Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận kinh tế khu vực tiềm năng và thách thức phát triển năng lượng gió ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.3 KB, 22 trang )

I.

NĂNG LƯỢNG GIÓ
1. Khái niệm
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển
Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử
dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi
trường tự nhiên và đã được biết đến từ thời kỳ Cổ đại.
Tổ chức Năng lượng thế giới (IEA) dự báo rằng, năng lượng gió trên đất
liền sẽ là một trong những nguồn thay thế nhanh chóng nhất, so với các nguồn
năng lượng khác như điện than, địa nhiệt hay điện hạt nhân. Gió được tạo ra bởi
sự phân phối nhiệt mặt trời không đồng đều trên bề mặt trái đất, cũng có nghĩa
rằng, chừng nào mặt trời còn chiếu sáng, chừng đó vẫn còn nguồn năng lượng
gió. Năng lượng gió đã được sử dụng từ hằng trăm năm nay. Con người đã dùng
năng lượng gió để di chuyển thuyền buồm hay khinh khí cầu, ngoài ra năng
lượng gió còn được sử dụng để tạo công cơ học nhờ vào các cối xay gió.
2. Ứng dụng năng lượng gió
Ý tưởng dùng năng lượng gió để sản xuất điện hình thành ngay sau các phát
minh ra điện và máy phát điện. Lúc đầu nguyên tắc của cối xay gió chỉ được
biến đổi nhỏ và thay vì là chuyển đổi động năng của gió thành năng lượng cơ
học thì dùng máy phát điện để sản xuất năng lượng điện. Khi bộ môn cơ học
dòng chảy tiếp tục phát triển thì các thiết bị xây dựng và hình dáng của các cánh


quạt cũng được chế tạo đặc biệt hơn. Ngày nay người ta gọi đó tuốc bin gió, khái
niệm cối xay gió không còn phù hợp nữa vì chúng không còn có thiết bị nghiền.
Từ sau những cuộc khủng hoảng dầu trong thập niên 1970 việc nghiên cứu sản
xuất năng lượng từ các nguồn khác được đẩy mạnh trên toàn thế giới, kể cả việc
phát triển các tuốc bin gió hiện đại.

II.



TIỀM NĂNG VỀ NĂNG LƯỢNG GIÓ Ở VIỆT NAM
1. Phát triển năng lượng gió biển trên thế giới
Theo báo cáo thống kê của Hiệp hội năng lượng tái tạo toàn cầu IREN,
năm 2016 tỷ trọng công suất điện gió mới nhất toàn cầu hiện đang chiếm tổng
9% với tổng các nguồn điện hiện có. Với các quốc gia thì tổng đứng đầu là
Trung Quốc chiếm 34%, Mỹ 17%, Đức 10%, sau đó đến Ấn độ 6%, Tây Ban
Nha 5%, Vương quốc Anh, Canada đều 3%, Pháp, Italia, Brazil đều 2%, còn
Thuỵ Điển, Đan Mạch, Thổ Nhĩ kỳ, Ba Lan đều 1%.


Tỷ trọng Công suất điện gió toàn cầu tính đến hết năm 2016

Các dự án điện gió biển ngoài khơi đầu tiên được lắp đặt ngoài khơi bờ
biển của Đan Mạch vào năm 1991. Kể từ đó, quy mô thương mại các trang trại
gió ngoài khơi đã được hoạt động trong vùng nước nông trên toàn thế giới, chủ
yếu là ở châu Âu. Gần đây sự tiến bộ về công nghệ và giá thành đầu tư giảm đã
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ thị trường điện gió biển toàn cầu, làm cho tài
nguyên năng lượng gió biển trở nên quý giá hơn rất nhiều. Đặc biệt từ năm 2013
trở lại đây khi nguồn lực toàn cầu dành ưu tiên cho khai thác tài nguyên năng
lượng gió biển nhiều quốc gia, với độ sâu lan ra từ 0m nước đến hàng trăm m
nước biển sâu.
Tại Biển Đông có khu vực phía Bắc xung quanh eo Đài Loan có dự án đã
triển khai và nhiều dự án đang được triển khai. Phía Nam Biển Đông có dự án
điện gió biển của Việt Nam. Với tiềm năng tài nguyên năng lượng gió biển tốt,


Việt Nam có thể sớm trở thành quốc gia điện gió biển. Theo số liệu thiết kế trang
trại gió lớn của gần 1.500 trang trại gió đã và đang xây dựng, tốc độ gió trung
bình 10 năm liên tục tầng 100m cho thấy khoảng tốc độ gió từ 7 m/s đến 12,5

m/s có tính hữu ích và thương mại cao. Sự phát triển tài nguyên năng lượng gió
cũng phụ thuộc vào chính sách giá mua điện, đấu nối lưới điện quốc gia, chính
sách thuê mặt biển, chính sách thuế cacbon của quốc gia.
Theo dự tính của các chuyên gia điện gió, tới năm 2030 điện gió biển sẽ
liên tục gia tăng mạnh cùng với gió trên đất liền, có thể đạt tới hơn 100 GW và
có xu hướng tăng mạnh. Hiện các dự án điện gió trên biển Việt Nam cũng thuộc
các trang trại gió lớn được xếp hạng, với tổng 2 đại dự án (nhiều pha) là 1.000
MW với thời gian hoàn thành dự kiến vào năm 2020 là Trang trại Bạc Liêu và
Trang trại Khai Long (Cà Mau) năm 2025.

2. Tiềm năng gió biển Việt Nam
Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là quốc gia có
tiềm năng năng lượng gió lớn nhất trong khu vực, vượt qua Lào, Campuchia và
Thái Lan. Trữ lượng gió của Việt Nam ước tính đạt 513.360 MW, hơn gấp 6 lần
tổng công suất ước tính của toàn ngành điện vào năm 2020. Nghiên cứu của WB
cũng cho thấy, 8,6% diện tích đất liền của Việt Nam rất giàu tiềm năng, thuận lợi
cho việc lắp đặt các tua-bin gió lớn. Con số tương ứng của Campuchia là 0,2%,
Lào là 2,9% và Thái Lan là 0,2%.


Tiến sĩ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo - Tổng cục Biển và
Hải đảo Việt Nam cho biết: Theo phân bố tốc độ gió trung bình nhiều năm trên
toàn Biển Đông, có 2 khu vực có tốc độ gió rất mạnh, khu vực Đông Bắc rộng
lớn gồm cả eo Đài Loan và Luzon và khu vực phía Tây giáp ranh với Nam Bộ
của Việt Nam, có tốc độ gió đạt tới 10-11m/s. Đây cũng chính là những vùng có
tiềm năng công suất điện gió biển lớn. Tại vùng biển Việt Nam có khu vực từ
Bình Thuận đến Cà Mau, khoảng cách từ bờ ra đến 300km là nơi có tốc độ gió
đạt từ 7 đến 11m/s, cũng là nơi tiềm năng công suất năng lượng gió lớn nhất trên
thế giới. Khu vực ven bờ vịnh Bắc Bộ phía Bắc từ Quảng Ninh đến Quảng Trị có
tốc độ gió chủ yếu thấp hơn 6m/s,

Trên Biển Đông, vùng kéo dài dọc theo hướng Đông Bắc-Tây Nam từ eo biển
Đài Loan tới vùng biển khu vực Đông Nam Bộ nước ta có tiềm năng năng lượng
khá cao, đạt 600-800 W/m2/năm (MW/km2/năm). Trong đó khu vực ven biển
cực Nam Trung Bộ là một trung tâm có mật độ năng lượng 400-700W/m2.
Ngoài ra trên khu vực vịnh Bắc Bộ cũng hình thành một trung tâm có mật độ
năng lượng đạt 400-500 W/m2.
Theo độ sâu, địa hình và tốc độ gió trung bình năm (3 mức cao, vừa, thấp)
dựa theo chuỗi 10 năm (đo đạc gió vệ tinh NOAA), khu vực biển ven bờ Việt
Nam được chia thành 5 khu vực như sau (theo đường bờ) gồm: Quảng NinhQuảng Trị (biển thoải, nông, mật độ năng lượng gió vừa); Quảng Bình-Quảng
Ngãi (biển thoải, hẹp, mật độ năng lượng gió thấp); Bình Định-Ninh Thuận (biển


nông hẹp, mật độ năng lượng gió thấp); Bình Thuận-Mũi Cà Mau (biển thoải,
nông, mật độ năng lượng gió cao); Mũi Cà Mau-Kiên Giang (biển nông, mật độ
năng lượng gió vừa).
Phát triển năng lượng gió biển là một trong những giải pháp được đánh giá là
khả thi hiện nay.
Vùng ven biển nước ta, đặc biệt vùng phía Nam có diện tích rộng khoảng
112.000km2, khu vực có độ sâu từ 30m đến 60m có diện tích rộng khoảng
142000km2 có tiềm năng phát triển tốt điện gió biển rất tốt. Đặc biệt khu vực
biển có độ sâu 0-30m từ Bình Thuận đến Cà Mau rộng khoảng 44000km2. Theo
số liệu gió Phú Quý, Côn Đảo thì vùng này đạt tốc độ gió trung bình ở độ cao
100m đạt hơn 5-8m/s. Hiện nay trang trại gió biển đầu tiên với công suất gần
100 MW đã hoạt động và đang nghiên cứu triển khai các giai đoạn tới năm 2025,
lên tới 1.000 MW tức gấp 10 lần.
Vì vậy, cần sớm xây dựng Chiến lược chính sách phát triển điện gió biển Việt
Nam. Bởi các công trình năng lượng gió trên biển nếu được sủ dụng đồng thời
các phương án giải pháp kết hợp với các nguồn khác như mặt trời, sóng biển,
OTEC, năng lượng sinh khối, nuôi trồng thuỷ sản, bảo tồn thuỷ sinh sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế hơn, giúp ngăn ngừa xói sạt lở bờ biển. Mặt khác sẽ là những

điểm tham quan, du lịch học tập, là “mắt thần” giúp tăng cường bảo vệ an ninh
chủ quyền trên biển của Tổ quốc.


III. TÌNH HÌNH KHAI THÁC NĂNG LƯỢNG GIÓ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Năng lượng gió ở Việt Nam là một nguồn năng lượng mới được đầu tư
trong năm 2012 tại 2 tỉnh Bình Thuận và Bạc Liêu. Trong tương lai năng lượng
gió sẽ là điểm nhấn cung cấp điện cho hơn 1/3 điện của cả nước Việt Nam.

1. Hiện trạng phát triển năng lượng gió biển trên thế giới
Theo báo cáo thống kê của Hiệp hội năng lượng tái tạo toàn cầu IREN,
trong năm 2016 tỷ trọng công suất năng lượng gió trên thế giới hiện đang chiếm
tổng 9% với tổng các nguồn điện hiện có. Với các quốc gia thì tổng đứng đầu là
Trung Quốc chiếm 34%, Mỹ 17%, Đức 10%, sau đó đến Ấn độ 6%, Tây Ban
Nha 5%, Vương quốc Anh, Canada đều 3%, Pháp, Italia, Brazil đều 2%, còn
Thụy Điển, Đan Mạch, Thổ Nhĩ kỳ, Ba Lan đều 1%.
Các dự án điện gió biển ngoài khơi đầu tiên được lắp đặt ngoài khơi bờ
biển của Đan Mạch vào năm 1991. Kể từ đó, quy mô thương mại các trang trại
gió ngoài khơi đã được hoạt động trong vùng nước nông trên toàn thế giới, chủ
yếu là ở châu Âu. Gần đây sự tiến bộ về công nghệ và giá thành đầu tư giảm đã
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ thị trường điện gió biển toàn cầu, làm cho tài
nguyên năng lượng gió biển trở nên quý giá hơn rất nhiều. Đặc biệt từ năm 2013
trở lại đây khi nguồn lực toàn cầu dành ưu tiên cho khai thác tài nguyên năng


lượng gió biển nhiều quốc gia, với độ sâu lan ra từ 0m nước đến hàng trăm m
nước biển sâu.
Tại Biển Đông có khu vực phía Bắc xung quanh eo Đài Loan có dự án đã
triển khai và nhiều dự án đang được triển khai. Phía Nam Biển Đông có dự án

điện gió biển của Việt Nam. Với tiềm năng tài nguyên năng lượng gió biển tốt,
Việt Nam có thể sớm trở thành quốc gia điện gió biển. Theo số liệu thiết kế trang
trại gió lớn của gần 1.500 trang trại gió đã và đang xây dựng, tốc độ gió trung
bình 10 năm liên tục tầng 100m cho thấy khoảng tốc độ gió từ 7 m/s đến 12,5
m/s có tính hữu ích và thương mại cao. Sự phát triển tài nguyên năng lượng gió
cũng phụ thuộc vào chính sách giá mua điện, đấu nối lưới điện quốc gia, chính
sách thuê mặt biển, chính sách thuế cacbon của quốc gia.
Theo dự tính của các chuyên gia điện gió, tới năm 2030 điện gió biển sẽ
liên tục gia tăng mạnh cùng với gió trên đất liền, có thể đạt tới hơn 100 GW và
có xu hướng tăng mạnh. Hiện các dự án điện gió trên biển Việt Nam cũng thuộc
các trang trại gió lớn được xếp hạng, với tổng 2 đại dự án (nhiều pha) là 1.000
MW với thời gian hoàn thành dự kiến vào năm 2020 là Trang trại Bạc Liêu và
Trang trại Khai Long (Cà Mau) năm 2025.


Nguồn năng lượng gió ở Bình Thuận

2. Những dự án năng lượng gió ở Việt Nam
Đầu tiên phải kể đến dự án gió ở Bình Thuận. Với điều kiện địa lý thuận
lợi của một địa phương có bờ biển dài, lượng gió nhiều và phân bổ khá đều
quanh năm, tính đến cuối tháng 1 năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đã xây
dựng 16 dự án điện gió với tổng công suất dự tính khoảng 1.300 MW. Trong đó
có 5 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, 9 dự án đã hoàn thành báo cáo
đầu tư trình xin cấp giấy chứng nhận, 2 dự án đang trong giai đoạn khảo sát lập
hồ sơ dự án đầu tư.


Trong số 16 dự án nói trên, Dự án Nhà máy điện gió Tuy Phong, đặt tại xã
Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận do Công ty cổ phần Năng lượng
tái tạo Việt Nam (REVN) đầu tư được triển khai đầu tiên.

Toàn bộ dự án, khi hoàn thành, sẽ có 80 tuabin với tổng công suất 120
MW, sử dụng công nghệ hiện đại của Cộng hòa liên bang Đức.
Giai đoạn 1 của dự án gồm 20 trụ điện gió (tuabin) chiều cao cột 85 m,
đường kính cánh quạt 77 m, công suất 1,5 MW/tuabin; tức tổng công suất của
giai đoạn này là 30 MW. Và mỗi năm dự tính sản xuất khoảng gần 100 triệu
kWh điện. Đến cuối quý 1 năm nay, giai đoạn 1 đã hoàn thành cơ bản; bao gồm
các khâu lắp đặt, đưa vào vận hành và đấu nối với lưới điện quốc gia. Và Nhà
máy điện gió Tuy Phong 1 đã chính thức được khánh thành, đi vào hoạt động từ
ngày 18/4/2012. Đây cũng là nhà máy điện gió đầu tiên của cả nước chính thức
đi vào hoạt động.
Theo kế hoạch, giai đoạn 2 của dự án chuẩn bị khởi công xây dựng và lắp
đặt 60 trụ điện gió (hay tuabin), nâng tổng công suất của toàn bộ Nhà máy
Phong điện Tuy Phong lên 120 MW.
Ở tỉnh Bình Thuận, sau Dự án Tuy Phong đã hòa mạng lưới điện quốc gia
giai đoạn 1 và chuẩn bị thi công giai đoạn 2, dự án điện gió ở đảo Phú Quý với 3
tuabin, tổng công suất 6 MW đã lắp đặt xong và thử vận hành an toàn, bình
thường. Nguồn điện gió Phú Quý, khi chính thức hòa vào dòng điện của nhà
máy điện Diesel hiện có tại đảo, thì đảo Phú Quý sẽ có điện 24/24 giờ.


Ngoài ra, cũng ở Bình Thuận, một dự án điện gió tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc
Bình cũng trong giai đoạn thi công và một số dự án khác đang chuẩn bị triển
khai.
Với các dự án nói trên, rõ ràng, tỉnh Bình Thuận đang đi đầu trên con
đường phát triển năng lượng gió ở Việt Nam.

Ở Nam bộ tỉnh bạc lieu đi tiên phong trong việc đầu tư dự án phát triển
năng lượng gió. Dự án điện gió trên biển đầu tiên nước ta ở tỉnh Bạc Liêu đã
hoàn thành giai đoạn 1 với tuabin thứ 10 lắp đặt thành công vào chiều ngày
2/10/2012.

Toàn bộ Nhà máy điện gió Bạc Liêu được đặt dọc theo đê biển Đông, kéo dài từ
phường Nhà Mát đến ranh giới tỉnh Sóc Trăng và chiểm tổng diện tích gần 500
ha.
Ở đây, các tuabin gió được sản xuất tại Mỹ, làm bằng thép đặc biệt không
gỉ, cao 80m, đường kính 4m, mỗi tuabin có 3 cánh quạt, mỗi cánh dài 42 m, làm
bằng nhựa đặc biệt, có hệ thống điều khiển giúp cánh quạt tự gập lại khi gặp thời
tiết xấu, bão lớn.
Dự án có vốn đầu tư khoảng 5.200 tỷ đồng do Công ty TNHH Xây dựng Thương mại và Du lịch Công Lý (Cà Mau) làm chủ đầu tư. Dự án được khởi
công năm 2010 và dự kiến hoàn thành vào năm 2013.


Trong giai đoạn 1 đã hoàn thành lắp đặt 10 cột (hay tuabin), công suất
tổng cộng của giai đoạn này là 16 MW và điện năng sản xuất dự tính khoảng 56
triệu kWh/năm.
Giai đoạn 2 của dự án sẽ xây lắp tiếp 52 tuabin gió còn lại. Sau khi hoàn
thành, Nhà máy điện gió Bạc Liêu sẽ có tổng số 62 tuabin với tổng công suất
trên 99 MW và điện năng sản xuất ra khoảng 320 triệu kWh/năm.
Nhà máy điện gió Bạc Liêu là một điển hình về việc thu hút doanh nghiệp
tư nhân đầu tư vào ngành điện nói chung và đầu tư vào các nguồn năng lượng tái
tạo nói riêng.
Từ kinh nghiệm này, mới đây UBND tỉnh Trà Vinh, Tập đoàn EAB (Đức)
và Công ty CP Thương mại Sản xuất và Dịch vụ tổng hợp Trasesco đã phối hợp
thực hiện dự án đầu tư năng lượng gió tại Duyên Hải – Trà Vinh với 20 tổ máy,
tổng công suất 30 MW, sản xuất bình quân 75 triệu kWh/năm. Một số địa
phương khác ở Nam Bộ cũng đang xây dựng dự án điện gió cho địa phương
mình.
Như vậy, Bạc Liêu, với dự án điện gió ven biểu đầu tiên hoàn thành giai
đoạn 1, trở thành tỉnh tiên phong ở Nam bộ hay vùng đồng bằng sông Cửu Long
trên con đường phát triển loại điện năng tái tạo mới này.



Dự án điện gió ở Bạc Liêu

IV . CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIÓ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Đứng trước thách thức thiếu hụt điện (không nằm ngoài xu thế chung của
toàn cầu), chúng ta cần cân nhắc những biện pháp ứng xử thích hợp. Trong ngắn
hạn, việc tiết kiệm điện trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đóng vai trò
hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cũng có thể xem xét phương án tăng giá điện
như đề xuất hiện nay của Bộ Công nghiệp. Việc tăng giá điện một mặt có tác
dụng điều chỉnh mức cầu về điện năng, mặt khác giúp tăng tích lũy để mở rộng
đầu tư cho ngành điện. Tuy nhiên, vì việc tăng giá điện sẽ ảnh hưởng trực tiếp


đến đời sống của quảng đại nhân dân và của hoạt động sản xuất kinh doanh nên
giải pháp tăng giá điện cần được cân nhắc một cách thận trọng. Phương án tăng
giá điện phải tính đến tính công bằng giữa các nhóm dân cư có mức thu nhập
khác nhau, trong đó cần hạn chế đến mức độ tối đa tác động tiêu cực đối với các
nhóm dân cư có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, cũng phải lưu ý rằng điện là một
yếu tố đầu vào thiết yếu của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, việc tăng
giá điện sẽ có thể ảnh hưởng tới mức lạm phát vốn đã xấp xỉ ngưỡng hai con số.
Không những thế, nếu nhìn sang các nước xung quanh thì thấy ngay với mức giá
hiện tại, giá điện của Việt Nam đã cao hơn một số nước trong khu vực như Trung
Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, và Malaysia. Như vậy, việc tăng thêm giá điện 1015% trong năm nay và những năm kế tiếp sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế vốn đã bị giảm liên tục trong mấy năm trở lại đây.
Trong trung hạn và dài hạn, Việt Nam cần có chiến lược đảm bảo an ninh năng
lượng bằng cách một mặt mở rộng khai thác những nguồn năng lượng truyền
thống; mặt khác, thậm chí còn quan trọng hơn phát triển các nguồn năng lượng
mới, đặc biệt là các nguồn năng lượng sạch và có khả năng tái tạo. Khả năng này
phụ thuộc rất nhiều vào những phát triển của công nghệ trong tương lai cũng

như vào mức giá tương đối của các nguồn năng lượng khác nhau. Cho đến thời
điểm này, chúng ta mới chú trọng đến phương án thứ nhất, tức là tiếp tục khai
thác các nguồn năng lượng truyền thống, chủ yếu là thủy điện. Về kế hoạch phát
triển nguồn năng lượng mới, ngày 3/1/2006 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã


phê duyệt ''Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình tới
năm 2020''. Theo dự báo của Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia thì vào năm
2020, nếu theo đúng tiến độ thì công suất điện hạt nhân sẽ đạt mức 2000 MW,
bằng 7% tổng công suất. Cũng theo dự báo này, khi ấy nhiệt điện khí sẽ chiếm tỷ
trọng lớn nhất (38%), sau đó là đến thủy điện (29%), nhiệt điện than (17%) và
nhập

khẩu

(9%).

Một điều đáng lưu ý là trong hàng loạt giải pháp phát triển nguồn điện để đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế (như nhập khẩu điện, phát triển thủy điện, hay
điện hạt nhân), dường như Việt Nam còn bỏ quên điện gió, một nguồn điện mà
trong mấy năm trở lại đây có tốc độ phát triển cao nhất trên thị trường điện thế
giới, hơn nữa giá thành ngày càng rẻ và rất thân thiện với môi trường.

1. Tăng giá thành điện gió
Cho đến tận những năm 1990, nhiều người vẫn cho rằng giá thành (bao
gồm giá lắp đặt và vận hành) của các trạm điện gió khá cao. Nhưng ngày nay,
định kiến này đang được nhìn nhận và đánh giá lại, đặc biệt khi quan niệm giá
thành không chỉ bao gồm chi phí kinh tế mà còn gồm cả những chi phí ngoài
(external cost – như chi phí về xã hội do phải tái định cư, hay về môi trường do ô
nhiễm).

Thử lấy một ví dụ cụ thể để so sánh giá thành của điện gió và thủy điện. Nhà
máy thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 MW, được
dự kiến xây dựng trong 7 năm với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD. Giá thành khi


phát điện (chưa tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy để có
được 1 KW công suất cần đầu tư 1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó theo thời
giá năm 2003 đầu tư cho 1 KW điện gió ở nhiều nước Châu Âu cũng vào khoảng
1.000 USD. Đáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm do cải tiến công
nghệ. Nếu thời gian sử dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm thì chi
phí khấu hao cho một KWh điện gió là sẽ 14 USD. Cộng thêm chi phí thường
xuyên thì tổng chi phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng 48 – 60
USD/MWh - tương đương với thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ
và hiệu quả. Theo dự đoán, đến năm 2020 giá thành điện gió sẽ giảm đáng kể,
chỉ khoảng 600 USD/KW, khi ấy chi phí quản lý và vận hành sẽ giảm đáng kể,
chỉ

còn

khoảng

30

USD/MWh.

Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh
những chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió
càng trở nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà
máy nhiệt điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện
lớn), khi sử dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu

hoa màu hay tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm
sóc

sức

khỏe

do

ô

nhiễm.

Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết
kiệm chi phí truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần một lực
lượng lao động là các kỹ sư kỹ thuật vận hành và giám sát lớn hơn các loại hình


khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với kỹ năng cao.

Tại các nước Châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để
xây dựng các trạm tourbin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất (khoảng
20% giá thành vận hành thường xuyên) giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn
định cho nông dân, trong khi diện tích canh tác bị ảnh hưởng không nhiều.

2. Phát triển dự án điện gió tùy vào khu vực
Ở Việt Nam, các khu vực có thể phát triển năng lượng gió không trải đều
trên toàn bộ lãnh thổ. Với ảnh hưởng của gió mùa thì chế độ gió cũng khác nhau.
Nếu ở phía bắc đèo Hải Vân thì mùa gió mạnh chủ yếu trùng với mùa gió đông
bắc, trong đó các khu vực giàu tiềm năng nhất là Quảng Ninh, Quảng Bình, và

Quảng Trị. Ở phần phía Nam đèo Hải Vân, mùa gió mạnh trùng với mùa gió Tây
Nam, và các vùng tiềm năng nhất thuộc cao nguyên Tây Nguyên, các tỉnh ven
biển đồng bằng sông Cửu Long, và đặc biệt là khu vực ven biển của hai tỉnh
Bình

Thuận,

Ninh

Thuận.

Theo nghiên cứu của NHTG, trên lãnh thổ Việt Nam, hai vùng giàu tiềm năng
nhất để phát triển năng lượng gió là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ
cao 60-100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không
những có vận tốc trung bình lớn, mà còn có một thuận lợi khác, đó là số lượng
các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định. Đây là những điều kiện rất


thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió
nam và đông nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6-7m/s, tức là vận tốc có
thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3 - 3,5 MW. Thực tế là người dân khu
vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy phát điện gió cỡ nhỏ nhằm mục
đích thắp sáng. Ở cả hai khu vực này dân cư thưa thớt, thời tiết khô nóng, khắc
nghiệt, và là những vùng dân tộc đặc biệt khó khăn của Việt Nam.

Mặc dù có nhiều thuận lợi như đã nêu trên, nhưng chúng ta cần phải lưu ý một
số điểm đặc thù của năng lượng gió để có thể phát triển nó một cách có hiệu quả
nhất. Nhược điểm lớn nhất của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều kiện
thời tiết và chế độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần nghiên cứu hết sức chi tiết về chế
độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối (có ảnh hưởng không

tốt đến máy phát). Cũng vì những lý do có tính phụ thuộc vào điều kiện môi
trường như trên, năng lượng gió tuy ngày càng phổ biến và quan trọng nhưng
không thể là nguồn năng lượng chủ lực. Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa điện


gió và thủy điện tích năng lại mở ra cơ hội cho Việt Nam, một mặt đa dạng hóa
được nguồn năng lượng trong đó kết hợp những nguồn năng truyền thống với
những nguồn lượng tái tạo sạch với chi phí hợp lý; mặt khác khai thác được thế
mạnh, đồng thời hạn chế của mỗi nguồn năng lượng, và tận dụng các nguồn
năng lượng này trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau. Một điểm cần lưu ý nữa là
khả năng các trạm điện gió sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành, cũng
như có thể phá vỡ cảnh quan tự nhiên và có thể ảnh hưởng đến tín hiệu của các
sóng vô tuyến nếu các yếu tố về kỹ thuật không được quan tâm đúng mức. Do
vậy, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến các khu
dân cư,

khu du

lịch

để không gây

những tác

động

tiêu

cực.


3. Những khuyến nghị của GWEC để phát triển những dự
án điện gió ở Việt Nam
-

Hợp đồng mua bán điện (PPA) được chuẩn hóa.

Đặc điểm của điện gió là chi phí dự án phần lớn đều là chi đầu tư trả trước,
không phát sinh chi phí nhiên liệu và chi phí vận hành và bảo trì trong suốt vòng
đời của dự án tương đối nhỏ. Do đó, vốn và chi phí vốn là yếu tố quan trọng tạo
nên sức hấp dẫn đầu tư của điện gió.
Hợp đồng mua bán điện (PPA) là yếu tố quan trọng nhất quyết định chi phí vốn.
PPA được chuẩn hóa, minh bạch và được các tổ chức tài chính chấp nhận là cần


thiết để giảm rủi ro và chi phí vốn. Chúng tôi rất vui khi thấy rằng gần đây nhiều
PPA cho các dự án điện gió đã được kí kết, song PPA vẫn cần được tinh chỉnh
hơn nữa để được các tổ chức tài chính quốc tế chấp thuận và để công suất phát
điện sử dụng năng lượng gió ở Việt Nam đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện
tăng cao.
-

Quy trình phê duyệt dự án đơn giản hóa và rõ ràng.

Quy trình phê duyệt dự án rõ ràng, minh bạch và có thời hạn cụ thể là rất quan
trọng để giảm tính bất trắc, tăng niềm tin của thị trường và nhà đầu tư cũng như
tối đa hóa tăng trưởng ngành.
- Quy hoạch trước hạ tầng lưới điện.
Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với nguồn thủy điện dồi dào. Đây là lợi thế
quan trọng giúp thiết lập hệ thống lưới điện hiện đại và linh hoạt. Tuy nhiên, với
tốc độ tăng trưởng vượt trội được dự báo của ngành điện, cần có quy hoạch và

đầu tư để đảm bảo bổ sung thành công nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và
điện mặt trời vào hệ thống.
-

Thành lập Hiệp hội điện gió Quốc gia.

Ngành điện gió Việt Nam đã sẵn sàng để tăng trưởng mạnh mẽ. Một ngành công
nghiệp mạnh tầm quốc gia cần có một hiệp hội ngành đủ mạnh để hỗ trợ ngành
phát triển. Hiệp hội ngành đóng vai trò không thể thiếu trong việc hỗ trợ để
ngành điện gió phát triển lành mạnh. Thực tiễn này đã được áp dụng trên nhiều


quốc gia đứng đầu về điện gió như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức, Đan Mạch, Ấn
Độ, Tây Ban Nha, Brazil, Vương quốc Anh, Pháp và Mexico.
Hiệp hội điện gió quốc gia có thể giữ vai trò lèo lái chính trong các sáng kiến lập
pháp và góp phần giúp chính phủ hỗ trợ ngành, đồng thời thúc đẩy đối thoại trực
tiếp trong mô hình Hợp tác công - tư, tạo cơ sở hợp tác phù hợp với năng lực của
các bên. Hiệp hội có thể giúp chính phủ trao đổi một cách hiệu quả với ngành,
đồng thời là đầu mối để ngành tương tác với chính phủ. Hiệp hội cũng có thể
góp phần phát triển ngành thông qua các hội nghị, hội thảo và các chương trình
giáo dục đào tạo trong ngành.
Hiệp hội điện gió toàn cầu sẵn sàng tạo điều kiện và trợ giúp để ngành điện gió
Việt Nam phát triển hơn nữa. Để làm được điều này, cần một hiệp hội điện gió
quốc gia có năng lực và ngành điện gió trong nước đủ mạnh để đảm bảo Việt
Nam có thể thu được lợi ích tối đa từ nguồn tài nguyên gió dồi dào. Chúng tôi tin
rằng tương lai ngành điện gió của Việt Nam sẽ hết sức tươi sáng và rất sẵn lòng
hỗ trợ nếu cần.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. />2. Vietnam Offshore wind farm, 2016. Global Offshore wind farm database.
/>3. />


×