ” có cái rạo rực thiết tha, n ồng cháy, “G ửi h ương cho
gió” có cái da diết, đằm thắm xen lẫn vị đắng cay. Vì h ướng t ới s ự giao c ảm
về phương diện tinh thần và tâm hồn nên tình yêu trong th ơ Xuân Di ệu
rất mãnh liệt và cũng rất trong sáng, lành mạnh. Xuân Diệu yêu đ ời tha
thiết và khao khát được đáp lại:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành
Nhưng do không gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu, chân thật, nên
hầu hết những bài thơ tình của Xuân Diệu là nỗi đau của một trái tim đắm
say, nồng nhiệt mà không được đến đáp xứng đáng và th ường th ấm đãm
nỗi buồn cùng mặc cảm cô đơn. Có lúc sự th ờ ơ, h ờ h ững c ủa ng ười đ ời
khiến trái tim thi sĩ không tránh khỏi sự tủi h ổ:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai


Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ lá khoai)
Thậm chí, “chết ở trong lòng một ít” bởi:
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết

(Yêu)
Càng yêu, càng thấy “dại khờ”:
Người ta khổ vì thương không phải cách
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người
Có kho vàng, nhưng chẳng tặng tùy nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ
Ta hiểu vì sao trong thế giơi nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân và bình
minh đi liền với những chiều thu và những đêm trăng lạnh, sự n ồng nàn đi
liền với cảm giác bơ vơ...
Trong tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến tận cùng c ủa sự thành th ực:
thành thực nói lên nỗi khát tình dằng dặc của đời mình; thành th ực can
đảm nói lên những mặt trái của tình yêu. Nếu như trong văn chương
truyền thống, nguyên nhân của những mối lương duyên trắc trở là do
khách quan, thì Xuân Diệu thấy nguyên nhân sự phản bội là ở phía ch ủ
quan, đó chính là những góc khuất trong tâm h ồn nh ững đôi tình nhân
đang say sưa kia:
Linh hồn ta còn u uẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió
Anh muốn vào dò xét giấc em mơ


Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ
Cũng như em giấu những điều quá thực
(Xa cách)
Khoảng cách về tâm hồn mới là điều đáng sợ nhất, bởi:
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lý trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Nhưng dù tình yêu có được đền đáp hay không, trái tim yêu của Xuân

Diệu vẫn nồng nàn say đắm, vẫn khát khao gặp gỡ, tâm hồn v ẫn “giăng
rộng khắp không gian – Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ”, bởi với thi
sĩ của tình yêu, “Tình yêu không tuổi, và xuân không ngày tháng”.
3.Quan niệm thẩm mỹ:
Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu đã đem lại cho thơ một quan
niệm thẩm mỹ hết sức mới mẻ, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng
trong thi ca: cuộc đời trần thế là đẹp nhất, con người - đ ặc bi ệt là ng ười
thiếu nữ - là tuyệt diệu nhất, là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên đ ời.
Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp. Trường
thơ này quan niệm vũ trụ là một thế giới huyền bí mà mắt th ường không
nhìn thấy được, cái mà con người nhìn th ấy ch ỉ là dấu hi ệu t ượng tr ưng
của bản thể ấy. Vì vậy, các nhà thơ theo trường phái này không ch ủ trương
miêu tả thế giới rõ rệt, hữu hình mà cố gắng miêu tả những biến thái tinh
vi, mong manh, huyền diệu của vũ trụ, lòng người. Trường th ơ t ượng
trưng đề xướng thuyết tương giao và coi trọng tính nhạc. Điều này d ẫn t ới
đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu: đấy là một thế giới tràn đầy xuân
sắc, xuân tình, mà chuẩn mực của cái đẹp là con ng ười gi ữa tình yêu tu ổi
trẻ. Quan điểm mĩ học mới mẻ này đã khiến thi sĩ sáng tạo được nhiều
hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đẹp một cách khỏe khoắn đầy s ức s ống.
Bài thơ “Vội vàng” được coi là tuyên ngôn về quan niệm sống của
Xuân Diệu, một triết lí nhân sinh được thể hiện bằng hình tượng th ơ th ấm
đẫm cảm xúc. Với Xuân Diệu, cuộc sống trần thế đầy h ấp dẫn, đó là m ột
thiên đường trên mặt đất, một khu vườn tràn đầy xuân sắc, một không
gian tươi thắm tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt... mà vạn vật ở độ lên
hương rực rỡ nhất, đều say đắm xuân tình: ong bướm nh ư trong tu ần


tháng mật; hoa phải là hoa của đồng nội xanh rì; lá ph ải là lá c ủa cành t ơ,
chồi biếc; yến oanh rộn rã khúc tình si... Vì vậy, không việc gì ph ải tìm
kiếm thiên đường ở tận đâu, mà hãy yêu mến, gắn bó tận h ưởng hết mình

ngay trong cuộc đời này.
Từ quan niệm coi con người là chuẩn mực cho mọi v ẻ đ ẹp, nhà th ơ
nhìn trời đất, cỏ cây, hoa lá, núi sông... đầy vẻ tình tứ:
Hơi gió thở như mặt người yêu mến
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa
Thời tiết bốn mùa thì: “Xuân: người ta vì ấm mà cần tình, Thu: ng ười ta vì
lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi; Nắng hạ đốt người một cách c ực l ạc và
tiết đông khỏa vào da thịt làm dây cả máu xương”. Mùa xuân đ ược thi sĩ
hình dung, liên tưởng như làn môi căng mọng của người thiếu n ữ “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ hay vào loại hiếm th ấy
trong lịch sử văn học dân tộc. Xuân Diệu đã khái quát lên thành toàn bộ
thế giới xuân tình. Nhìn phấn thông bay, thi sĩ nh ư thấy ái tình t ản m ạn,
ôm ấp không gian, hoa thì không phân biệt được là hoa hay là nh ững thi ếu
nữ đa tình. Biển thì như một người tình say đắm, một trái tim yêu không
bao giờ mệt mỏi... Có thể nói, làm nên những câu th ơ đ ầy c ảm xúc, c ảm
giác ấy, một phần quan trọng là nhờ cách dùng từ ngữ của Xuân Diệu: độc
đáo, táo bạo, có giá trị gợi cảm mạnh mẽ. Tuy nhiên, th ơ Xuân Di ệu, v ề b ản
chất vẫn kế thừa phát huy cái nhạc điệu riêng, linh hồn riêng c ủa th ơ ca
truyền thống. Chính vì vậy, kinh nghiệm Đông và Tây, truy ền th ống và hi ện
đại, kết tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm v ới đ ời đã giúp
Xuân Diệu khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng
như của nội tâm con người và thể hiện được trong nh ững vần th ơ “ít l ời,
nhiều ý, súc tích như đọng lại baoo nhiêu tinh hoa” (Thế L ữ).
4. Xuân Diệu rất ý thức về sự chảy trôi của thời gian:
“Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu là người có năng l ực cảm
nhận tinh tế bước đi của thời gian. Có lẽ cũng do lòng yêu tu ổi tr ẻ, mu ốn
ngăn sự già nua tàn tạ, nên nhà thơ luôn cảnh giác với thời gian và kịp th ời
báo động với chính mình” (Vũ Quần Phương). Với Xuân Diệu, th ời gian tr ở
thành “nỗi ám ảnh”, thành “kẻ thù đáng gờm”, là “đại lượng tiêu c ực, thù
địch với hạnh phúc và tuổi xuân”. Xuân Diệu quan niệm th ời gian mang

trong lòng nó sự trôi chảy mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh vi ễn:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua


Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Đây là một quan niệm hết sức mới mẻ, tiến bộ về thời gian – th ời gian
tuyến tính. Thời trung đại, với quan niệm th ời gian tuần hoàn v ới chu kì
bốn mùa, nên con người rất ung dung, bình th ản trước th ời
gian:
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Thời gian trung đại tính theo chiều vĩ mô: ngàn đ ời, v ạn năm, thiên thu...
nên chết chưa phải là hết, còn có kiếp sau. Còn ở th ời hi ện đ ại, ng ười ta
không yên tâm với điều đó. Đời người hữu hạn, ngắn ngủi vô cùng, cho nên
con người không thể thờ ơ với cuộc sống, không nên lãng phí th ời gian,
phải sống năng suất hơn gấp nhiều lần trong cùng m ột th ời gian đ ược
sống, hãy tìm cách đốt cuộc đời mình lên để nói trôi qua thì không ph ải
luyến tiếc. Cho nên, ta bắt gặp những khoảnh khắc thi sĩ “c ảnh giác v ới
thời gian và kịp thời báo động với chính mình”:
- Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa
...Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt
(Giục giã)
- Sự thật ngày nay, không thật đến ngày mai
(Phải nói)
- Cái trôi không đợi cái bay
Từ tôi phút ấy, sang tôi phút này.



Ý thức về sự trôi chảy của thời gian cũng là cách không ch ấp nh ận cu ộc
sống mù tối, vô danh vô nghĩa, tẻ nhạt, và cội nguồn sâu xa c ủa nó chính là
niềm khát khao giao cảm với đời.
Vô cùng nhạy cảm trước sự đổi thay “nổi nênh, xiêu đổ, tan tác” c ủa
cuộc đời, Xuân Diệu luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã gi ữa th ời gian vô
tận của vũ trụ và thời gian quá ngắn ngủi của kiếp người. Càng tha thi ết
với cuộc đời, ông càng nhìn thấy thời gian trôi với nhịp đ ộ chóng mặt: “r ồi
đi”, “cứ thế mà bay” những ngày những tháng.
Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi…đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân
(Giờ tàn)
Chưa có nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa nh ư Xuân Di ệu, b ởi
ông ý thức được rằng thời gian trôi là tuổi trẻ mất và tuổi già đang ch ờ
đón. Do vậy, cảm nhận về sự vận động của thời gian trong th ơ Xuân Diệu
xuất phát từ ý thức về sự mất mát. Cùng với ngày tháng trôi qua, Xuân
Diệu chỉ nhìn thấy sự vật đang bị bào mòn, tàn tạ:
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt
Hoa kia không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nỗi đau
(Hoa nở để mà tàn)
Đằng sau một loạt những “vội vàng”, “giục giã”, “mau với ch ứ”, “g ấp đi
em”… ta hình dung ra điệu bộ cuống cuồng c ủa thi nhân cùng n ỗi ám ảnh
lo sợ: muộn màng, không kịp, lỡ làng, lỡ thì… Nhưng vốn là ng ười ham

sống, Xuân Diệu không cam lòng chịu để cho ngày tháng trôi qua trong


mòn mỏi, vô vị, ông tìm cách chống đỡ, ngăn cản không cho th ời gian c ướp
đi những lạc thú của tuổi trẻ, tình yêu.
Có thể nói rằng, với Xuân Diệu, thời gian là một chất xúc tác đặc bi ệt
tạo nên những luồng rung động đặc biệt trong cảm hứng sáng tạo, thôi
thúc thi sĩ viết nên những câu thơ vừa có sức khái quát, v ừa sinh động g ợi
cảm.
5. Xuân Diệu là nhà thơ rất có ý thức khẳng đ ịnh cái “tôi” cá nhân.
Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ th ể sáng tạo
trước con người và tạo vật. Song nếu như trong th ơ ca trung đại, quan
niệm “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” đã lấn át cái bản ngã thì Th ơ m ới ra
đời đồng nghĩa với sự khẳng định cái “tôi” cá nhân. “Ngày th ứ nhất, ai bi ết
đích ngày nào, chữ “tôi” xuất hiện trong thi đàn Việt Nam. Nó thực sự bỡ
ngỡ như lạc long nơi đất khách bởi nó mang theo một quan niệm ch ưa
từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh).
Xuân Diệu là một nhà Thơ mới tiêu biểu nhất, vì thế rất có ý th ức
khẳng định cái “tôi” của mình. Không phải ngẫu nhiên ông đ ược coi là
người phát ngôn đầy đủ nhất cho tư tưởng cá nhân của phong trào Th ơ
mới. Với Xuân Diệu, cái “tôi” cá nhân được ý thức sâu sắc khi lần đ ầu tiên
trên thi đàn, cái “tôi” tiểu tư sản mạnh dạn bày tỏ những tâm t ư th ầm kín,
những xúc cảm yêu đương tuôn trào, những khát vọng được h ưởng th ụ
không dứt, không nguôi hoa thơm trái ngọt của cu ộc đ ời tr ần th ế. Vì th ế,
Xuân Diệu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước mà còn m ới
lạ so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu m ới có đủ độ n ồng nàn
say đắm nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩ
nói năng rất phương Tây và một triết lí hưởng thụ cũng rất ph ương Tây:
Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Thơ mới là thơ của cái “tôi”, viết về cái “tôi”, nh ưng chỉ v ới Xuân Di ệu, s ự
tồn tại của cái “tôi” mới được đẩy lên với ý nghĩa tuy ệt đối c ủa nó. Th ơ
ông tràn ngập chữ “tôi”, nó được khai thác và biểu hiện ở nhiều cấp độ


khác nhau. Nó có thể là sự phô diễn bức chân dung tự h ọa của nhà th ơ,
nhiều khi nhỏ bé, yếu đuối:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
Tôi là con chim đến từ núi lạ
(Lời thơ vào tập “Gửi hương”)
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
Tôi là kẻ qua sa mạc
Nhưng cũng có lúc cái “tôi” ấy trở nên mạnh mẽ, quyết liệt:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
(Thở than)
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
(Hư vô)
Cũng có thể là sự bộc lộ đến tận cùng khát vọng khi thi nhân xoáy vào
bên trong chiều sâu tâm hồn mình. Đằng sau cái “tôi” tr ữ tình đ ứng ở ngôi
thứ nhất là một hệ thống những động từ chỉ hành động và tư thế cảm xúc
rất Xuân Diệu : Đó là ý thức chiếm lĩnh hương sắc cuộc đời (nắng, gió,
không chờ nắng hạ mới hoài xuân…), hoặc lúc không còn tự chủ đ ược n ữa:

“Tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”, “tôi run như lá, tái nh ư đông”. R ồi tôi nh ớ;
tôi buồn; tôi đã yêu; tôi sung sướng; tôi sẽ chết… Tuy nhiên, kh ẳng đ ịnh cái
“tôi” tích cực, cái “tôi” thấm đẫm màu sắc cá th ể trong th ơ Xuân Di ệu
không chỉ căn cứ vào tần số xuất hiện của chữ “tôi” hoặc vào sự đ ề cao
quá đáng của bản ngã cá nhân thành đỉnh Hi Mã Lạp Sơn ngất ng ưởng, mà
cơ sở chính của nó là sự thành thật của xúc cảm. Th ơ Xuân Di ệu là niềm


khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn u ống c ạn, m ột
cách vồ vập “cái li tràn đầy sự sống”. Trong th ơ Xuân Diệu, toát lên m ột
nhu cầu mãnh liệt: được cảm thông. Con người rất có ý th ức v ề b ản ngã
ấy không phải là cái “tôi” khép kín mà là cái “tôi” luôn ph ơi tr ải, luôn m ở ra
trước cuộc đời, là một tâm hồn khao khát tìm gặp nh ững tâm h ồn. V ới
Xuân Diệu, dù vui hay buồn, sung sướng hay đau khổ, hi v ọng hay th ất
vọng… nghĩa là tất cả những rung động tinh vi c ủa đ ời s ống tâm h ồn đ ều
được Xuân Diệu thành thật bày tỏ. Sự chân thực của tình cảm là m ột ph ẩm
chất tiêu biểu của thơ trữ tình nói chung, đến trào lưu Thơ mới được chú
trọng khai thác và mở thêm nhiều ngóc ngách, phức tạp, tinh vi h ơn để làm
phong phú thêm khả năng tự biểu hiện và sức mạnh h ướng n ội c ủa th ơ.
Dù ở phương diện nào, ta đều thấy ở hồn thơ Xuân Diệu nh ững phẩm
chất nổi bật tiêu biểu cho khát vọng được khẳng định cái “tôi” nh ư m ột
tâm điểm nghệ thuật của thơ lãng mạn 1932-1945.
III. Kết luận:
Sinh thời, Xuân Diệu vẫn tìm đến sự giao cảm với cuộc đời bằng th ơ,
bằng tâm hồn của một nhà thơ thiết tha yêu sự sống. Sự nghiệp mà ông đ ể
lại là một di sản thơ vô giá mà từng ý th ơ, từng l ời th ơ vẫn tiếp t ục n ảy
sinh, đánh thức dậy niềm vui, nỗi buồn và bao xôn xao trong lòng tu ổi tr ẻ
hôm nay. Ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Di ệu đ ược coi là
gương mặt tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca lãng m ạn; là nhà th ơ “m ới
nhất” trong các nhà Thơ mới. Ông đã mang đến cho thi đàn Vi ệt Nam m ột

nguồn cảm hứng yêu đời dào dạt, một luồng rung động mới mẻ tr ước tình
yêu, một nhịp sống hoàn toàn mới lạ và một cái tôi giàu bản sắc. Ông cũng
là người tìm ra nhiều kiểu cấu trúc hiện đại cho câu th ơ Vi ệt Nam và làm
phong phú thêm hình thức thơ bằng những hình ảnh độc đáo và nh ững nét
nhạc điệu tân kì. Có thể nói, sự cộng hưởng gi ữa khát vọng s ống và khát
vọng đổi mới thơ ca là nguồn động lực thúc đẩy mọi sự tìm tòi sáng tạo và
tạo ra sức mạnh cảm hóa đặc biệt của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng
Tháng Tám.
Với nửa thế kỉ hành trình sáng tạo, Xuân Diệu đã để lại cho các th ế
hệ độc giả và nhất là những người cầm bút bài h ọc th ấm thía v ề tài năng
và bản lĩnh thi sĩ. Con đường đi của Xuân Di ệu t ừ một nhà th ơ lãng m ạn
thành một nhà thơ Cách mạng là con đường tiêu bi ểu cho thế hệ Th ơ m ới
1932-1945. Ở cả hai chặng đường ấy, Xuân Diệu đều có nh ững c ống hi ến
hết sức to lớn. Vị trí của ông trên văn đàn dân tộc là một vị trí không ai có
thể thay thế được. Cùng với khát vọng sống thiết tha sôi n ổi, th ơ Xuân
Diệu sẽ tiếp tục hành trình trong cuộc sống hôm nay và mai sau.


ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT VÀ CÁ TÍNH SÁNG TẠO CỦA THƠ XUÂN DIỆU
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

I. Xuân Diệu – Cây đời mãi xanh tươi:
“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong”, Xuân Diệu đã từng sống ở cả ba
miền đất nước. Từ khi còn là một học sinh trung học hay là một viên ch ức,
Xuân Diệu luôn lao động sáng tạo say mê, bền bỉ. V ới h ơn n ửa th ế k ỉ c ầm
bút, ông đã để lại một khối lượng tác ph ẩm đồ sộ: khoảng 50 tác ph ẩm
thuộc nhiều thể loại: thơ, văn, phê bình, nghiên cứu phê bình văn h ọc và
dịch thuật... Ở lĩnh vực nào tài năng Xuân Diệu cũng đ ược ghi nh ận, nh ưng
thơ vẫn là bộ phận sáng tác có giá trị nhất của ông. Xuân Diệu là m ột trong
những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật, Xuân Diệu đã nêu m ột tấm g ương
cho các thế hệ cầm bút về sự cần cù, say mê, không mệt mỏi, đã để lại sự
ngưỡng mộ, khâm phục với bao thế hệ độc giả.
Khi Thơ mới bắt đầu thắng thế, nếu Thế Lữ được coi là ngôi sao sáng
nhất của bầu trời Thơ mới buổi đầu, thì chỉ vài năm sau, ở giai đo ạn th ứ
hai, Thế Lữ phải nhường ngôi “đệ nhất thi sĩ” cho Xuân Di ệu. Trong “Thi
nhân Việt Nam”, Hoài Thanh khi nhận xét (và có ý so sánh) m ột s ố phong


cách các nhà Thơ mới đã tinh tường khái quát: “Hùng tráng nh ư Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa nh ư
Nguyễn Bính, kì dị như Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực,
băn khoăn như Xuân Diệu…”. “Thiết tha, rạo rực, băn khoăn”, phải là ba
tính từ (chứ không phải một) đã thâu tóm đúng thần thái th ơ và đ ời Xuân
Diệu. Các nhà phê bình, các nhà thơ, bạn đọc trong và ngoài n ước đã không
tiếc lời ngợi ca thơ ông, Với Thế Lữ thì Xuân Diệu là “một tâm h ồn đ ằm
thắm và rất dễ cảm xúc”, là “nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu, và c ủa
ánh sáng”, còn thơ Xuân Diệu “không phải là văn ch ương nữa; đó là l ời nói,
là tiếng reo vui hay tiếng năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là nh ững
tình ý rạo rực biến lẩn trong những thanh âm”. “Xuân Diệu là ng ười c ủa
đời, một người ở giữa loài người. Lầu th ơ của ông xây d ựng trên đ ất c ủa
một tấm lòng trần gian”. Cả Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan đều có chung
một đánh giá: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ mới” và “Xuân Di ệu
đã đem đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất”. Hoài Thanh – tác giả
của “Thi nhân Việt Nam” dường như đã giành những tình cảm đặc biệt c ủa
mình cho thi sĩ của tình yêu thương bằng những l ời có cánh: “Th ơ Xuân
Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn n ước non l ặng
lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh tr ời, sống vội vàng, s ống
cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi c ủa mình. Khi vui cũng
như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình

thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn
sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không c ần
phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm m ới là sống. S ự bồng
bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đ ủ h ơn c ả trong
những rung động tinh vi”.
Không thể kể hết những ý kiến, những đánh giá của độc giả giành
cho “thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu” ấy. Tất cả nói lên r ằng Xuân Di ệu đã có
một vị trí khó thay thế trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Khi ông xuất hiện,
Thế Lữ đã từng reo mừng: “Thế là từ nay, chúng ta đã có Xuân Diệu”. Và khi
nhà thơ qua đời, “thế là từ nay chúng ta không còn Xuân Di ệu n ữa”, “M ột
cây lớn đổ xuống làm cho cả một khoảng trời trống vắng” (Hà Xuân
Trường). Tuy nhiên, sự nghiệp mà Xuân Diệu để lại sẽ còn sống mãi trong
lòng người yêu thơ, trong lòng dân tộc, bởi “sự sống còn c ủa m ột nhà văn
là ở tác phẩm”.
II. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu trước CMT8 1945:
Trong “Bài thơ tuổi nhỏ” sáng tác năm 1933 – khi Xuân Diệu m ười
bảy tuổi, thi sĩ đã dõng dạc bày tỏ tuyên ngôn sống của mình:
Giơ tay muốn ôm cả Trái đất


Ghì trước trái tim, ghì trước ngực
Cho đầy trước mắt khoảng cô đơn
Bao la muôn trời, sâu vạn vực…
Đây chính là nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật c ủa ông: ni ềm
khát khao giao cảm với đời, cuộc đời hiểu theoo nghĩa chân th ật và tr ần
thế nhất. Khát khao giao cảm – có thể hiểu là nh ững mong ước, mong
muốn, hi vọng một cách thiết tha, cháy bỏng được hòa nhập, đ ược tiếp
cận, được tâm sự, giãi bày, được cảm thông, chia sẻ. Nhà nghiên c ứu
Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Có thể nói trên đời này có bao nhiêu
cách để tiếp xúc với đời, để tâm sự giao cảm với đời, Xuân Diệu đ ều không

bỏ qua và khai thác triệt để... Đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim c ủa
một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm tràn đầy tính
nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối v ới cu ộc sống và
kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình” (T ư t ưởng và phong cách m ột
nhà thơ lớn).
1. Xuân Diệu sáng tác nhiều và khỏe:
Đây là một cách để được giao hòa, gặp gỡ, tâm sự, giãi bày. Suốt cu ộc
đời lao động bền bỉ của người nghệ sĩ, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp
sáng tác lớn lao với nhiều thể loại. Ở cả hai chặng sáng tác, Xuân Di ệu đ ều
có những cống hiến đáng kể đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông
đã viết gần năm mươi cuốn sách, bình thơ trên bốn trăm cuộc, ngoài ra
còn làm biên tập sách báo, viết báo, làm báo,… thì không k ể hết. Quả th ực
là “một khối lượng khổng lồ” (Mai Quốc Liên). “Bài h ọc l ớn nh ất, t ấm
gương sáng nhất mà Xuân Diệu để lại cho các th ế hệ cầm bút về sau là
tấm gương lao động nghệ thuật cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ, say mê và liên t ục”
(Hà Xuân Trường).
Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là nhà th ơ tiêu bi ểu của
phong trào Thơ mới. Với hai tập “Thơ thơ” (1938) và “Gửi h ương cho gió”
(1945), Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ xuất sắc nhất và
điển hình nhất của phong trào Thơ mới, có nhi ều đóng góp vào vi ệc cách
tân các thể loại thi ca dân tộc và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Nhà th ơ T ế
Hanh khi được hỏi nếu chọn năm nhà th ơ tiêu biểu nhất của phong trào
Thơ mới đã trả lời sau khi suy nghĩ: “Kể cũng khó, nh ưng theo tôi thì ph ải
kể đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc T ử”. Lại h ỏi
tiếp: nếu chọn một người tiêu biểu nhất thì là ai? Tế Hanh đã trả lời ngay:
Xuân Diệu. Như vậy, công lao của Xuân Diệu trong phong trào Th ơ m ới
thật không nhỏ.


Sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu thuộc số ít người ở hàng đ ầu

của nền thơ ca cách mạng, trở thành một trong những người đầu tiên xây
dựng nền móng cho thơ ca cách mạng Việt Nam.
2. Xuân Diệu – nhà thơ của tình yêu:
Sinh thời, Xuân Diệu đã tự nhận mình là “kẻ uống tình yêu dập cả
môi”, thơ viết về tình yêu là mảng đặc sắc nh ất của th ơ Xuân Di ệu. Th ơ
tình của ông có tới vài trăm bài, có những bài về tình yêu hay nh ất trong s ố
những bài thơ tình hiện đại. Một danh hiệu cao quý mà Xuân Di ệu đ ược
phong tặng ngay từ thời “Thơ thơ” và “Gửi h ương cho gió” và mãi sau này
ông vẫn bền bỉ vun đắp bằng cả cuộc đời sáng tạo của mình; đó là danh
hiệu “ông hoàng của thơ tình” hoặc thân thiết hơn là “thi sĩ của tình yêu”…
Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao nh ững đóng góp của Xuân Di ệu trong
địa hạt thơ tình: “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà th ơ tình kiệt
xuất” (Lê Đình Kị), “có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh v ực th ơ tình” (T ố
Hữu). Chính Xuân Diệu, những năm cuối đời nhìn lại suốt chặng đường dài
sáng tạo của mình cũng tự hào rằng “đặc sản của tôi là th ơ tình”, và nh ấn
mạnh: “Đã làm thơ tình là phải làm thơ tình nguyên chất”. Xuân Di ệu là nhà
thơ của niềm giao cảm hết mình với cuộc sống, nên cũng là nhà th ơ th ật
sự của tình yêu; nói cách khác, Xuân Diệu mượn tình yêu đ ể giao tiếp v ới
đời vì tình yêu là một trong những niềm giao cảm mãnh liệt nh ất, sâu s ắc
nhất, toàn vẹn nhất – niềm giao cảm tuyệt vời của tuổi tr ẻ. Đó là s ự hòa
hợp tuyệt diệu giữa hai tâm hồn, hai trái tim, hai thể xác, v ừa r ất m ực tr ần
thế, vừa hết sức cao thượng. Tình yêu là tình cảm người nhất. Có th ể nói,
khát vọng yêu đương nồng nàn và da diết thường th ấy ở Xuân Di ệu cũng
chính là biểu hiện đầy đủ nhất của lòng say mê yêu đời. Đối v ới ông, tình
yêu là biểu tượng tràn đầy rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân và là h ạt nhân
của sự sống. Tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu được hình thành và phát
triển trên cơ sở nguồn cảm xúc yêu đương ấy.
Đi sâu vào thế giới tình yêu của Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đây mọi cung
bậc tình cảm yêu đương muôn thuở của con người. T ừ nh ững tâm tr ạng
nhớ nhung bâng quơ, những hẹn hò xa xôi đến những thứ tình nh ư mây

đưa gió thoảng, từ những tình cảm vu vơ đến thứ tình cho không nh ư “G ửi
hương cho gió”, như “Phấn thông vàng”, từ những phút say nồng c ực l ạc
đến những khoảng trống vắng lạnh lùng… nghĩa là có đủ m ọi tr ạng thái
bâng khuâng, hồi hộp, đắm say, giận dỗi, hờn ghen, hi v ọng, tuy ệt v ọng…
của tình yêu. Nhiều nhà thơ chọn tình yêu làm tiền đề cho cảm h ứng sáng
tạo nhưng có lẽ chỉ Xuân Diệu là đạt đến độ si mê đắm đuối nh ất của c ảm
xúc yêu đương, là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tình yêu của th ời đại.


Đến với tình yêu, Xuân Diệu muốn khám phá thực chất ý nghĩa của nó
và đồng thời qua đó, bộc lộ quan niệm sống của mình. Có th ể coi Xuân
Diệu là người đầu tiên đã đưa vào thơ Việt Nam tình yêu thật sự là tình
yêu, nghĩa là sự giao cảm tuyệt đối, tuyệt đỉnh, sự hòa nh ịp giữa linh h ồn
và thể xác. Tình yêu phải thực sự là tình yêu của con ng ười tr ần t ục ch ứ
không phải thứ tình Biêlinxki từng chế giễu “ch ỉ làm đ ẹp lòng các v ị b ảo
hộ hậu cung vua chúa phương Đông” mà thôi. Tuy nhiên cái đích mà tình
yêu nhằm đạt tới phải là sự hòa hợp cao độ của tâm hồn, là trái tim đ ỏ
thắm của em, tâm hồn xanh thẳm của em, là phút giây giao cảm tuy ệt v ời
của những con người “Trời ơi, anh muốn uống hồn em!”.
Với tình yêu, con người sinh ra để mà yêu ấy luôn sôi n ổi cuồng nhi ệt:
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần,
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái
(Phải nói)
Xuân Diệu ý thức được ý nghĩa cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ, ý nghĩa
tình yêu nằm trong vòng khoảnh khắc, thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều
những khoảnh khắc ngưng đọng của tâm h ồn v ới một c ường đ ộ c ảm xúc
mạnh mẽ: khoảnh khắc gặp gỡ:
Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian

Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ
Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay
(Xuân không mùa)
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,


Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu
(Vì sao)
Khoảnh khắc chợt bùng lên nỗi nhớ:
Anh nhớ tiếng! Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi
(Tương tư chiều)

Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình của ta
Rồi khoảnh khắc vội vàng, giục giã, được giao cảm chiếm lĩnh và khao
khát vươn tới cái vô biên, tuyệt đích:
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi
(Giục giã)
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
Vì luôn khát khao vô biên, tuyệt đích, nên:
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
(Vô biên)

Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu th ứ nhất, là mùa xuân đầu:
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng


Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hát ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước
(Xuân không mùa)
Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh
(Rạo rực)
Sau này, khi đã chiều tà bóng xế, tình yêu trong thơ ông vẫn luôn nồng nàn:
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng
(Đa tình)
Cho đến lúc sắp giã biệt cuộc đời, nhà th ơ vẫn khao khát:
Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
Thơ tình Xuân Diệu thực sự là thơ tình, tình yêu của những người
yêu. Trong “Thơ thơ” có cái rạo rực thiết tha, n ồng cháy, “G ửi h ương cho
gió” có cái da diết, đằm thắm xen lẫn vị đắng cay. Vì h ướng t ới s ự giao c ảm



về phương diện tinh thần và tâm hồn nên tình yêu trong th ơ Xuân Di ệu
rất mãnh liệt và cũng rất trong sáng, lành mạnh. Xuân Diệu yêu đ ời tha
thiết và khao khát được đáp lại:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành
Nhưng do không gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu, chân thật, nên
hầu hết những bài thơ tình của Xuân Diệu là nỗi đau của một trái tim đắm
say, nồng nhiệt mà không được đến đáp xứng đáng và th ường th ấm đãm
nỗi buồn cùng mặc cảm cô đơn. Có lúc sự th ờ ơ, h ờ h ững c ủa ng ười đ ời
khiến trái tim thi sĩ không tránh khỏi sự tủi h ổ:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ lá khoai)
Thậm chí, “chết ở trong lòng một ít” bởi:
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
(Yêu)
Càng yêu, càng thấy “dại khờ”:
Người ta khổ vì thương không phải cách
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người
Có kho vàng, nhưng chẳng tặng tùy nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ


Ta hiểu vì sao trong thế giơi nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân và bình
minh đi liền với những chiều thu và những đêm trăng lạnh, sự n ồng nàn đi
liền với cảm giác bơ vơ...

Trong tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến tận cùng c ủa sự thành th ực:
thành thực nói lên nỗi khát tình dằng dặc của đời mình; thành th ực can
đảm nói lên những mặt trái của tình yêu. Nếu như trong văn chương
truyền thống, nguyên nhân của những mối lương duyên trắc trở là do
khách quan, thì Xuân Diệu thấy nguyên nhân sự phản bội là ở phía ch ủ
quan, đó chính là những góc khuất trong tâm h ồn nh ững đôi tình nhân
đang say sưa kia:
Linh hồn ta còn u uẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió
Anh muốn vào dò xét giấc em mơ
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ
Cũng như em giấu những điều quá thực
(Xa cách)
Khoảng cách về tâm hồn mới là điều đáng sợ nhất, bởi:
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lý trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Nhưng dù tình yêu có được đền đáp hay không, trái tim yêu của Xuân
Diệu vẫn nồng nàn say đắm, vẫn khát khao gặp gỡ, tâm hồn v ẫn “giăng
rộng khắp không gian – Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ”, bởi với thi
sĩ của tình yêu, “Tình yêu không tuổi, và xuân không ngày tháng”.
3.Quan niệm thẩm mỹ:
Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu đã đem lại cho thơ một quan
niệm thẩm mỹ hết sức mới mẻ, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng


trong thi ca: cuộc đời trần thế là đẹp nhất, con người - đ ặc bi ệt là ng ười
thiếu nữ - là tuyệt diệu nhất, là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên đ ời.
Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp. Trường

thơ này quan niệm vũ trụ là một thế giới huyền bí mà mắt th ường không
nhìn thấy được, cái mà con người nhìn th ấy ch ỉ là dấu hi ệu t ượng tr ưng
của bản thể ấy. Vì vậy, các nhà thơ theo trường phái này không ch ủ trương
miêu tả thế giới rõ rệt, hữu hình mà cố gắng miêu tả những biến thái tinh
vi, mong manh, huyền diệu của vũ trụ, lòng người. Trường th ơ t ượng
trưng đề xướng thuyết tương giao và coi trọng tính nhạc. Điều này d ẫn t ới
đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu: đấy là một thế giới tràn đầy xuân
sắc, xuân tình, mà chuẩn mực của cái đẹp là con ng ười gi ữa tình yêu tu ổi
trẻ. Quan điểm mĩ học mới mẻ này đã khiến thi sĩ sáng tạo được nhiều
hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đẹp một cách khỏe khoắn đầy s ức s ống.
Bài thơ “Vội vàng” được coi là tuyên ngôn về quan niệm sống của
Xuân Diệu, một triết lí nhân sinh được thể hiện bằng hình tượng th ơ th ấm
đẫm cảm xúc. Với Xuân Diệu, cuộc sống trần thế đầy h ấp dẫn, đó là m ột
thiên đường trên mặt đất, một khu vườn tràn đầy xuân sắc, một không
gian tươi thắm tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt... mà vạn vật ở độ lên
hương rực rỡ nhất, đều say đắm xuân tình: ong bướm nh ư trong tu ần
tháng mật; hoa phải là hoa của đồng nội xanh rì; lá ph ải là lá c ủa cành t ơ,
chồi biếc; yến oanh rộn rã khúc tình si... Vì vậy, không việc gì ph ải tìm
kiếm thiên đường ở tận đâu, mà hãy yêu mến, gắn bó tận h ưởng hết mình
ngay trong cuộc đời này.
Từ quan niệm coi con người là chuẩn mực cho mọi v ẻ đ ẹp, nhà th ơ
nhìn trời đất, cỏ cây, hoa lá, núi sông... đầy vẻ tình tứ:
Hơi gió thở như mặt người yêu mến
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa
Thời tiết bốn mùa thì: “Xuân: người ta vì ấm mà cần tình, Thu: ng ười ta vì
lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi; Nắng hạ đốt người một cách c ực l ạc và
tiết đông khỏa vào da thịt làm dây cả máu xương”. Mùa xuân đ ược thi sĩ
hình dung, liên tưởng như làn môi căng mọng của người thiếu n ữ “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ hay vào loại hiếm th ấy
trong lịch sử văn học dân tộc. Xuân Diệu đã khái quát lên thành toàn bộ

thế giới xuân tình. Nhìn phấn thông bay, thi sĩ nh ư thấy ái tình t ản m ạn,
ôm ấp không gian, hoa thì không phân biệt được là hoa hay là nh ững thi ếu
nữ đa tình. Biển thì như một người tình say đắm, một trái tim yêu không
bao giờ mệt mỏi... Có thể nói, làm nên những câu th ơ đ ầy c ảm xúc, c ảm


×