Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC SMEs DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.42 KB, 44 trang )

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC SMEs DỆT MAY
VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO.
I. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÁC SMEs DỆT MAY VIỆT NAM.
1. Thực trạng về quy mô và số lượng
Ngành Dệt may được xem là một trong những ngành mũi nhọn trọng điểm của
nền kinh tế nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong những năm
vừa qua các doanh nghiệp của ngành Dệt may Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể
đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó phải kể đến sự đóng góp về vấn đề
giải quyết một khối lượng việc làm lớn và đóng góp lớn cho kim nghạch xuất khẩu.
Đặc biệt trong những năm gần đây đã chứng kiến sự ra đời và phát triển lớn mạnh của
các loại hình doanh nghiệp Dệt may.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 8 năm 2008 cả nước
có trên 357 000 doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh với tổng số vốn lên tới 1415 nghìn
tỷ đồng, tương đương với 86 tỷ USD. Trong số đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ(SMEs)
chiếm đến 95%, nghĩa là có khoảng 339 150 doanh nghiệp, tổng số vốn của SMEs lên
đến 1 344,25 tỷ đồng tương đương với 81,7 tỷ USD. Nếu năm 2001, trung bình cứ 916
người dân thì có một SME, thì đến năm 2008 con số này là cứ 231 người dân thì có 1
doanh nghiệp. Mặc dù đây là một con số đáng lưu ý tuy nhiên nếu so với mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt
chỉ tiêu là 20 người dân/1 SME thì tỷ lệ trên vẫn còn rất thấp.
Trong quan điểm phát triển của Đảng và Nhà nước, ngành Dệt may được xác
định là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn quan trọng của nền kinh tế và
vẫn là một ngành có vai trò chủ đạo trong vòng 10 năm tới. Sự phát triển nhanh chóng
của ngành trong những năm vừa qua đã thể hiện phần nào vị trí của ngành trong toàn bộ
nền kinh tế.
Thực trạng về số lượng của SMEs DMVN: Tính đến thời điểm tháng 12/2008,
trên toàn quốc có khoảng 2500 doanh nghiệp DM, trong đó có xấp xỉ 1500 doanh
nghiệp nằm ở khu vực phía Bắc, số còn lại nằm ở khu vực phía Bắc và miền Trung.
Ngành DM thu hút khoảng 2,2 triệu lao động dự kiến số lao động sẽ tăng 3,5-4 triệu lao
động vào năm 2010, chiếm 5% tổng số việc làm cả nước và chiếm đến 40% số việc làm


trong ngành công nghiệp sản xuất và chế biến. Trong ngành DMVN, số lượng SMEs
chiếm một tỷ lệ tương đối là 77%, SMEs DM chủ yếu là thuộc thành phần kinh tế nhân.
Số lượng SMEs DM xấp xỉ khoảng 1950 doanh nghiệp, số lượng lao động của SMEs
vào khoảng 1,7 triệu lao động, số lao động này chiếm 3,9% tổng số việc làm của cả
nước và chiếm đến 30,91% số việc làm trong ngành sản xuất công nghiệp và chế biến.
Bảng3: Số lượng và tỷ lệ % so với tổng số doanh nghiệp DM theo qui mô LĐ
2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số DN
978 1352 1612 1909 2398
Dưới 10 người 62 6%
26
5
20
% 185
11
% 229
12
% 332
14
%
10 – 299 người
62
4
64
%
76
2
56
%
100

6
62
%
117
5
62
%
150
6
63
%
(Tổng hợp từ Nguồn của Tổng cục Thống kê)
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên có thể nhận thấy rằng số lượng SMEs trong
ngành Dệt may tăng dần theo thời gian, tỷ lệ của SMEs so với tổng số các doanh nghiệp
trong ngành thay đổi trong khoảng 70-77% và trong thời kỳ 2000-2004 số lượng SMEs
Dệt may tăng gấp 2,41 lần. Từ đó có thể thấy vị trí của SMEs đối với sự phát triển của
toàn bộ nghành Dệt may.
Thực trạng về quy mô của SMEs DMVN: So với các doanh nghiệp lớn trong
ngành thì quy mô về lao động của các SMEs có một khoảng cách tương đối xa. Trong
các doanh nghiệp lớn của ngành Dệt may số lao động thường lên đến hàng nghìn công
nhân thì các SMEs chỉ có số lao động tối đa xấp xỉ khoảng 300 công nhân. Bảng sau
đây thể hiện khá rõ nét sự chênh lệch đó:
BẢNG 4: SỐ LĐ CÓ HỢP ĐỒNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DM
Đơn vị: Người
Tình trạng hợp đồng Tổng
số
Loại hình doanh
nghiệp
DN Lớn SMEs
Số lao động có hợp đồng 565.228 500.167 65.061

Trong đó nữ 444.755 398.805 45.950
Số LĐ không được trả công, trả lương 2.003 1.334 669
Trong đó nữ 1.314 1.024 290
(Nguồn: Tổng cục Thống kê-tổng hợp từ điều tra doanh nghiệp năm 2002-2007)
Nhận xét: Như vậy, từ bảng trên có thể nhận thấy sự chênh lệch rõ rệt về số lao
động giữa các doanh nghiệp lớn và các SMEs trong ngành DM, số lao động trong các
doanh nghiệp lớn nhiều gấp 7,7 lần số lao động trong SMEs. Cũng từ kết quả của Bảng
2, thấy rằng quy mô về lao động trong SMEs đang có xu hướng tăng lên theo thời gian.
Số lượng các SMEs có số lao động dưới 10 người đang có xu hướng giảm, trong khi đó
quy mô của các SMEs có số lao động 10-300 có xu hướng tăng lên đáng kể. Một đặc
điểm mang tính đặc thù dễ dàng nhận ra trong các doanh nghiệp DM đó là tỷ lệ lao
động nữ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Trong các doanh nghiệp DM lớn tỷ lệ lao động nữ
chiếm đến 79,67% thì tỷ lệ này trong SMEs là 70,63%.
2.Thực trạng về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SMEs DMVN
Về tốc độ tăng trưởng: trong những năm qua, ngành Dệt may có tốc độ tăng
trưởng khá, với tốc độ tăng trưởng của năm trước cao hơn năm sau, với mức đóng góp
chiếm 9,55% so với GDP. Nếu trong thời kỳ 2000-2004, tốc độ tăng trưởng bình quân
của toàn ngành Dệt may là vào khoảng 14% thì đến thời kỳ 2005-2008, tốc độ tăng
trưởng bình quân của toàn ngành đã là 19-20%. Kể từ năm 2002 trở đi ngành Dệt may
luôn có tốc độ tăng trưởng là 2 con số và có tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung
của toàn bộ ngành chế biến công nghiệp. Đồ thị dưới đây biểu diễn tốc độ tăng trưởng
của toàn ngành Dệt may trong giai đoạn 2002-2007.
Biểu1: Tốc độ tăng trưởng ngành Dệt may 2002-2007
(Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam)
Trong sự tăng trưởng của toàn ngành Dệt may có đóng góp không nhỏ của
SMEs Dệt may, bộ phận chủ đạo trong toàn bộ ngành. Giá trị sản xuất của SMEs Dệt
may năm 2007 là 38,844 nghìn tỷ VND, chiếm đến 6,24% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp cả nước, trong đó giá trị sản xuất sản phẩm của SMEs trong ngành Dệt chiếm
đến 42,12%. Không những vậy, hầu hết các sản phẩm của SMEs DMVN đều có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước. Theo tính

toán của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong thị trường nội địa tổng doanh thu của
SMEs DMVN đạt xấp xỉ 156 triệu USD, mặc dầu vậy con số này của SMEs chỉ mới
đáp ứng được gần 3,9% nhu cầu trong nước. Đây là một tỷ lệ đáng khích lệ đối với
SMEs DMVN, tuy nhiên so với những tiếm năng hiện có thì vẫn chưa phải là một tỷ lệ
xứng đáng.
Về kim ngạch xuất khẩu:ngành Dệt may được đánh giá là “Á quân” của xuất
khẩu VN, chỉ đứng sau dầu mỏ, kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt may chiếm 15%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu Dệt may trung bình giai
đoạn 2000-2006 là 21% cao hơn so với tốc độ xuất khẩu chung của cả nước là 18%.
Đặc biệt, trong những năm gần đây ngành DMVN đã thể hiện được vị trí “Á quân” của
mình. Năm 2007, ngành DMVN được đứng vào Top 10 nước có kim ngạch xuất khẩu
dệt may lớn nhất của thế giới chỉ đứng sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ,
Mehyco, Hồng Kong, Bawngladet xấp xỉ Indonesia và Mỹ.
Trong những thành tích mà ngành DMVN về xuất khẩu thì tỷ lệ đóng góp của
SMEs chiếm đến 76-82% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Năm 2007, tổng kim
ngạch xuất khẩu của toàn ngành DMVN đạt được là 7,785 tỷ USD thì SMEs đóng góp
tới 6,0723 tỷ USD chiếm đến 78% so với tổng KNXK của toàn ngành. Bảng sau đây
thể hiện doanh thu xuất khẩu theo USD của toàn bộ ngành DMVN và của SMEs
DMVN.
Biểu 2:Doanh thu xuất khẩu của các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Nhận xét: Từ biều đồ thấy rằng, SMEs DMVN chiếm đến 78-80% trong tổng số
các DN của ngành DM và mức đóng góp 76-82% trong KNXK của ngành từ đó thấy
được vai trò quan trọng của SMEs. Đóng góp vào KNXK của SMEs DMVN tăng theo
thời gian về cả số lượng và về tỷ lệ. Tuy nhiên, để có thể nâng cao hơn nữa chất và
lượng đóng góp của SMEs DMVN thì cần có những giải pháp thiết thực để có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN.
Về tình hình lỗ, lãi của SMEs DMVN: cũng giống như các SMEs Việt Nam khác
thì SMEs DMVN cũng mang đặc điểm có năng lực tài chính, năng lực về công nghệ và
các yếu tố khác hạn chế nên phải đối mặt với cạnh tranh và khả năng phá sản khi

không còn cạnh tranh được là điều tất yếu. Bảng dưới đây tổng kết về tình hình các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ của các SMEs và các DN lớn của ngành DMVN, giai đoạn
2002-2007.
Bảng 5: Số lượng doanh nghiệp DMVN làm ăn thua lỗ
Tổng ngành SMEs Doanh nghiệp lớn
Số
lượng
doanh
nghiệp
Số
lượng
doanh
nghiệp
lỗ


%
Số
lượng
doanh
nghiệp
Số
lượng
doanh
nghiệp
lỗ
%
Số
lượng
doanh

nghiệp
Số
lượng
doanh
nghiệp
lỗ
%
2 384 1 095 45,9
3
1 685 836 49,6
1
699 259 37,0
5
Nguồn: Thực trạng các doanh nghiệp 2002-2007 của VCCI
Nhận xét: từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng số lượng SMEs DMVN làm ăn
thua lỗ cao hơn so với mức trung bình của toàn ngành và so với các doanh nghiệp lớn
trong nội bộ ngành. Số lượng SMEs làm ăn thua lỗ lớn gấp 2.41 lấn so với các doanh
nghiệp lớn. Điều này chứng tỏ năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN còn kém, khă
năng cạnh tranh thấp dẫn đến nguy cơ thua lỗ cao nếu môi trường cạnh tranh là gắt gao.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA SMEs DỆT MAY VIỆT NAM THỜI
ĐIỂM TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO.
1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các SME
1.1 Về vốn.
Vốn được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu trong hoạt động sản xuất, nếu bài
toán về vốn không được giải quyết thì khả năng tồn tại của doanh nghiệp còn bị đe dạo
chứ chưa nói đến khả năng duy trì và mở rộng sản xuất.
SMEs DMVN cũng giống như các SMEs khác đó là mang đặc điểm chung về
vốn, vốn ít năng lực tài chính có hạn. Quy mô vốn của SMEs DMVN chỉ dưới 10 tỷ
VND, quy mô vốn nhỏ hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn trong ngành Dệt May.
Bởi vì các doanh nghiệp trong ngành Dệt may là những doanh nghiệp có truyền thống

lâu năm nên có nguồn vốn tích lũy khá lớn.
Bảng6: Tình hình tài chính của các doanh nghiệp DMVN
Các chỉ tiêu tài chính Doanh nghiệp lớn SMEs
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 45,43 55,56
Tài sản cố định và tài sản dài hạn. 54,37 37,72
Tổng tài sản= tổng nguồn vốn 100 100
Nợ phải trả 65,3 53,91
Nguồn vốn chủ sở hữu 34,47 46,10
Nguồn: Thực trạng điều tra các doanh nghiệp 2002-2005
Nhận xét: từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng có một sự khách biệt khá lớn
giữa các doanh nghiệp lớn và SMEs trong ngành Dệt may xét về quy mô vốn. Nếu như
các doanh nghiệp lớn có tài sản cố định và tài sản dài hạn đóng vai trò quan trọng trong
quy mô vốn của mình thì SMEs lại có tài sản lưu động và đầu tư dài hạn lại có vai trò
chủ đạo. Hầu hết các SMEs đều là các daonh nghiệp xuất phát từ các doanh nghiệp tư
nhân do vậy nguồn vốn chủ sở hữu của họ là nguồn chủ yếu khi thành lập doanh nghiệp
còn các doanh nghiệp Dệt may lớn hầu hết đều nhận được sự bảo trợ về vốn của Nhà
Nước. Do vậy, dễ nhận thấy rằng, nguồn vốn chủ sở hữu trong SMEs chiếm tỷ lệ cao
hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Tóm lại, đối với SMEs DMVN thì đặc điểm dễ nhận thấy trong cơ cấu vốn đó là
quy mô vốn còn thấp và khả năng tiếp cận với các nguồn vốn còn hạn chế. Đây chính là
những nguyên nhân làm cho năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN bị hạn chế so với
các doanh nghiệp lớn trong ngành.
1.2 Về nguyên vật liệu.
Đối với ngành Dệt may, nguyên vật liệu có một vai trò hết sức quan trọng, bởi
vì nguyên vật liệu có ảnh hưởng đến chất và lượng cũng như hiệu quả sản xuất của sản
phẩm. Chi phí của nguyên vật liệu chiếm một tỷ lệ lớn trong chi phí trung gian bao
gồm: chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về cơ sở hạ tầng, chi phí vận chuyển, công
đoàn phí, chi phí đặc biệt, chi phí hạn ngạch,..Nguyên vật liệu chính của ngành Dệt may
đó là: bông xơ, sợi, các loại hóa dầu cơ bản và các loại thuốc nhuộm.
Trong số các nguyên vật liệu của ngành Dệt may thì Bông và sợi là hai nguyên

liệu quan trọng và chiếm tỷ lệ nhiều nhất, tuy nhiên hiện nay 2 đầu vào quan trọng này
lại phải nhập khẩu. Đây là một vấn đề khó mà các doanh nghiệp Dệt may phải đối mặt,
đặc biệt với SMEs khi mà năng lực về tài chính có hạn. Việc nhập khẩu nguyên vật
liệu phục vụ cho quá trình sản xuất tương đương với việc đẩy chi phí sản xuất lên cao
và giá thành sản phẩm của SMEs cao tương đối so với sản phẩm của các doanh nghiệp
lớn trong nước cũng như nước ngoài. Hiện nay, SMEs DMVN các nguyên vật liệu và
phụ liệu phải nhập khẩu từ 80-90% nhập khẩu từ nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc,
Lào và một số nước Đông Âu khác. Dưới đây là thực trạng về việc cung cấp nguyên vật
liệu cho các doanh nghiệp trong ngành DMVN vào thời điểm trước khi gia nhập WTO.
Nguyên liệu Bông và bông xơ: trong những năm gần đây, sản lượng và diện tích
trồng bông của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, nhưng vấn chỉ mới đáp ứng một lượng
rất nhỏ cho các SMEs DM. Số liệu của Tổng công ty Dệt May Việt Nam cho biết, vụ
bông năm 2001-2005 cả nước đã trồng được 25 600 ha bông, đạt sản lượng 8700 tấn
bông xơ. Trong đó, có những vùng trồng bông lớn diện tích trồng bông đã được mở
rộng lên rất nhiều như vùng Dak Lak nếu năm 2000 diện tích trồng bông là 6700 ha thì
đến năm 2005 con số này là 19000 ha, chiếm đến 60% diện tích và sản lượng bông của
cả nước. Diện tích trồng bông của nước ta có thể được coi là lớn nhưng hiện nay SMEs
DM phải nhập khẩu khối lượng tương đối lớn. Trong giai đoạn 2000-2005, trung bình
hàng năm SMEs DM phải chi từ 92-110 triệu USD để nhập khẩu nguyên liệu bông xơ
phục vụ cho quá trình sản xuất. Lượng bông, xơ trong nước chỉ cung cấp khoảng 7-
10% cho quá trình sản xuất của SMEs và SMEs phải nhập khẩu bông xơ đến 90% từ
nước ngoài.
Dưới đây là bảng số liệu tổng hợp về thực trạng sản xuất và nhập khẩu bông xơ
của SMEs DMVN giai đoạn 2000-2004
Bảng 7: Thực trạng và sản xuất và nhập khẩu bông xơ của SMEs DMVN giai
đoạn 2000-2004.
Đơn vị: tấn
Năm Sản xuất Nhập khẩu
2000 7020 93600
2001 9750 81120

2002 10920 80309,8
2003 12324 78702,6
2004 12870 77128,5
Nguồn:Website http//www.sme.com.vn
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng, số lượng sản xuất bông xơ có
xu hướng tăng với mức tăng là 1,2 lần/năm, số lượng bông nhập khẩu có chiều hướng
giảm nhưng mức giảm không đáng kể chỉ vào khoảng 0,98 lần/năm. Như vậy, hàng
năm SMEs còn phải nhập khẩu một lượng đáng kể bông, xơ.
Dâu tằm tơ : theo số liệu thống kê của Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam
(Viseri), trong giai đoạn 2000-2005, diện tích dâu tằm của nước ta vào khoảng 25 000
ha, đứng thứ hai thế giới( chỉ sau Trung Quốc). Mặc dầu vậy, kết quả từ việc trồng dâu
lại không thể mang lại không thể so sánh với bên ngoài. Về lý thuyết, với diện tích
trồng dâu như vậy, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm của sản xuất tơ, kén
nguyên liệu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để phục vụ cho quá trình sản xuất của mình
thì hàng năm SMEs DM vẫn phải nhập tơ sống chủ yếu từ Trung Quốc để se và dệt lụa
với số lượng lên đến 200 tấn/năm. Ngoài ra còn phải nhập từ các nguồn khác không
chính thức trôi nổi trên thị trường Hà Nội và một số tỉnh phía Nam phải nhập từ
Udowbekixtan thì con số tơ sống mà SMEs phải nhập phải lên đến gần 400 tấn/năm.
Các phụ liệu khác: cũng giống như nguyên vật liệu thì hiện nay SMEs DM phải
nhập khẩu nguyên phụ kiện với mức xấp xỉ 100%, nghĩa là hầu hết các nguyên phụ liệu
đều phải nhập. Các phụ liệu này bao gồm như chỉ màu, chỉ khâu, khuy bấm, mếch
dính…tất cả các phụ liệu này có rất ít các doanh nghiệp sản xuất. Nếu ngành Dệt may
hầu như chỉ chú trọng đến các xí nghiệp Dệt và may thì số lượng các xí nghiệp dành
cho ngành công nghiệp phụ trợ lại rất ít. Chính vì vậy, các phụ liệu cung cấp cho ngành
Dệt may còn quá “mỏng” là điều dễ lý giải.
Dưới đây là bảng tổng kết về tình hình cung cấp nguyên, phụ liệu cho các SMEs
DM trong năm 2005
Bảng 8: Thực trạng sản xuất và sử dụng nguyên, phụ liệu cho các SMEs DM
năm 2005
Mặt hàng Đơn vị tính Sản xuất Nhập khẩu Sử

dụng
Tỷ lệ nhập khẩu
Bông 1000 tấn 8,11 106,08 114,192 93%
Xơ sợi tỏng hợp 1000 tấn 0 98,28 98,28 100%
Sợi 1000 tấn 186,42 168,48 354,9 47,5%
Vải lụa Tr.m
2
404.04 898,56 1661,4 71%
Chỉ may 1000 tấn 2,73 1,17 3,9 30%
Khóa kéo Tr.m 46.8 109,2 156 70%
Nguồn: Vinatex& Niên giám thống kê 2005
Nhận xét: Bông và hóa dầu là đầu vào cơ bản của tơ sợi tự nhiên và tổng hợp,
mà các sản phẩm này là đầu vào của quá trình dệt vải cho ngành may. Tuy nhiên, SMEs
DMVN phải nhập khẩu nguyên liệu và phụ liệu này đến 80%. Tỷ lệ nội địa hóa chỉ vào
khoảng 20-25%, không thể tận dụng được những tiềm năng có thể có ở trong nước là
một hạn chế vì vậy đẩy giá thành lên cao rất nhiều.
1.3 Về thiết bị công nghệ.
Thiết bị công nghệ ở đây được hiểu không đơn thuần chỉ là các thiết bị được sử
dụng trong ngành mà còn là việc ứng dụng các công nghệ mới tiên tiến, việc cải tiến
công nghệ cũng như việc chuyển giao công nghệ trong các SMEs.
Thiết bị máy móc lạc hậu và trình độ sử dụng công nghệ còn thấp kém là đặc
điểm chung của các SME Việt Nam, SME DMVN cũng nằm trong số đó. Theo đánh
giá của Hiệp hội Dệt May, thiết bị của các SME Dệt may còn lạc hậu rất nhiều so với
các nước trong khi vực. Điển hình như trong ngành Dệt số thiết bị ở mức độ trung bình
và dưới trung bình chiếm tới tỷ lệ 70%, thiết bị công nghệ dệt thoi chủ yếu là thiết bị
cũ được nhập từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc dù thuộc loại máy của các hãng nổi
tiếng nhưng không có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của ngành may.
Ngành May, tuy có khá hơn ngành Dệt nhưng cũng bị đánh giá là lạc hậu, giới
chuyên môn máy móc cho rằng thiết bị máy móc của SMEs ngành May lạc hậu 5 năm
so với các nước trong khu vực.

a. Về thiết bị máy móc
Những số liệu sau đây về thực trạng trang thiết bị máy móc của SMEs DMVN
giai đoạn 2001-2005, theo nguồn tổng hợp của Tổng cục Thống kê và Hiệp hội Dệt
may Việt Nam
.
Thiết bị dệt kim : số lượng máy dệt kim tròn của các SMEs khoảng 1290 máy,
máy dệt kim có khoảng 195 máy, trong số đó có đến 20% tương đương với 240 máy là
các loại máy móc đầu tư từ những năm 1986 với trình độ thiết bị lạc hậu.
Thiết bị dệt tho i: tổng số máy dệt thoi các loại cảu SMEs là 12090, sản xuất
được khoảng 390 triệu mét vải/năm, 19500 tấn khăn bông các loại, tuy có nhiều công
nghệ mới nhưng số lượng máy móc cũ vẫn còn nhiều.
Thiết bị kéo sợi : SMEs DM có khoảng 1 170 000 cọc sợi, 23,3% trong tổng số
đó nghĩa là khoảng 273 000 cọc sợi là được đầu tư mới sản xuất 117 000 tấn sợi/năm.
Đa số công nghệ kéo sợi còn rất lạc hậu, trình độ tự động hóa thấp, do vậy hầu hết cá
sản phẩm sản xuất ra chất lượng còn chưa cao. Chủ yếu công nghệ kéo sợi là công nghệ
kéo sợi thô và sản xuất các loại sợi chỉ số thấp.
Thiết bị may : tổng số máy may mà SMEs có là khoảng 156 000 máy có thể sản
xuất khoảng 390 triệu sản phẩm. Vào thời gian những năm 1990-1991 các doanh
nghiệp của ngành may sử dụng máy may chủ yếu của CHLB Nga, Đức và của một số
nước Đông Âu và đến khoảng thời gian 2000-2005 các SMEs còn nhập khẩu từ một sô
nước khác như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan. Tuy nhiên, lượng máy nhập khẩu này chủ
yếu là của các daonh nghiệp Dệt may có vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư thông qua
nguồn vốn FDI. Còn số lượng các SMEs DM trong nước có số lượng máy nhập khẩu
khá khiêm tốn do năng lực tài chính hạn chế và khả năng tiếp cận với các nguồn vốn để
đầu tư cũng khó khăn.
b. Khoa học công nghệ
Thiết bị của ngành Dệt : nhóm thiết bị hoàn tất của SMEs ngành Dệt còn lạc
hậu. Đối với thiết bị hoàn tất cũ, chiếm tỷ trọng 35% công suất nhưng lại cần phải
được thay thế dần do các thiết bị này đã sử dụng trên 35 năm và được sản xuất theo
công nghệ cổ điển. Đối với các nhóm thiết bị hoàn tất được mua trong thời kỳ 1970-

1980 chiếm 30% do vậy chất lượng sản phẩm không cao, cần phải được thay thế dần và
cần phải được khôi phục. Đối với nhóm thiết bị hoàn tất được mua vào thời kỳ 1986-
1996 chiếm tỷ trọng 35% với khoảng 300 đầu máy các loại có khả năng hoàn tất các
sản phẩm đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu. Với các thiết bị hoàn tất chưa đầy đủ như vậy, do
đó các SMEs trong ngành Dệt được trang bị thêm một số thiết bị hỗ trợ như máy chống
co cơ học, làm mềm, máy xén, máy tạo huyết. Tuy vậy, các công nghệ cao để chống
thấm nước, chống nhàu, chống cháy trong các xưởng sản xuất còn rất hạn chế và ít
được chú ý trong các SMEs DM. Việc sử dụng công nghệ để hoàn tất dạng quần áo
may sẵn chưa được áp dụng ở các SMEs DM.
Khâu may: đối với SMEs DM đã có một khâu may tương đối hoàn thiện. Các
dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ với khoảng 28-30 máy, sử dụng 36-40 lao động
cơ nhanh, nếu mỗi khi thay đổi mã hàng chỉ có thể 2 ngày sau là ổn định sản xuất cho lô
hàng mới. Có nhân viên kiểm tra được sắp xếp vào các dây chuyền may để có thể chấn
chỉnh hay khắc phục các sự cố trong quá trình sản xuất.
1.4 Về nhân lực
Nguồn nhân lực được nói tới ở đây bao gồm số lượng và chất lượng của lao
động. Đối với SMEs ngành DM, lao động chiếm một tỷ lệ lớn so với các ngành công
nghiệp. Do vậy, nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng đối với SMEs DMVN.
Việt Nam là một nước đông dân với khoảng 86 triệu người, là một nước có dân
số trẻ do vậy tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khá cao. Dân số trong độ tuổi lao động
vào khoảng 52,8 triệu người, đúng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á sau Indonexia và
đứng thứ 15 trong tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng. Trung bình
hàng năm có đến 1,6-1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động chính là đội ngũ
hùng hậu bổ sung cho lực lượng lao động đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Do
vậy, có thể nói rằng SMEs DMVN luôn có một đội ngũ lao động động hết sức dồi dào.
Nguồn nhân lực bao gồm các thành tố như là: số lượng lao động trong SMEs Dệt
may, trình độ tay nghề của lao động, kỹ năng của lao động, tình trạng đào tạo nghề
trong các SME DM, tiền lương..
Số lao động:
Bảng sau đây phản ánh số lượng lao động trong SMEs DMVN trong giai đoạn

2001-2005.
Bảng 9: Lao động trong các SMEs DMVN giai đoạn 2001-2005
2001 2002 2003 2004 2005
Lao động cuối năm trong các SMEs
May (người)
253613 365395 436432 498226 511278
LĐ trong các SMEs May so với LĐ
trong các SMEs công nghiệp (%)
12,6 14,6 15,5 15,8 15,1
Nguồn:Tính toán dựa trên Thực trạng các Doanh nghiệp qua kết quả điều tra
2001-2005
Nhận xét: Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng số lao động trong các SMEs
DM tăng lên theo thời gian với mức tăng trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2001-
2005 là 1.2 lần/năm. Tỷ lệ lao động trong các SMEs DMVN so với lao động trong các
ngành công nghiệp khác chiếm tỷ lệ vào khoảng 14,5% là một tỷ lệ tương đối cao điều
này chứng tỏ SMEs DM sử dụng số lượng lực lượng lao động khá nhiều.
Tiền lương: tiền lương trong SMEs DMVN được đánh giá là thấp so với mức
mặt bằng chung. Đối với các doanh nghiệp dệt may lớn mức lương là 2,3-3 triệu
đồng/tháng, còn trong SMEs DM mức lương chỉ trung bình khoảng 1-1,4 triệu
đồng/tháng. Thậm chí vào những thời điểm không có hợp đồng, lương tại các SMEs
Dệt may trả cho người lao động chỉ vào khoảng 500 000/người/ tháng. Đối với các
doanh nghiệp nhà nước, mức lương cơ bản là 930 000/người/tháng.
Nhìn chung, giá nhân công của các SME ngành DMVN thấp hơn so với các
nước. Tiền công lao động trong ngành Dệt May ở nước ta vào khoảng 0,18 USD/giờ,
thấp hơn so với các nước trong khu vực như Indonexia 0,23 USD/giờ, Trung Quốc 0,34
USD/giờ, Thailand 0,87 USD/giờ. Tuy vậy năng suất lao động trung bình của nhân
công trong các SME Dệt May còn rất thấp chỉ bằng 80% so với Trung Quốc, chỉ bằng
60% so với Hồng Kông và Malaixia.
1.5 Về thị trường.
Nhân tố thị trường trong mô hình 6 Ms có thể được xem như là nhân tố

để có thể đánh giá yếu tố đầu ra của doanh nghiệp thông qua thị phần của doanh nghiệp
đó trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của SMEs DM được đánh giá thông qua thị
phần chiếm lĩnh sản phẩm của doanh nghiệp đó so với các doanh nghiệp trong nước và
so với SMEs DM của nước khác tại thị trường nước ngoài.
Thị trường của SMEs DMVN có thể được chia làm 2 thị trường chính đó là thị
trường nội địa trong nước và thị trường xuất khẩu nước ngoài. Tuy thị phần chính của
SMEs DMVN vẫn là thị trường trong nước nhưng mục đích của SME là hướng ra thị
trường nước ngoài và trong những năm qua SMEs DM đã có những đóng góp đáng kể
vào kim ngạch xuất khẩu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.
Thị trường trong nước: phục vụ cho nhu cầu trong nước đây là đối tượng chính
mà SMEs DM hướng đến. Đối với các khách hàng ở nông thôn chiếm đến 78% dân số,
sản phẩm mà họ yêu cầu là những sản phẩm giá rẻ, bền chắc, mẫu mã chỉ cần đạt mức
trung bình. Đối với các khách hàng ở thị trường thành phố, yêu cầu của họ đối với sản
phẩm cao hơn đó là sản phẩm đa dạng trong chủng loại, hấp dẫn trong giá cả, phù hợp
với thị hiếu của từng đối tượng, phù hợp với lứa tuổi tuy nhiên giá cả phải chăng.
Giai đoạn 2001-2005, tổng tiêu thụ nội địa của SMEs DM đạt được 1,248 tỷ,
tốc độ tăng trưởng hàng nội địa đạt 15%, mới chỉ đáp ứng được 7-10% nhu cầu của thị
trường trong nước.
Thị trường xuất khẩu: ở giai đoạn trước khi gia nhập WTO thi trường xuất
khẩu của SMEs DM ít và số lượng xuất khẩu cũng hạn chế. Thời kỳ những năm 1986-
1990, thị trường xuất khẩu chính của SMEs DM là các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu. Các sản phẩm xuất khẩu cũng rất đơn giản chủ yếu là sản xuất theo hợp đồng ký
theo kỳ nên mẫu mã và giá cả không thay đổi. Việc thực hiện hợp đồng này được thực
hiện dựa trên cơ sở phân công hợp tác kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
Đến giai đoạn sau năm 1994, SMEs DM mới có điều kiện phát triển và có kim
ngạch xuất khẩu cao. Ngành DMVN có kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ 2 chỉ sau
ngành dầu khí.
2. Phân tích về năng lực cạnh tranh của các SMEs DMVN
2.1 Về vốn
Theo định nghĩa của Việt Nam về doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có thể xác định

được loại hình doanh nghiệp này thông qua quy mô về vốn hoặc quy mô về lao động.
Theo quy mô về vốn, một doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp nhỏ và vừa nếu
như có quy mô về vốn dưới 10 tỷ VND. Theo cách xác định này, thì có một sự chênh
lệch khá lớn giữa các doanh nghiệp lớn và SMEs trong ngành Dệt may. Bởi quy mô của
các doanh nghiệp Dệt may lớn có thể lến tới đến hàng nghìn lao động thì trong SMEs
chỉ giới hạn đến 300 lao động.
Với quy mô về vốn nhỏ thì SMEs chỉ sản xuất với quy mô vừa phải phù hợp với
nguồn vốn mà mình có. Tuy nhiên, với năng lực tài chính hạn chế đã ảnh hưởng nhiều
đến năng lực cạnh tranh của SMEs so với các doanh nghiệp lớn. Năng lực tài chính hạn
chế đồng nghĩa với khả năng đầu tư các công nghệ bị hạn chế, khả năng tiếp cận với
các nguồn vốn từ ngân hàng khó khăn hơn, khả năng có thể thuê được công nhân có
trình độ tay nghề cao cũng hạn chế. Do vậy, khả năng mở rộng sản xuất cũng như nâng
cao chất lượng sản phẩm và năng suất của người lao động hạn chế.
Bảng 10: Một vài chỉ số đánh giá về sử dụng LĐ của các DN DM
Chỉ tiêu Tổng số Loại hình doanh
nghiệp
Lớn SMEs
Tổng thu nhập doanh nghiệp
(triệu đồng)
22 499,27 66 170,40 4 382,88
Lợi nhuận/vốn chủ sở hữu 0,02 0,03 -0,01
Lao động(người) 650 623,00 566 044,00 84 579,00
Lao động trung bình của doanh
nghiệp(người)
272,91 809,79 50,2
Tài sản/ lao động(triệu đồng) 98,47 94,43 125,52
Lao động được trả lương
(% của tổng ngành)
86,87 88,36 76,92
Lao động trung bình của doanh

nghiệp được trả lương.
237 716 39
Lợi nhuận/lao động (triệu đồng) 0,83 1,05 -0,62
(Nguồn: Tổng cục Thống kê-tổng hợp từ cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2001-2005)
Nhận xét: từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng thu nhập của doanh nghiệp lớn
gấp 15 lần so với SMEs. Từ bảng số liệu cũng thấy rằng các chỉ số về lợi nhuận/vốn
chủ sở hữu, lợi nhuận/lao động của các SMEs trong giai đoạn 2001-2005 là âm, nghĩa
là kết quả kinh doanh thấp. Bảng điều tra trên cho kết quả rằng có một khoảng cách khá
xa giữa các doanh nghiệp lớn và SMEs Dệt may. Do vậy, SMEs có một đối thủ cạnh
tranh khá nặng ký ngay trong nội bộ ngành đó chính là các doanh nghiệp lớn trong
ngành Dệt may. Do vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các SMEs Dệt may là
một điều hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của SMEs nói riêng cũng
như sự phát triển của ngành Dệt may nói chung.
2.2 Về nguyên, phụ vật liệu:
Từ thực trạng về tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cho SMEs DM có tổng kết
về thực trạng tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu như sau: chỉ có sợi và chỉ may là có khả
năng cung cấp cho các SMEs với tỷ lệ trên 50%, còn lại phần lớn các nguyên phụ liệu
khác đều phải nhập khẩu trung bình 80-85%, đặc biệt một số nguyên liệu chính như
bông, xơ sợi tổng hợp phải nhập khẩu từ 90-100%. Toàn bộ số thuốc nhuộm mà SMEs
DM sử dụng 100% đều phải nhập khẩu. Tỷ lệ chất trợ và hóa chất cơ bản trong nước
sản xuất cung cấp cho ngành Dệt may nói chung chiếm từ 5-15% nhưng hầu hết các sản
phẩm này đều có giá trị thấp, mặc dù về số lượng nhiều nhưng số mà SMEs DM có thể
sử dụng được chỉ vào khoảng 3.55% tổng nhu cầu của SMEs.
Tóm lại, thấy rằng bức tranh toàn cảnh ngành sản xuất phụ liệu cho ngành
DMVN nói chung và cung cấp cho SMEs nói riêng được tổng kết trong 4 chữ “vừa
thiếu, vừa yếu”. Đây là một yếu tố tác động rất lớn đến năng lực cạnh tranh của SMEs
DMVN. Bởi vì có thể nói rằng với ngành Dệt may thì nguyên vật liệu có thể được coi là
yếu tố đầu vào trực tiếp quan trọng nhất do vậy giá của nguyên vật liệu sẽ tác động
nhiều đến giá thành sản phẩm. Nguồn nguyên phụ liệu kém đồng nghĩa với năng lực
cạnh tranh của SMEs giảm so với ngay chính các doanh nghiệp lớn trong nội bộ ngành

đặc biệt so với SMEs DM của các nước trong khu vực.
Trung Quốc là cường quốc xuất khẩu dệt may của thế giới có một hệ thống dệt
và may khá đồng bộ, do vậy ngành sản xuất phụ trợ có khả năng cung cấp nguyên phụ
liệu đầy đủ cho sản xuất của ngành. Đối với các SMEs, thì hàng năm các nguyên liệu
như bông, vải và các phụ liệu khác như chỉ, khuy đều 100% là nguyên liệu trong nước
cung cấp, chỉ có 12% sợi tổng hợp là phải nhập khẩu từ nước ngoài. Để chứng minh
cho vai trò của nguyên vật liệu ảnh hưởng đối với năng lực cạnh tranh của các SME
DM, một nghiên cứu của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy rằng: chi phí
để sản xuất 1 sản phẩm dệt may của SMEs VN cao hơn so với của SMEs Trung Quốc là
28-30%, trong đó chi phí do việc phải nhập khẩu các nguyên phụ liệu của SMEs
DMVN chiếm đến 45% so với tổng chi phí.
Đối với các SMEs DM của các nước trong khu vực ASEAN như Indonexia,
Malaixia có quy mô tương tự của DMVN thì họ hầu như chỉ phải nhập thêm các vật
liệu chính như bông còn sợi thì được cung cấp hoàn toàn bởi các doanh nghiệp phụ trợ
ở trong nước.
Như vậy, có một kết luận rằng năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN về khả
năng cung cấp nguyên phụ liệu đang còn yếu kém so với các SMEs trong khu vực. Bởi
vì việc bị động trong nguyên vật liệu đã ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của các
SME, ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm. Theo số liệu thống kê được thì việc nhập
khẩu nguyên phụ liệu của các SMEs DMVN đã đẩy giá thành sản phẩm đội lên 10-15%
so với sản phẩm của SMEs Dm trong khu vực.
Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của SMEs thì điều đầu tiên phải quan tâm
đến chính khả năng sử dụng các nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước phải được
nâng cao nhiều hơn nữa. Đặc biệt trong điều kiện chuẩn bị hội nhập thì yêu cầu về tỷ lệ nội
địa hóa đồi với các sản phẩm xuất khẩu vào một quốc gia ngày càng cao thì vấn đề nội địa
hóa nguyên phụ liệu cho SMEs DM lại càng quan trọng hơn nữa.
2.3 Về thiết bị công nghệ:
Từ những thực trạng về thiết bị công nghệ của SMEs DMVN có đánh giá tổng
quan đó là: thiết bị máy móc của SMEs DMVN nghèo nàn, cũ kỹ; công nghệ thì quá lạc
hậu, ở mức dưới trung bình so với công nghệ của SMEs DM các nước trong khu vực;

chậm chạp trong việc đổi mới và chuyển giao công nghệ. Thiết bị công nghệ non kém
dẫn đến năng suất sản xuất giảm, chi phí sản xuất tăng do hao hụt về năng lượng. Đó là
nguyên nhân góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN trên trường
quốc tế.
Mức độ lạc hậu của công nghệ: Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, SMEs
DMVN đã có nền tảng phát triển từ khá lâu nhưng thật sự khởi sắc vào giai đoạn sau
khi Luật doanh nghiệp 2001. Tuy vậy, quá trình nội địa hóa trên sản phẩm may xuất
khẩu của các SMEs còn thấp do có sự mất cân đối giữa doanh nghiệp may và doanh
nghiệp dệt. Nếu như ngành may có những bước phát triển đáng kể thiết bị công nghệ
của SMEs ngành may đổi mới đến 95%, trong khi đó ở SMEs ngành Dệt tỷ lệ này chỉ là
40-45%.Theo đánh giá của các chuyên gia thì 70% công nghệ của các SMEs Dệt may
đã sử dụng được 20 năm đã được sử dụng 20 năm.
Mức độ đổi mới công nghệ của SMEs DMVN: với khả năng vốn hạn hẹp trong
khi vốn đầu tư dành cho công nghệ quá lớn, do vậy hầu như giai đoạn này SMEs
DMVN rất ít quan tâm đến đổi mới công nghệ. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị hàng năm
của SMEs DMVN chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới, 12-15% của SMEs Trung
Quốc và Đài Loan. Hàng năm, SMEs DMVN đầu tư đổi mới công nghệ thấp, chí phí
dành cho đổi mới công nghệ chỉ từ 0-0,1% so với doanh thu là dành cho đổi mới
công nghệ, điều đó có nghĩa là nhiều SMEs có những năm không hề có kinh phí
dành cho đổi mới công nghệ. Hoặc nếu có thì chỉ là vài năm mới có một lần kinh
phí dành cho đổi mới công nghệ do công nghệ đã quá cũ cho việc sản xuất.
Trang thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến năng lực cạnh tranh của SMEs DMVN
kém đi rất nhiều. Bởi vì, công nghệ lạc hậu dẫn tới năng suất sản xuất sản phẩm thấp,
tăng chi phí do việc tiêu hao năng lượng lớn tất cả những điều này làm cho giá thành
sản xuất sản phẩm cao. Giá cao là yếu tố làm giảm tính cạnh tranh của SMEs DM. Theo
nghiên cứu của Trung tâm tiết kiệm năng lượng tại Tp Hồ Chí Minh (EEC) khảo sát về
sự tiêu hao năng lượng trong SMEs DMVN giai đoạn 2001-2005. Kết quả nghiên cứu

×