Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận kinh tế khu vực thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê việt nam xuất khẩu sang thị trường liên minh châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.85 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một nước nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và có lưu lượng mưa lớn
cho nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Thêm vào
đó, vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có không khí mát mẻ cộng với nền đất
bazan màu mỡ rất thích hợp cho việc phất triển cây công nghiệp trong đó cà phê là
một loại cây điển hình.
Xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng là một trong
những ngành đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước. Đây là một
ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, giúp thúc đẩy phát triển nền kinh tế, giải
quyết vấn đề việc làm, giảm gánh nặng cho xã hội… Những năm gần đây Việt Nam
là một nước đứng thứ hai trên thế giới trong việc xuất khẩu cà phê (đứng sau
Brazin), riêng về cà phê Robusta thì xuất khẩu đứng đầu thế giới. Niên vụ
2010/2011, cả nước xuất khẩu được trên 1,2 triệu tấn cà phê tại hơn 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ; kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 2,7 tỷ USD năm 2011, đóng góp vào
khoảng 2% GDP của cả nước. Điều này đã góp phần không nhỏ cho sự tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, giảm thâm hụt thương mại và một phần giải quyết vấn đề xoá đói
giảm nghèo cho người dân, đặc biệt ở nông thôn.
Trong đó, EU là thị trường tiêu thụ và nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới,
cũng là thị trường định hướng xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Năm 2005, cà phê
Việt Nam xuất khẩu sang EU chiếm đến 49% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của
cả nước, đạt kim ngạch khoảng 341 triệu EUR, nhưng đến năm 2011, con số kim
ngạch xuất khẩu đã tăng gấp 2,7 lần, đạt 931 triệu EUR; mức thị phần trung bình
chiếm khoảng 19,15% giai đoạn 2005-2011 trên thị trường EU. Đây là thị trường
tiềm năng cho Việt Nam về mặt hàng cà phê nói riêng và hầu hết các mặt hàng khác
nói chung.
Tuy nhiên, không chỉ riêng Việt Nam, mà rất nhiều quốc gia khác cũng đang
chú trọng đầu tư phát triển cho cây cà phê, cạnh tranh trong ngành ngày càng trở
nên gay gắt. Trong khi đó, ngành cà phê Việt Nam lại còn khá non trẻ nên đã phải
đối mặt với không ít khó khăn, cả trong lĩnh vực trồng trọt lẫn chế biến kinh doanh



và xuất khẩu. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 trên thị trường thế
giới nói chung và thị trường EU nói riêng, nhưng đó chỉ là cái tiếng về mặt sản
lượng. Trên thực tế, đến 99% lượng cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang EU còn
dưới dạng nguyên liệu nhân thô, chủng loại đơn điệu, rất ít các sản phẩm cà phê đặc
biệt và giá trị cao; chất lượng thì còn quá thấp, số lượng cà phê bị thải loại chiếm tỉ
lệ cao nhất thế giới, đến 61,53% tổng khối lượng cà phê bị thải loại niên vụ
2007/2008; chưa xây dựng được uy tín thương hiệu trên thị trường EU, vì vậy giá
cà phê Việt Nam xuất sang thị trường này thấp hơn rất nhiều so với mặt hàng cùng
loại của các nước khác, đặc biệt là khi so sánh với các nước như Colombia, Peru,
Braxin...Với mặt hàng cà phê Arabica rất được người tiêu dùng EU ưa chuộng thì
Việt Nam lại xuất khẩu rất ít, do Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu loại cà
phê Robusta, chiếm đến 95% tổng sản lượng của Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành cà
phê nước ta còn phải đối mặt với những vấn đề như thiếu vốn, thiếu nguồn cung
ứng vật tư và máy móc hiện đại, trình độ quản lý yếu kém… Song, các đối thủ cạnh
tranh của ta trên thị trường EU lại là những cường quốc về cà phê như Braxin,
Colombia và các quốc gia Mỹ Latin khác.
Vì vậy, với những hạn chế trên thì việc nghiên cứu để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU, chỉ ra được
điểm mạnh, điểm yếu so với đối thủ cạnh tranh, từ đó vạch ra những giải pháp nhằm
khắc phục và phát triển ngành cà phê một cách bền vững là điều rất cần thiết để
khẳng định vị thế của nước ta trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, chúng em đã quyết
định chọn đề tài “Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Liên minh Châu Âu” làm đề tài cho tiểu luận môn
Kinh tế khu vực của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU


Khái quát hóa một số lý luận về năng lực cạnh tranh.




Phân tích, đánh giá thực trạng và năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU; chỉ đã những điểm mạnh, điểm yếu
so với đối thủ cạnh tranh và nguyên nhân.



Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà
phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.
2


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt
Nam sang thị trường EU và các giải pháp hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu cà phê
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt
Nam ở phạm vi thị trường EU, chủ yếu trong giai đoạn 2005-2011; dự báo, định
hướng và đưa ra một số giải pháp cho giai đoạn đến năm 2020. Cà phê được nói đến
trong đề tài là cà phê nhân, cà phê rang xay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp thu thập số liệu
Nguồn số liệu được thu thập chủ yếu từ các nguồn: Sách, báo, internet, các
bài chuyên đề có liên quan, …
4.2 Phương pháp phân tích
Phương pháp được áp dụng là thống kê mô tả, phân tích biểu bảng thống kê.
Sử dụng các số tuyệt đối, số tương đối để phân tích và chứng minh.

3



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lý luận chung về năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế, thương mại, chính trị, quân sự, luật, thể thao… và được sự quan tâm của
nhiều chủ thể, xem xét ở các góc độ khác nhau tùy thuộc vào hướng tiếp cận của
từng chủ thể. Vì thế có rất nhiều khái niệm xoay quanh thuật ngữ “cạnh tranh”.
Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển kinh doanh của Anh xuất
bản năm 1992, cạnh tranh là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình” (Lê Danh Vĩnh & Hoàng Xuân Bắc & Nguyễn Ngọc Sơn, 2010, tr.11).
Trong kinh tế chính trị học, theo quan điểm của K.Marx thì “cạnh tranh là sự
ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh với
nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng
hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình” (Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2004, tr.48).
Nhà kinh tế học M.Porter của Mĩ thì cho rằng cạnh tranh là giành lấy thị
phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn
mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh
tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (Văn Diệp, 2009).
Tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa
những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể nào đó
nhằm giành giật khách hàng, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu
được lợi nhuận cao. Sự cạnh tranh diễn ra là tất yếu, nó là động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế.
1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê
xuất khẩu theo Mô hình kim cương của M.Porter

Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, M.Porter đã đưa ra
“mô hình kim cương”, đem lại một cái nhìn tổng quan có tính chất chi tiết về những
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, đó là (i) điều kiện các yếu tố sản xuất,
4


(ii) điều kiện nhu cầu trong nước, (iii) các ngành hỗ trợ và có liên quan, (iv) môi
trường cạnh tranh và cơ cấu ngành. Toàn bộ 4 thành phần đó, cũng như mỗi thành
phần, lại chịu tác động của 2 yếu tố bên ngoài là cơ hội và Nhà nước.
1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm


Hệ số lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed Competitive Advantage)
Hệ số RCA do nhà kinh tế học Balassa đề xuất năm 1965 để đo lường lợi thế

so sánh theo số liệu xuất khẩu, chỉ ra khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của một
quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu về sản phẩm đó
của thế giới.
RCA = (Xij / Xi) / (Wj / W)
Trong đó:
 RCA: lợi thế so sánh biểu hiện mặt hàng xuất khẩu j của quốc gia i
 Xij: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i
 Xi: tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i
 Wj: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới
 W: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới
Kết quả tính toán:
 RCA<1: sản phẩm xem xét không có khả năng cạnh tranh
 1 RCA>2,5: sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao
Khi so sánh hệ số RCA của cùng mặt hàng của hai nước thì nước nào có hệ

số RCA lớn hơn sẽ có lợi thế xuất khẩu cao hơn.


Thị phần
Chỉ tiêu thị phần phản ánh vị trí của một quốc gia về một mặt hàng nào đó trên thị

trường. Khi thị phần một mặt hàng của một quốc gia càng lớn thì mặt hàng đó càng có
NLCT mạnh, khả năng cạnh tranh của mặt hàng này đối với thị trường càng cao. Thị
phần càng vượt xa đối thủ của nước khác thì sản phẩm của chủ thể càng có lợi thế trong
cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Thị phần được tính theo công thức sau:
MS = (MA / M) x 100%h
Trong đó:
5




MS: thị phần mặt hàng M của quốc gia A xuất khẩu vào thị trường X



MA: sản lượng xuất khẩu (hoặc kim ngạch xuất khẩu) mặt hàng M
của quốc gia A vào thị trường X



M: tổng sản lượng xuất khẩu (hoặc tổng kim ngạch xuất khẩu) mặt
hàng M của toàn thế giới vào thị trường X

1.2 Tổng quan về thị trường cà phê tại EU

1.2.1 Đặc điểm thị trường cà phê tại EU
1.2.1.1 Nhu cầu và nguồn cung cà phê tại thị trường EU


Nhu cầu cà phê tại thị trường EU
EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới. Với dân số trên 501 triệu

người vào năm 2010, mức tiêu thụ trên thị trường EU chiếm khoảng 31% tổng sản
lượng tiêu thụ cà phê của thế giới. Trung bình mỗi người dân EU tiêu thụ khoảng 45 kg cà phê mỗi năm (năm 2010 là 4,92 kg/người). Trong giai đoạn 2005-2010, mức
tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tại EU tuy tăng giảm qua các năm nhưng chênh
lệch không nhiều và vẫn cao hơn mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tại Hoa
Kỳ (4,11 kg/người năm 2010), thuộc mức cao trên thế giới. Luxembourg là nước có
mức tiêu thụ cà phê bình quân lớn nhất trong khối Liên minh Châu Âu (28,44 kg/
người năm 2010).
Bảng 1.1: Mức tiêu thụ cà phê bình quân tại EU, giai đoạn 2005-2010
Đơn vị: kg/người
Năm
Mức tiêu thụ

2005
4,81

2006
5,01

2007
2008
2009
2010
4,95

4,88
4,79
4,92
Nguồn: ICO, 2009 A, tr.7 + ICO, 2012, tr.8

Giai đoạn 2005-2009, sản lượng cà phê sản xuất của EU giữ mức ổn định
trên 2,3 triệu tấn mỗi năm, bao gồm cả cà phê nhân, cà phê rang xay và cà phê hoà
tan, trong đó cà phê rang xay chiếm tỉ lệ lớn nhất khoảng 76,5% tổng sản lượng sản
xuất năm 2009, nguồn nguyên liệu cho cà phê rang xay và hoà tan chủ yếu lấy từ
nhập khẩu. Cà phê sản xuất ra phục vụ cho cả nhu cầu tiêu thụ trong nước lẫn xuất
khẩu, nước có sản lượng sản xuất nhiều nhất là Đức với 862.707 tấn năm 2009,
chiếm gần 37%.

6


Bảng 1.2: Sản lượng cà phê sản xuất tại EU giai đoạn 2005-2009
Đơn vị: Tấn
Năm
Sản lượng

2005
2006
2007
2008
2009
2.326.196
2.332.255
2.489.428
2.474.176

2.359.098
Nguồn: ECF, 2006, tr.11 + ECF, 2008, tr.13 + ECF, 2011, tr.13

Để phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ nội địa, sản xuất và chế biến lớn như vậy,
hàng năm thị trường này nhập khẩu một lượng lớn cà phê từ các nước trên thế giới.


Nguồn cung cà phê tại thị trường EU
Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng cà phê nên sản lượng

cà phê nhân rất ít, nguồn cung chủ yếu là từ nhập khẩu.
 Cơ cấu chủng loại nhập khẩu
Các mặt hàng cà phê mà EU nhập khẩu là cà phê nhân, cà phê rang xay và cà phê
hòa tan. Cà phê nhân được nhập khẩu với khối lượng nhiều nhất, các doanh nghiệp có nhu
cầu nhập khẩu cà phê này chủ yếu để chế biến và xuất khẩu ra nước ngoài. Cà phê hoà tan
nhập khẩu vào EU giảm một lượng lớn gần 11% giai đoạn 2007-2009, điều này là do ảnh
hưởng của cuộc suy thoái kinh tế dẫn đến việc người dân ít tiêu thụ cà phê hơn, bằng chứng
là mức tiêu thụ cà phê bình quân đã giảm từ 4,95 kg/người năm 2007 xuống còn 4,88 kg
năm 2008 và năm 2009 là 4,79 kg. Bên cạnh đó, cà phê nhân nhập khẩu cũng giảm 1,94%
từ năm 2008 sang 2009 do sự đóng cửa của một số cơ sở rang xay cà phê, khiến cho ít cà
phê nhân được nhập khẩu hơn và số lượng cà phê rang xay nhập khẩu tăng lên.
Bảng 1.3: Cơ cấu các sản phẩm cà phê nhập khẩu vào thị trường EU,
giai đoạn 2005-2011
Đơn vị: tấn
Loại
Mã số HS
2005
2006
2007
2008

2009
2010
2011

Cà phê nhân
Cà phê rang xay
Cà phê hòa tan
090111+090112
090121+090122
210111+210122
2.519.132
12.312
42.927
2.669.882
14.712
45.376
2.733.429
18.756
51.989
2.742.121
23.519
49.103
2.688.905
27.078
46.274
2.751.790
34.917
46.672
2.727.382
38.839

44.900
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

Lưu ý: Bảng 1.5: Kim ngạch nhập khẩu cà phê của EU giai đoạn 2005-2011
Đơn vị: 1000 EUR
7




Cà phê

Cà phê

m
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

nhân
3.638.748
4.237.886
4.568.247
5.164.728
4.708.749
5.798.633

8.400.232

rang xay
104.411
134.593
289.897
432.001
553.556
800.895
997.444

Cà phê

Tổng kim

Mức thay đổi so với

hòa tan
ngạch
năm trước đó (%)
216.545
3.959.504
_
253.656
4.626.135
16,84
310.007
5.168.151
11,72
330.987

5.927.717
14,70
329.019
5.591.224
-5,68
294.644
6.894.172
23,30
349.993
9.747.669
41,39
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

Kim ngạch nhập khẩu cà phê của EU nhìn chung tăng qua các năm, đặc biệt
là cà phê nhân và cà phê rang xay. Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 ở mức trên 3,9
tỉ EUR, đến năm 2011, con số này đã đạt trên 9,7 tỉ EUR, gấp 2,5 lần so với năm
2005, mức tăng này là do giá cà phê tăng cao những năm gần đây. Riêng giai đoạn
2008-2009 có sự giảm sút 5,68% do sự sụt giảm trong sản lượng cà phê nhập khẩu.
 Cơ cấu thị trường nhập khẩu
EU nhập khẩu cà phê từ rất nhiều nước trên thế giới. Các quốc gia cung ứng
cà phê nhân hàng đầu vào EU là Braxin, Việt Nam, Ấn Độ, Indonexia, Colombia,
Peru... Trong đó, năm 2011, chỉ riêng 3 quốc gia đứng đầu là Braxin, Việt Nam, Ấn
Độ đã chiếm đến 56,2% trong tổng khối lượng cà phê nhân nhập khẩu của EU.
Bảng 1.6: Khối lượng cà phê 10 quốc gia hàng đầu xuất khẩu cà phê
nhân vào thị trường EU, giai đoạn 2008-2011
Năm
Braxin
Việt Nam
Indonesia
Honduras

Peru
Colombia
Uganda
Ethiopia
Ấn Độ
Guatemala

2008
Tấn
%
822.531 30,0
510.508 18,6
165.871 6,0
135.421 4,9
132.344 4,8
238.927 8,7
119.789 4,4
87.803 3,2
95.986 3,5
60.541 2,2

2009
2010
2011
Tấn
%
Tấn
%
Tấn
%

877.204 32,6 896.306 32,6 827.096 32,0
506.146 18,8 542.353 19,7 504.434 18,5
178.017 6,6 159.171 5,8 119.151 4,4
143.418 5,3 155.399 5,6 149.532 5,5
131.726 4,9 144.877 5,3 149.343 5,5
132.187 4,9 90.383 3,3 107.373 3,9
129.261 4,8 105.138 3,8 110.197 4,0
79.306 2,9 101.101 3,7 104.567 3,8
77.872 2,9 108.889 4,0 154.587 5,7
47.117 1,8 54.471 2,0 44.118 1,6
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

Trong những năm trước, Braxin, Việt Nam và Colombia là 3 nhà cung ứng
cà phê nhân hàng đầu cho EU, nhưng đến năm 2009, Indonesia đã thế Colombia trở
8


thành nước xuất khẩu lớn thứ 3, Combia bị đẩy xuống vị trí thứ 6 và đến năm 2011,
vị trí của Colombia là thứ 8. Nguyên nhân là do sản lượng cà phê của nước này bị
ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết bất lợi và tác động tạm thời của chương trình trẻ
hóa tại quốc gia này. Những cây trồng cũ được thay thế bởi những cây mới để đảm
bảo cải thiện năng suất trong dài hạn, nhưng sẽ phải mất một khoảng thời gian trước
khi các cây cà phê này có thể thu hoạch lại. Năm 2011, Indonesia lại phải nhường vị
trí thứ 3 cho Ấn Độ, như vậy chỉ có Braxin và Việt Nam là duy trì ổn định ở 2 vị trí
đầu, Braxin là nước có sản lượng xuất khẩu cà phê nhân lớn nhất vào EU.
1.2.3 Các qui định nhằm kiểm soát việc nhập khẩu cà phê vào thị trường EU
EU là một thị trường đầy hứa hẹn nhưng nổi tiếng với những qui định khắt
khe nhằm kiểm soát nhập khẩu. Các qui định được áp dụng phổ biến là thuế quan,
hạn chế về số lượng, hàng rào kĩ thuật...
1.3 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt

Nam xuất khẩu sang thị trường EU
1.3.1 Năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam còn hạn chế
EU là thị trường nhập khẩu tiềm năng nhưng là thị trường nổi tiếng với nhiều
qui định về hàng rào kĩ thuật, các tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh thực phẩm.
Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, trình độ chưa cao thì việc thỏa mãn
thị trường này sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Quá trình trồng trọt, chế biến sản xuất cà
phê của Việt Nam chưa đồng bộ, dẫn đến chất lượng sản phẩm còn thấp, không đảm
bảo và ổn định, tỉ lệ cà phê Việt Nam vào thị trường EU bị trả lại do không đạt tiêu
chuẩn nhập khẩu còn khá cao. Nhiều doanh nghiệp không muốn mang hàng về nên
bán tháo khiến cho người mua hàng có ấn tượng không tốt về sản phẩm cà phê Việt
Nam, chưa tạo được thương hiệu uy tín trên thị trường này, NLCT còn hạn chế.
Tuy Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 vào thị trường EU nhưng
do chất lượng cà phê không tốt, chưa tạo được thương hiệu nên khi kí kết hợp đồng
mua bán, cà phê Việt Nam thường bị ép giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh, vì thế kim
ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam chưa cao. Bên cạnh đó, các sản phẩm cà phê
Việt Nam đưa vào thị trường EU chủ yếu là sản phẩm dạng nhân thô, chủng loại sản
phẩm đơn điệu nên phần thu về và giá trị gia tăng còn ít. Do vậy, Việt Nam cần phải
nâng cao hơn nữa NLCT cho mặt hàng cà phê, cà phê Việt Nam không chỉ phải đảm
9


bảo về mặt sản lượng mà còn đảm bảo chất lượng tốt, đạt chuẩn, xây dựng được
thương hiệu vững mạnh, giá thành và thị phần cao hơn đối thủ cạnh tranh.
1.3.2 Thị trường EU là thị trường làm cơ sở quan trọng cho việc mở rộng sang
thị trường mới.
Hiện nay, với chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thì ngoài các thị
trường truyền thống như EU, Hoa Kỳ, Việt Nam vẫn đang nỗ lực tìm kiếm, khai
thác những thị trường mới tiềm năng cho mặt hàng cà phê. Tuy nhiên, dù có tìm
kiếm mở rộng vào các thị trường mới thì Việt Nam vẫn cần phải nắm chắc, nâng
cao NLCT, duy trì thị phần ở thị trường cũ. Việc Việt Nam thành công ở một thị

trường khắt khe, đòi hỏi tiêu chuẩn và chất lượng cao như EU sẽ là nền tảng vững
chắc cho ta trong việc thâm nhập thị trường mới, nâng cao được uy tín thương hiệu
và tích lũy thêm kinh nghiệm quý báu, giúp thành công ở những thị trường mới.

10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG CÀ
PHÊ CỦA VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG EU
2.1 Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU
2.1.1 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu
Bảng 2.1: Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU giai
đoạn 2005-2011
Năm

Khối lượng

2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

(tấn)
446.940
543.748
615.459
510.644

506.338
542.663
504.777

Mức thay đổi so

Kim ngạch

Mức thay đổi so

với năm trước đó
với năm trước đó
(%)
(1000 EUR)
(%)
_
341.297
_
21,66
567.317
66,22
13,19
770.103
35,74
-17,03
766.594
-0,46
-0.84
633.794
-17,32

7,17
666.202
5,11
-6,98
931.094
39,76
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

So sánh giữa năm 2006 và 2011, ta thấy khối lượng cà phê xuất khẩu sang
EU chênh lệch không nhiều, thậm chí sản lượng năm 2011 còn thấp hơn năm 2006,
tuy nhiên mức tăng kim ngạch lại tương đối cao, đến gần 364 triệu EUR, đây là do
sự gia tăng mạnh về giá. Đặc biệt vào năm 2008, sản lượng giảm đáng kể 17,03%
nhưng kim ngạch chỉ giảm có 0,46%. Ngược lại sang năm 2009, sản lượng chỉ giảm
có 0,84% nhưng kim ngạch lại giảm đến 17,32%. Lý do là giá cà phê biến động liên
tục khiến cho thị trường EU cũng không ổn định, tăng giảm theo những biến động
phức tạp của thị trường cà phê thế giới. Thế nhưng trong năm gần đây, khối lượng
và kim ngạch đã ổn định và đi theo chiều hướng gia tăng như biểu đồ dưới đây.

11


Biểu đồ 2.1: Khối lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường EU giai đoạn 2005-2011
700

1,000
900
800

500


700

400

600
500

300

400
300

200

1000 EUR

T ấn

600

200

100

100

0
1


2

Khối
3 lượng4

Kim
5 ngạch 6

0
7

Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa
2.1.2 Cơ cấu chủng loại xuất khẩu
Về cơ cấu chủng loại, Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là loại cà phê
Robusta, chiếm khoảng 94% sản lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
này, loại cà phê Arabica chiếm chưa đến 5%, cà phê chế biến thì gần 1%. Năm 2011
xuất vào EU mặt hàng cà phê nhân chưa rang, chưa tách cafein là 539.410 tấn trên
tổng số 540.777 tấn, chiếm tỉ trọng tới 99,75%. Chủng loại xuất khẩu cà phê nhân
của Việt Nam như vậy là chưa phù hợp với thị hiếu của thị trường EU, vì thị trường
này ưa thích loại cà phê Arabica có hương vị dịu, hàm lượng cafein thấp chỉ bằng
một nửa so với Robusta. Loại cà phê này chiếm tỉ lệ 65,8% lượng cà phê nhập khẩu
vào EU, Robusta là 34%, các loại khác chỉ có 0,2%.
Về sản phẩm cà phê đã qua chế biến là cà phê rang xay và hòa tan, Việt Nam
xuất khẩu sang với 1 tỉ trọng nhỏ. Năm 2011 xuất sang EU chỉ có 83,7 tấn cà phê
rang xay và 259,4 tấn cà phê hòa tan, khối lượng xuất khẩu như vậy là không đáng
kể so với tổng sản lượng cà phê Việt Nam xuất sang EU. Mặt hàng chủ yếu chỉ là
những sản phẩm cà phê chế biến đơn giản, cà phê rang đã tách cafein chỉ có 0,2 tấn,
còn lại 83,5 tấn là cà phê rang chưa tách cafein. Đối với những loại cà phê chế biến
sâu yêu cầu kỹ thuật cao, hiện đại, Việt Nam sản xuất được rất ít.


12


2.1.3 Giá xuất khẩu
Biểu đồ 2.2: Giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường

EUR/ tấn

EU, giai đoạn 2005-2011
2,000
1,800
1,600
1,4 00
1,200
1,000
764
800
600
4 00
200
0
2005

184 5
1501
104 3

2006

1252


2007

1252
1228

2008

2009

2010

2011

Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa
Do chủng loại xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là cà phê nhân nên
mức giá xuất khẩu trung bình phần lớn do giá cà phê nhân quyết định. Ta có thể
thấy ở biểu đồ trên, vượt qua giai đoạn khủng hoảng cà phê thì bước sang 2005,
mức giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam đã tăng trưởng ổn định. Mức giá tăng
dần qua các năm và đạt mức 1.501 EUR/tấn năm 2008, gấp gần 2 lần so với năm
2005, một mức tăng đáng kể. Sang năm 2009, mức giá có giảm xuống còn 1.252
EUR/tấn. Vào năm này, thị trường có sự biến động không đồng nhất, giá tăng mạnh
với loại Arabica, song lại giảm mạnh với loại Robusta. Giá Robusta giảm là do trên
sàn giao dịch Luân Đôn, hoạt động đầu cơ làm lũng đoạn thị trường cùng với nguồn
cung Robusta lớn từ Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia. Trong khi đó, Việt Nam xuất
khẩu chủ yếu là cà phê Robusta nên giá giảm theo như thị trường. Đến năm 2011,
giá cà phê Việt Nam được thiết lập mức cao kỉ lục đến 1.845 EUR/tấn trong vòng
13 năm qua. Lý do khiến giá cà phê tăng mạnh là thời gian qua, tình hình thời tiết ở
nhiều nước trồng cà phê trên thế giới có những diễn biến bất thường. Lượng cà phê
tồn kho lại ở mức thấp. Thêm vào đó là giá cả của hầu hết các mặt hàng nông sản

đều có xu hướng tăng.
Tuy diễn biến theo chiều hướng gia tăng nhưng giá cà phê xuất khẩu của
nước ta sang thị trường EU thường ở mức thấp hơn giá niêm yết tại sàn giao dịch
13


Luân Đôn từ 100-150 EUR/tấn do chất lượng cà phê thấp, thiếu kinh nghiệm trong
giao dịch đàm phán cũng như cà phê chủ yếu xuất khẩu thô, chưa có thương hiệu,
dễ bị ép giá.
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU
tương đối tốt, trừ giai đoạn 2008-2009 thì không chỉ riêng Việt Nam mà hầu hết các
quốc gia xuất khẩu cà phê đều có diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, với một thị trường
tiềm năng đầy tính cạnh tranh như EU, thì Việt Nam cần phải nổ lực nâng cao
NLCT của mặt hàng cà phê xuất khẩu hơn nữa để có thể thắng thế so với các đối
thủ khác, những nước vốn đã nổi tiếng với truyền thống và giàu kinh nghiệm xuất
khẩu cà phê vào thị trường EU.
2.2 Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường EU.
2.2.1 Hệ số lợi thế so sánh biểu hiện RCA
Ta có các số liệu để tính toán hệ số so sánh biểu hiện RCA mặt hàng cà phê
của Việt Nam như sau:
Bảng 2.3: Số liệu tính toán hệ số RCA mặt hàng cà phê của Việt Nam giai đoạn
2005-2011
Đơn vị: tỷ USD
Năm
Xi j

2005
0,73


2006
1,1

Xi
41,53
44,7
Wj
9,5
10,85
W
12574 14838
*
số liệu cho năm 2011 là dự báo

2007
1,8

2008
2,11

2009
1,71

2010
1,76

2011
2,75

54,4

12,78
17240

70
15,36
19850

62,37
13,3
15840

79,06
16,7
18932

105,18
23,5
20163*

Nguồn: Tổng cục thống kê + ICO, 2010 A, tr.6 + ICO, 2011, tr.7 + WTO


Xij: kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam



Xi: tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam




Wj: kim ngạch xuất khẩu cà phê của thế giới



W: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới
Thay vào công thức tính lợi thế so sánh biểu hiện, cụ thể là mặt hàng cà phê

của Việt Nam: RCA = (Xij / Xi) / (Wj / W), ta có bảng sau:
14


Bảng 2.4: Hệ số RCA mặt hàng cà phê của Việt Nam giai đoạn 2005-2011
2005
23,26541371

2006
33,654

2007
2008
2009
2010
2011
44,635 38,954 32,653 25,237 22,433

Những năm 2005-2008, khi cà phê thế giới có sự phục hồi đánh dấu một chu
kỳ mới cả về giá và lượng thì chỉ số RCA mặt hàng cà phê của Việt Nam tăng đều
qua các năm, từ 23,26 năm 2005 lên 33,65 năm 2006 và năm 2007 là 44,64, một
mức tăng đáng kể. Tuy nhiên, đến năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã
một lần nữa làm cho mặt hàng cà phê xuất khẩu bị ảnh hưởng, chỉ số RCA giảm từ

năm 2008 đến nay, năm 2011 chỉ số RCA là 22,43. Tuy nhiên, các chỉ số RCA mặt
hàng cà phê của Việt Nam đều lớn hơn 2,5, điều này phần nào nói lên rằng cà phê
Việt Nam là một sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, thế nhưng sự tăng giảm nhanh
về chỉ số này của Việt Nam có thể cho thấy cà phê Việt Nam vẫn chưa có khả năng
đứng vững trước biến động của thị trường thế giới nói chung và EU nói riêng.
So sánh hệ số RCA mặt hàng cà phê của Việt Nam với một số đối thủ khác
tại EU năm 2010, ta thấy cà phê xuất khẩu của Việt Nam có NLCT tương đối.
Bảng 2.5: Hệ số RCA của một số quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu vào thị
trường EU năm 2010
Honduras

Colombi

Braxin

Việt Nam

Peru

Côte d’Ivoire

113,75
Guatemal

a
56,72
Ecuador

27,69
Thuỵ Sĩ


25,24
Indonesia

24,58
Ấn Độ

17,50
Hoa Kỳ

a
77,28

10,44

6,02

4,99
2,00
0,52
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn ICO

Colombia, quốc gia nổi tiếng với loại cà phê Arabica chất lượng cao có chỉ
số RCA khá lớn là 56,72. Braxin, nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới thì có chỉ
số là 27,69. Nhìn chung, so với các quốc gia thuộc khu vực Mỹ LaTinh, Việt Nam
có chỉ số RCA thấp hơn, đặc biệt là so với các nước như Honduras, Guatemala,
Colombia… đây đều là các nước xuất khẩu chủ yếu loại cà phê Arabica.
Còn so sánh với các quốc gia cùng khu vực Châu Á là Indonesia và Ấn Độ,
ta thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn rõ rệt, do Việt Nam có sản lượng vượt
trội hơn. Riêng về Ấn Độ thì chỉ số RCA< 2,5, lợi thế cạnh tranh thấp. 3 quốc gia

15


khác cũng có lợi thế cạnh tranh là Côte d’Ivoire, Ecuador và Thuỵ Sỹ, đây là những
nước xuất khẩu mặt hàng cà phê rang xay và hòa tan hàng đầu vào thị trường EU.
Hoa Kỳ thì hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh.
2.2.2 Thị phần mặt hàng xuất khẩu
Biểu đồ 2.3: Thị phần trung bình các quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu vào
thị trường EU, giai đoạn 2005-2011

Braxin;
Khác; 23.91%
30.47%
Ấn Độ; 3.97%
Honduras;
Việt Nam;
4.74%
19.65%
Peru; 4.76%
Indonexia;Colombia;
6.86%
5.64%

Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa
Là thị trường tiêu thụ và nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, EU hiện là thị
trường tiềm năng, nhập khẩu cà phê từ hơn 110 quốc gia lớn nhỏ. Vì thế, hiện tại
Việt Nam đang phải cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường này, đặc biệt là với các
quốc gia đã có truyền thống và kinh nghiệm xuất khẩu cà phê vào thị trường EU
như Braxin, Colombia... cùng các nước châu Mĩ LaTin và Châu Á khác.
Nhìn chung, thị phần cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang EU khá cao.

Trong giai đoạn 2005-2011, Việt Nam xếp vị trí thứ 2 trong số các quốc gia xuất
khẩu cà phê vào thị trường này, chiếm thị phần trung bình 19,15%, xếp sau Braxin
với thị phần 30,17%, chênh lệch khoảng cách thị phần là 11,02%, một con số khá
lớn. Braxin và Việt Nam là 2 nước dẫn đầu, chỉ tính riêng thị phần của 2 nước này
đã chiếm tới gần 50% tổng lượng cà phê xuất khẩu vào EU, là 2 nước duy nhất có
16


thị phần chiếm 2 con số. Đứng vị trí thứ 3 là Colombia và kế đến là nước ở khu vực
Đông Nam Á cùng Việt Nam, nước Indonesia, tổng thị phần của 2 nước này cộng
lại vẫn chưa bằng Việt Nam. Như vậy, có thể nói Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về
mặt thị phần.
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu chủ yếu mặt hàng cà phê nhân, chiếm tới
99% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu sang thị trường EU, lượng cà phê rang xay và
hòa tan chỉ chiếm một phần nhỏ, các sản phẩm cà phê đặc biệt hầu như rất ít. Vì
vậy, trong đề tài tác giả sẽ tập trung đánh giá hơn về mặt hàng cà phê nhân.
Qua biểu đồ 2.4, ta có thể thấy, vị trí xếp hạng thị phần các nước xuất khẩu
cà phê nhân vào thị trường EU cũng tương tự như cà phê nói chung. Braxin vẫn
chiếm vị thế dẫn đầu và Việt Nam là thứ 2. Nhìn vào biểu đồ, ngoài Việt Nam và
Indonesia ở khu vực Đông Nam Á, còn lại các quốc gia dẫn đầu khác như Braxin,
Colombia, Honduras, Peru đều nằm ở khu vực Mỹ Latinh. Nguyên nhân là do các
nước này xuất khẩu chủ yếu loại cà phê Arabica dịu chất lượng cao, loại cà phê này
rất được ưa chuộng ở thị trường EU, ngay cả Indonesia, mặc dù xuất khẩu loại cà
phê Robusta nhiều hơn Arabica, nhưng lượng cà phê Arabica cũng không phải là ít.
Trong khi đó, sản phẩm Robusta có nguồn gốc từ Châu Phi và Châu Á được xem là
có chất lượng kém hơn, hàm lượng cafein cao, chủ yếu nhập khẩu về dùng trong
công nghiệp chế biến, pha trộn với cà phê Arabica nhằm làm tăng hương vị đậm đà
cho sản phẩm.
Tuy Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê nhân lớn thứ 2 vào thị trường EU,
nhưng thị phần này tăng giảm như thế nào, các quốc gia hoán đổi vị trí với nhau ra

sao, ta tham khảo bảng số liệu sau:
Bảng 2.7: Mức thị phần các quốc gia xuất khẩu cà phê nhân vào thị trường EU
qua các năm, giai đoạn 2005-2011
Đơn vị: %
Năm
Braxin
Việt Nam
Indonesia
Honduras
Peru
Colombia
Uganda

2005
28,7
17,7
7,4
3,5
3,8
8,8
3,9

2006
28,7
20,4
5,5
4,5
4,7
9,1
2,6


2007
28,7
22,5
3,8
3,9
4,3
9,3
3,4
17

2008
30,0
18,6
6,0
4,9
4,8
8,7
4,4

2009
32,6
18,8
6,6
5,3
4,9
4,9
4,8

2010

32,6
19,7
5,8
5,6
5,3
3,3
3,8

2011
32,0
19,8
4,4
5,5
5,5
3,9
4,0


Ethiopia
Ấn Độ
Guatemala

3,2
3,6
2,1

2,9
4,2
2,1


2,8
3,2
2,9
3,7
3,8
3,9
3,5
2,9
4,0
5,7
2,1
2,2
1,8
2,0
1,6
Nguồn: tính toán của tác giả từ nguồn Europa

Từ bảng số liệu 2.5 ta thấy, thị phần của Việt Nam nhìn chung tăng dần qua
các năm và duy trì ở vị trí thứ 2. Riêng giai đoạn 2007-2008, thị phần có giảm do
sản lượng sản xuất trong nước giảm, còn các quốc gia khác, trừ Colombia ra thì đều
có thị phần tăng thêm. So sánh giữa Việt Nam với đối thủ hàng đầu là Braxin, ta
thấy thị phần của Braxin rất ổn định và đi theo chiều hướng gia tăng, chỉ có năm
2011 giảm một lượng nhỏ nhưng không đáng kể.
Xét chung tổng thể vị trí giữa các quốc gia, trong giai đoạn 2005-2008, 3
nước có thị phần đứng đầu lần lượt là Braxin, Việt Nam, Colombia, thị phần của 3
nước chiếm đến 57,3% tổng thị phần năm 2008. Thế nhưng giai đoạn 2009 trở đi,
tình hình có nhiều biến động. Indonesia đã thay thế vị trí thứ 3 của Colombia, đẩy
Colombia xuống vị trí thứ 6 năm 2009. Nguyên nhân là năng suất cà phê của
Colombia tụt xuống thấp nhất trong vòng 35 năm qua bởi điều kiện thời tiết bất lợi,
cụ thể là mưa lớn và kéo dài trong 2 năm liền dẫn đến mất mùa, ngoài ra cũng do

khoảng 300.000 ha đồn điền cà phê già cỗi của Colombia được trẻ hoá, chưa thể thu
hoạch được. Đến năm 2011, thị phần của Indonesia lại giảm, vị trí thứ 3 thuộc về
Ấn Độ, do sản lượng cà phê của Indonesia bị ảnh hưởng bởi mưa lớn và tiêu thụ nội
địa tăng, nước này có xu hướng tiêu thụ tăng khoảng 20% mỗi năm gần đây, đồng
thời sản lượng của Ấn Độ lại cũng tăng mạnh trong những năm gần đây.
Là nước xuất khẩu cà phê nhân đứng thứ 2 vào thị trường EU nhưng đối với
sản phẩm cà phê rang xay và hòa tan, Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ
0,21%.

18


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT
HÀNG CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG EU
3.1 Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cà phê
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU
Từ những điểm yếu và nguyên nhân đã đề cập, ta thấy rằng Việt Nam cần
phải tiến hành rất nhiều giải pháp để nâng cao hơn nữa NLCT. Thế nhưng, do giới
hạn về thời gian nghiên cứu cũng như dung lượng, tác giả sẽ chỉ đề cập đến một số
giải pháp trọng tâm và chủ yếu, cụ thể như sau:
3.1.1 Nâng cao chất lượng cà phê và vệ sinh an toàn thực phẩm
Để đạt mục tiêu đến năm 2015 có 50-70% sản lượng cà phê Việt Nam tham
gia các sàn giao dịch chất lượng cao thì đòi hỏi Việt Nam cần phải có những giải
pháp đồng bộ để cải thiện chất lượng cà phê xuất khẩu.

19





Về phía Nhà nước
Đầu tiên, để giải quyết vấn đề cây giống thì đòi hỏi phải có được giống cà

phê tốt, phù hợp và đủ để đáp ứng nhu cầu. Vì vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ
cũng như Bộ NN&PTNT cần tạo điều kiện, liên kết với các nước, tổ chức các buổi
tham quan, các khoá học đào tạo cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện KHKT
Nông nghiệp và các trung tâm giống được giao lưu học hỏi tại những trung tâm
nghiên cứu của các quốc gia có truyền thống lâu năm trong ngành cà phê như
Braxin, Colombia… về các phương pháp nghiên cứu giống tiên tiến. Bên cạnh đó,
hỗ trợ cho Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên triển khai các dự án nhân
chồi cây giống như hỗ trợ về kinh phí thực hiện, khuyến khích các doanh nghiệp lớn
cùng tham gia đầu tư vườn nhân chồi cà phê. Nâng cấp và đầu tư mới các trung tâm
nhân giống, phấn đấu ở mỗi tỉnh có một trung tâm, mỗi huyện có một trạm giống.
Để cải tiến công nghệ sơ chế và chế biến, Nhà nước hỗ trợ nông dân có sân
phơi, máy sấy, cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư các dây chuyền
chế biến hiện đại thông qua hỗ trợ về vốn, ưu đãi thuế nhập khẩu đối với một số
máy móc như máy xay xát, máy tưới, máy phân loại cà phê...(vấn đề hỗ trợ vốn sẽ
được nói rõ hơn trong các giải pháp phía sau). Đầu tư sân phơi và máy sấy là cần
thiết đối với phương pháp chế biến khô, còn đối với chế biến ướt hoặc nửa ướt, Cục
Khuyến nông cần tuyên truyền thêm kiến thức về chế biến ướt, từ việc xây dựng
khu vực chế biến cho đến quy trình sản xuất, đầu tư công nghệ phù hợp thông qua
các kênh truyền hình, hội thảo... Bên cạnh đó cần đảm bảo cà phê chế biến ướt được
mua đúng với giá trị của nó thì mới khuyến khích được các hộ trồng cà phê quan
tâm đến phương pháp chế biến này để nâng cao hơn nữa chất lượng cà phê.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần thành lập và chỉ đạo một số cơ quan trong
việc kiểm tra, giám định chất lượng cà phê xuất khẩu, đảm bảo cà phê nhân xuất
khẩu vào EU đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn chất lượng mới.
Nhà nước phổ biến, tuyên truyền quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 0106:2009/BNNPTNT về cà phê nhân xuất khẩu, cơ sở chế biến cà phê đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm tới các doanh nghiệp, người sản xuất, thu mua, chế biến.


20




Về phía doanh nghiệp
Trong việc cải tạo giống cây trồng và vườn cà phê già cỗi, người nông dân

cần một nguồn kinh phí khá lớn, vì vậy cần có sự hỗ trợ tài chính từ các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên chủ động liên hệ với một số hộ nông dân để
đảm bảo nguồn hàng; hỗ trợ họ trong việc tái canh, chuyên canh cà phê chất lượng
cao, kĩ thuật canh tác để quản lý được chất lượng ngay từ khâu chọn giống. Cụ thể,
trước khi thu hoạch cần có những đầu tư như ứng trước một số tiền cho nông dân
trong việc trang trải mua giống tốt, bón phân, tưới nước, chăm sóc cà phê. Sau thu
hoạch, hỗ trợ người dân máy móc và phương pháp sơ chế cà phê ngay tại vườn, hỗ
trợ phương tiện để vận chuyển cà phê nhanh chóng về khu vực chế biến, giúp cà
phê không bị nấm mốc, chuyển đen, đảm bảo chất lượng trước lúc chế biến.
Doanh nghiệp cần thoả thuận với nông dân mua giá cao đối với cà phê
nguyên liệu là quả chín, có chất lượng, từ đó tạo động lực cho người dân tăng
cường hái quả chín, hạn chế hái tuốt. Đồng thời có chính sách giá phù hợp với cà
phê chế biến ướt và nửa ướt, đảm bảo mua đúng với giá trị, cao hơn chế biến khô
thì mới khuyến khích được các hộ trồng cà phê quan tâm hơn đến phương pháp này.
Các doanh nghiệp chủ động đầu tư máy móc, thiết bị tiên tiến, áp dụng tự
động hoá dây chuyền sản xuất và giám sát chất lượng cà phê, hiện đại hoá cơ sở chế
biến, tuân thủ các tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia QCVN 01-06:2009/BNNPTNT
về cơ sở chế biến an toàn vệ sinh, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.


Về phía người trồng cà phê
Người nông dân cần từng bước cải tạo các vườn cà phê kém chất lượng bằng


cách tái canh ghép giống các giống cà phê tốt, không nên sử dụng các loại cây
giống thực sinh hoặc giống do mình tự làm. Tuân thủ các qui trình trồng trọt, chăm
sóc đúng kĩ thuật nhằm đảm bảo chất lượng cà phê, tránh bị nấm mốc, nhiễm
khuẩn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua việc thực hành nông nghiệp
tốt GAP, quản lý cây trồng tổng hợp ICM, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, thực
hành chế biến tốt GMP. Sử dụng lượng nước tưới hợp lý, đúng thời điểm, tăng
cường che bóng mát, bón cân đối phân bón kết hợp phân hữu cơ để tăng chất lượng.
Chuyển từ tập quán hái tuốt sang thu hoạch từ 2-3 đợt. Khi thu hái cà phê
làm nhiều đợt thì 1 ha cà phê chỉ cần 1 lao động cũng đảm nhận được từ khâu chăm
21


sóc đến thu hái, vì thấy có quả chín là hái dần, vừa đảm bảo chất lượng mà còn hạn
chế cà phê bị chín nẫu, khô và hái lẫn nhiều quả xanh, chỉ đợt cuối cùng thì mới hái
toàn bộ, lúc đó cà phê không còn xanh non nữa và cũng không phải tốn kém nhiều
sân phơi, tiết kiệm nhân công. Khi chế biến khô, cần có hệ thống sân phơi phù hợp,
không phơi trên sân đất sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng, mùi vị cà phê, bị nấm
mốc, cũng như lẫn các tạp chất, không đảm bảo vệ sinh. Đầu tư trang bị máy sấy để
phục vụ chế biến, tránh việc cà phê bị ủ lâu ngày mà thâm đen, giảm chất lượng.
Người nông dân cần tăng cường việc chế biến theo phương pháp ướt để nâng
cao chất lượng. Phương pháp này đòi hỏi cà phê phải tươi, nên sau thu hoạch phải
vận chuyển cà phê nhanh chóng về nơi chế biến, phương tiện vận chuyển phải sạch,
không có mùi thuốc trừ sâu, phân bón... Bên cạnh đó, người nông dân cũng cần đầu
tư máy móc và lượng nước lớn tại khu vực chế biến, chi phí đầu tư này là khá cao
nên các hộ nông dân nhỏ lẻ có thể tập hợp lại dưới dạng HTX để sản xuất.
3.1.2 Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm và hướng đến mặt hàng cà phê có giá trị
gia tăng cao



Về phía Nhà nước
Công tác quy hoạch vùng là một trong những giải pháp quan trọng. Bộ

NN&PTNT cần nhanh chóng quy hoạch và phát triển loại cà phê Arabica phù hợp
với thị hiếu tại EU, đảm bảo nguyên tắc hoạt động trong nền kinh tế thị trường là
“bán những thứ mà thị trường cần chứ không chỉ bán những thứ mà mình có”. Cần
chú ý là tránh trồng mới, chỉ tập trung thâm canh loại cà phê Robusta, mở rộng diện
tích cà phê Arabica ở những vùng thích hợp, hướng đến diện tích cà phê Arabica
chiếm 10% tổng diện tích cà phê của cả nước năm 2020 như mục tiêu đã đề ra.
Hỗ trợ vốn cho các trung tâm giống có điều kiện nghiên cứu tạo ra các giống
mới, đặc biệt là loại Arabica cho năng suất cao, kháng bệnh tốt. Bên cạnh đó cũng
hỗ trợ vốn và kĩ thuật canh tác cho người nông dân trong việc mở rộng diện tích
Arabica, vì giá thành trồng trọt, sản xuất Arabica là khá cao hơn so với Robusta.
Nguồn vốn này có thể trích từ ngân sách Nhà nước hoặc từ nguồn tài trợ ODA.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê của Việt Nam để sử
dụng những công nghệ chế biến tiên tiến. Nhà nước có các chính sách về tín dụng
và thuế như các khoản vay ngân hàng dài hạn hoặc giảm mức thuế nhập khẩu đối
22


với một số máy móc phục vụ chế biến cà phê để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có thể đầu tư những dây chuyền máy móc hiện đại, áp dụng các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật tiên tiến, gia tăng sản phẩm cà phê rang xay, hoà tan, chế biến sâu có
giá trị cao, đạt được mục tiêu đã đề ra cho năm 2015 là sản lượng cà phê rang xay
và hoà tan từ 10.000-15.000 tấn/năm, trong đó 50% xuất khẩu.
Bằng các hoạt động như thực hiện chương trình giới thiệu những tác dụng
tích cực của cà phê đối với sức khoẻ con người qua truyền hình, đài phát thanh, từ
đó mà kích thích tiêu dùng cà phê trong nước, nâng mức tiêu dùng nội địa lên 1015% tổng sản lượng, giúp làm phát sinh nhu cầu, thúc đẩy các doanh nghiệp nắm
bắt nhu cầu và tạo ra những sản phẩm mới phục vụ cho thị trường trong nước cũng
như xuất khẩu nhiều mặt hàng hơn sang EU, đáp ứng thị hiếu của thị trường này.



Về phía doanh nghiệp
Ngoài cà phê nhân Robusta, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh xuất khẩu mặt

hàng cà phê nhân Arabica được ưa thích sang EU. Đầu tư thêm máy móc, trang thiết
bị, áp dụng các quy trình và phương pháp chế biến cà phê mới và tiên tiến để sản
xuất các loại cà phê rang xay và hoà tan có giá trị gia tăng cao, tạo ra các sản phẩm
cà phê đặc biệt mà thị trường EU có nhu cầu cao như cà phê hảo hạng và các sản
phẩm đạt chứng nhận quốc tế. Hỗ trợ người nông dân về vốn và kĩ thuật trong việc
phát triển cà phê bền vững. Ngoài ra, tăng cường các hoạt động quảng cáo,
marketing, cũng như hoạt động tuyên truyền lợi ích của việc uống cà phê để nâng
mức tiêu dùng nội địa, nghiên cứu cụ thể nhu cầu thưởng thức cà phê của người tiêu
dùng trong nước cũng như EU để có những thay đổi và cải tiến sản phẩm.


Về phía những người trồng cà phê
Người nông dân cần tự ý thức trồng cà phê theo quy hoạch, phổ biến và

hướng dẫn của địa phương, không tự ý mở rộng diện tích Robusta bừa bãi. Tranh
thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật, kinh phí từ các dự án trong và ngoài nước của Nhà nước,
từ hỗ trợ của doanh nghiệp để áp dụng các quy trình kỹ thuật canh tác cà phê bền
vững, đạt chứng nhận quốc tế, đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ ở EU. Hạn chế
và đi đến không sử dụng các chất hoá học, thuốc trừ sâu để đảm bảo thân thiện với
môi trường... đây là những yếu tố người tiêu dùng EU ngày càng quan tâm.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO


24



×