Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở khu vực thành thị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.95 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn
cầu, nó không loại trừ một quốc gia nào, cho dù quốc gia đó là nước đang phát
triển hay nước có nền công nghiệp phát triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất
cả các mặt kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó
gây ra không dễ gì khắc phục được trong một thời gian ngắn. Do vậy, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, bảo đảm việc làm, ổn định đời sống cho người lao động trở thành
mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ một nước nghèo, có nền kinh tế kém phát
triển, dân số tăng nhanh trong nhiều thập kỷ qua, thất nghiệp (đặc biệt là thất
nghiệp ở khu vực thành thị) đang là một vấn đề gây sức ép rất lớn đối với các
nhà hoạch định chính sách cũng như sự lo lắng đối với từng người lao động.
Xuất phát từ điều đó, em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp giảm
thất nghiệp ở khu vực thành thị Việt Nam” để nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu
đề tài nhằm khái quát một số vấn đề lý luận về thất nghiệp, phân tích đánh giá
thực trạng thất nghiệp ở khu vực thành thị Việt Nam (bằng cách sử dụng các
phương pháp thống kê toán, phân tích số liệu) và từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này.
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần chính:
Phần thứ nhất: Ý nghĩa của việc giảm thất nghiệp ở thành thị Việt
Nam.
Phần thứ hai: Thực trạng thất nghiệp ở thành thị Việt Nam.
Phần thứ ba: Giải pháp giảm thất nghiệp ở khu vực thành thị Việt Nam
hiện nay.

1


CHƯƠNG I- MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
a.



Thất nghiệp

- Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại

khi một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức lương thịnh hành”.
- Theo Giáo trình Kinh tế lao động - Trường đại học Kinh tế quốc dân:

“Thất nghiệp là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản
xuất”.
b.

Người thất nghiệp

Tùy theo quan điểm nhận thức, mục đích hoàn cảnh của mỗi nước người
ta có thể đưa ra các khái niệm khác nhau về người thất nghiệp. Chẳng hạn:
- Ở Nga: “Những người thất nghiệp được thừa nhận là những công dân có

khả năng lao động, không có việc làm và thu nhập; đã đăng ký ở các cơ quan
dịch vụ việc làm với mục đích tìm kiếm những công việc thích hợp, đang đi tìm
việc làm và sẵn sàng làm việc. Những công dân chưa đủ 16 tuổi và những người
đã về hưu theo độ tuổi thì không được công nhận là những người thất nghiệp”.
- Ở Mỹ: “Người thất nghiệp là những người không có việc làm trong tuần

điều tra, mặc dù có khả năng làm việc, mong muốn tìm được việc làm trong
vòng 4 tuần đã qua, có liên hệ với các trung tâm dịch vụ việc làm hoặc trực tiếp
với người thuê lao động”.
- Ở Anh: “Người thất nghiệp là những người không làm việc 1 giờ nào


trong vòng 2 tuần điều tra”.
- Ở Cộng hoà Liên bang Đức: “Người thất nghiệp là người lao động tạm

thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện những công việc ngắn hạn”.
2


- Ở Thái lan: “Người thất nghiệp là người lao động không có việc làm,

muốn làm việc, có năng lực làm việc”.
- Tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Người thất nghiệp là người lao động

không có việc làm, không làm kể cả 1 giờ trong tuần lễ điều tra đang đi tìm việc
làm và có điều kiện là họ làm ngay”.
- Ở Việt nam (Bộ LĐTB&XH): “Người thất nghiệp là những người từ đủ 15

tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm trong tuần lễ điều tra
và tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua hoặc không đi
tìm việc trong 4 tuần qua với các lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm
việc ở đâu… hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8h,
muốn làm thêm nhưng không tìm được việc”.
Có rất nhiều khái niệm về người thất nghiệp, nhung dù thế nào đi chăng
nữa thì một người lao động được coi là thất nghiệp phải thể hiện đầy đủ 4 đặc
trưng sau:
+ Là người lao động
+ Có khả năng lao động
+ Đang không có việc làm
+ Đang đi tìm việc làm
c.


Tỷ lệ thất nghiệp

- Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp so với dân

số hoạt động kinh tế.
Ngoài khái niệm trên người ta còn thường dùng một số tỷ lệ thất nghiệp
theo các đặc trưng như:
- Tỷ lệ thất nghiệp theo giới: là tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp ở

nam giới hoặc nữ giới so với tổng dân số nam giới hoặc nữ giới hoạt động kinh
tế.
3


- Tỷ lệ thất nghiệp theo độ tuổi (nhóm tuổi): là tỷ lệ phần trăm của số người

thất nghiệp ở độ tuổi x hoặc nhóm tuổi (x, x+n) so với tổng dân số hoạt động
kinh tế của độ tuổi hoặc nhóm tuổi đó.
- Tỷ lệ thất nghệp theo vùng: là tỷ lệ phần trăm của số nghười thất nghiệp

của vùng so với tổng dân số hoạt động kinh tế của vùng đó.
2.

PHÂN LOẠI THẤT NGHIỆP

a.

Theo ý chí của người lao động, người ta phân thành 2 loại sau:




Thất nghiệp tự nguyện: là hiện tượng người lao động từ bỏ một

công việc nào đó do một số nguyên nhân, mặc dù họ vẫn có nhu cầu làm việc.
Một số nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp tự nguyện:
- Thay đổi chỗ ở: Thông thường trước khi người lao động chuyển đến nơi ở

mới, từ bỏ công việc cũ., họ thường giải quyết việc đảm nhận chỗ làm mới. Tuy
nhiên, cũng không ít trường hợp điều đó không đạt được và người lao động rơi
vào tình trạng không có việc làm.
- Mức lương: Với một ngành nghề nhất định, người lao động cho rằng họ là

người có năng lực trên thị trường lao động. Do đó, họ chỉ đi làm khi mức lương
được trả cao hơn mức lương bình quân phổ biến của ngành nghề đó.
- Người lao động đang trong thời gian đợi thuyên chuyển công tác.
- Sinh viên mới rời khỏi ghế nhà trường đang trong quá trình đi tìm việc.
- Công việc hiện tại của người lao động không còn phù hợp (chuyên môn,

trình độ), họ sẵn sàng từ bỏ công việc đó để đi tìm một công việc khác thích hợp
hơn.


Thất nghiệp không tự nguyện: là hiện tượng người lao động có khả

năng lao động, trong độ tuổi lao động, có mong muốn làm việc nhưng do một số
nguyên nhân mà không được tuyển dụng, không có việc làm và trở thành thất
nghiệp.
4



Một số nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp không tự nguyện:
- Người lao động mong muốn làm việc với mức lương bình quân phổ biến

của ngành nghề mà họ có năng lực trên thị trường lao động nhưng tại nơi mà họ
đang tìm việc không có người sử dụng (không có vị trí công việc trống, nên
không có người tuyển dụng).
- Người lao động bị sa thải do cắt giảm sản xuất, tinh giảm biên chế, vi

phạm kỷ luật lao động và một số nguyên nhân khác.
b. Theo tính chất của thất nghiệp, có thể phân thành những loại sau:


Thất nghiệp tạm thời (hay thất nghiệp bề mặt): Phát sinh do sự di

chuyển của con người giữa các vùng, các miền, các công việc hoặc các giai đoạn
khác nhau của cuộc sống và họ cần có thời gian để tìm được việc làm thích hợp.
Đây là loại thất nghiệp khá phổ biến và thường xuyên diễn ra, thậm chí
một nền kinh tế được coi là đầy đủ công ăn việc làm thì loại thất nghiệp này vẫn
tồn tại.
Nguyên nhân:
-

Do quá trình đi tìm việc làm của sinh viên mới ra trường

-

Do sự thay đổi chỗ ở của người lao động

-


Phụ nữ quay lại lực lượng lao động sau khi có con

-

Đợi thuyên chuyển công tác

-

Mất việc làm do doanh nghiệp bị phá sản



Thất nghiệp cơ cấu: Do không có sự đồng bộ giữa kỹ năng tay nghề

của người lao động với cơ hội việc làm do nhu cầu lao động và sản xuất thay
đổi. Điều này phát sinh do sự mất cân đối giữa cung và cầu về các loại lao động.
Cầu của loại lao động này tăng, cầu loại lao động khác giảm, cung không điều
chỉnh kịp cầu.

5


Nguyên nhân:
Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường, sẽ có những ngành
phát triển thu hút nhiều lao động, nhưng cũng có nhiều ngành bị thu hẹp làm dư
thừa lao động. Nhưng lượng lao động này chưa kịp được đào tạo và đào tạo lại
để bổ sung vào chỗ cầu tăng lên. Điều này thấy rõ nhất giữa hai ngành công
nghiệp và nông nghiệp. Do ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp làm dư thừa lao động trong nông nghiệp. Trong khi đó cầu lao động
trong công nghiệp tăng do thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng lượng lao động

dư thừa chưa được đào tạo hoặc đào tạo lại để kịp thời bổ sung.


Thất nghiệp chu kỳ:

Loại thất nghiệp này gắn với chu kỳ của ngành và nền kinh tế. Nó xảy ra
khi chu kỳ kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái, nền kinh tế lâm vào tình
trạng khủng hoảng, lạm phát gia tăng làm tỷ lệ tăng trưởng của tổng cầu về sản
lượng giảm, doanh nghiệp thu hẹp sản xuất làm cho mức cầu lao động giảm
xuống.
Có hai dạng chu kỳ khác nhau:
- Chu kỳ công nghiệp (chu kỳ đền bù): Chu kỳ này thường kéo dài từ 7 – 8

năm và gắn với quá trình đổi mới máy móc sản xuất trong công nghiệp và những
ngành khác phụ thuộc vào nhịp độ đổi mới máy móc, mức độ khấu hao tự nhiên
các nguồn vốn sản xuất cơ bản và những nguyên nhân khác.
- Chu kỳ Kondrachep: Chu kỳ này do nhà bác học người Nga Kondrachep

Nicolai Dmitrievich tìm ra. Chu kỳ này thường kéo dài từ 40 – 50 năm và gắn
với những biến đổi cơ bản tất cả những yếu tố cấu thành sản xuất và thay đổi thế
hệ công nhân lao động.


Thất nghiệp mùa vụ: Loại thất nghiệp này phát sinh theo chu kỳ sản

xuất kinh doanh và xuất hiện phổ biến trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp với những công việc mang tính chất mùa vụ. Đây là loại thất nghiệp
dễ dự đoán trước.
6





Thất nghiệp do thiếu cầu: Đây là loại thất nghiệp theo lý thuyết của

Keynes, nó xảy ra khi tổng cầu giảm mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh
để phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần.
Chúng ta biết rằng: Tiền lương và giá cả được điều chỉnh theo mức cân
bằng dài hạn. Vì thế khi tổng cầu giảm một mức nhất định thì trong ngắn hạn sẽ
làm cho sản lượng giảm và mức hữu nghiệp thấp hơn. Một số công nhân muốn
làm việc tại mức lương thực tế hiện hành nhưng không thể tìm được việc làm.
Chỉ trong dài hạn, khi tiền lương và giá cả giảm đến mức cần thiết để phục hồi
tổng cầu ở mức hữu nghiệp toàn phần thì thất nghiệp do thiếu cầu mới bị triệt
tiêu.


Thất nghiệp cổ điển (thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường): Xảy

ra khi tiền lương được cố ý duy trì (ấn định không bởi các lực lượng thị trường)
ở mức cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động (mức mà tại
đó đường cung và đường cầu lao động cắt nhau).
Nguyên nhân:
- Do sự đấu tranh của công đoàn đòi tiền lương ở mức cao hơn mức tiền

lương cân bằng.
- Do sự quyết định một cách cứng nhắc của chính phủ về luật tiền lương tối

thiểu với mức lương cao hơn mức tiền lương cân bằng trên thị trường lao động.



Thất nghiệp dai dẳng:

Loại thất nghiệp này xảy ra do người lao động có tật về thể xác và thần
kinh nên hầu như không thể được thuê làm việc và những người tạm thời không
có việc làm trong thời gian chuyển công việc trong nền kinh tế, nơi mà các công
việc mời chào luôn luôn thay đổi.


Thất nghiệp công nghệ: Do sự áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ

thuật và công nghệ vào sản xuất ngày càng được tăng cường làm cho người lao
động trong các dây chuyền sản xuất bị dôi ra, từ đó làm phát sinh thất nghiệp
công nghệ.
7


Trên thực tế không phải loại hình thất nghiệp nào cũng là vấn đề nghiêm
trọng. Chỉ có một loại hình luôn làm nhiều người lo lắng và chiếm nhiều thời
gian thảo luận nhất của các nhà lập chính sách đó là thất nghiệp cơ cấu.
Ngoài các loại thất nghiệp trên còn một loại thất nghiệp mà chúng ta hay
đề cập đến đó là thất nghiệp tự nhiên.
Trong bất kỳ một quốc gia nào, luôn có một lượng thất nghiệp nhất định
(thậm chí khi quốc gia đó được đánh giá là toàn dụng công nhân). Đó là sàn thất
nghiệp tối thiểu phải chấp nhận được gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hạ thất
nghiệp đến mức đụng sàn có thể xem như là thành công trong mục tiêu toàn
dụng hay thất nghiệp thấp.
Tỷ lệ thất nghiệp này luôn tồn tại vì những nguyên nhân khách quan sau:
- Luôn tồn tại một tỷ lệ lao động lười biếng, thực sự không muốn làm việc.
- Có những lao động chấp nhận thất nghiệp tạm thời để tìm cơ hội có việc


làm khác với mức lương cao hơn vì không hài lòng với thu nhập thấp hiện tại.
- Nhiều lao động không cập nhật tay nghề, bị đào thải, đang chờ xin việc

khác hoặc phải học lại nghề.
- Lao động đang chờ phân công do chuyển việc.
- Lao động đang làm việc một phần thời gian.
- Lao động thất nghiệp vào những thời điểm nông nhàn ở nông thôn.

Vì các nhân tố trên nên việc hạ thất nghiệp xuống 0% là điều hoang
tưởng. Một số nhà kinh tế học thì cho rằng việc duy trì một tỷ lệ thất nghệp tự
nhiên là điều cần thiết. Đó sẽ là nguồn lực dự trữ cho quốc gia khi cần phải sản
xuất vượt tiềm năng, họ là đối tượng để giữ cân bằng tiền lương, không làm
lương bổng tăng nóng và bất hợp lý mỗi khi thị trường khan hiếm.

8


3.


ĐẶC ĐIỂM CỦA THẤT NGHIỆP

Theo tuổi: Thất nghiệp có xu hướng nhiều nhất ở các nhóm tuổi trẻ

nhất, giảm dần cho đến độ tuổi lao động chính. Một số nguyên nhân dẫn đến
điều đó là:
- Cũng giống như bất kỳ sự chuyển đổi nào, cần phải có một thời gian nhất

định để người lao động trẻ thích nghi khi chuyển từ ghế nhà trường sang môi
trường làm việc. Họ cần một thời gian để tìm hiểu các điều kiện của thị trường

lao động, chẳng hạn như có thể có những loại công việc gì, với mức lương bao
nhiêu, yêu cầu công việc như thế nào và nó có phù hợp với bản thân hay không?
Hơn thế nữa, thanh niên vẫn ở giai đoạn đầu của cuộc đời, phần lớn vẫn có chỗ
dựa là cha mẹ và chưa lập gia đình nên trách nhiệm của họ đối với gia đình là
không quá cao. Họ có thể chấp nhận thất nghiệp tạm thời một thời gian để chờ
một công việc có thu nhập cao hoặc có điều kiện làm việc tốt hơn hoặc phù hợp
hơn với bản thân.
- Ở độ tuổi lao động chính, người lao động thường phải có trách nhiệm với

gia đình, đòi hỏi phải có một việc làm với thu nhập ổn định. Thất nghiệp ở nhóm
tuổi này thực sự là thử thách đối với gia đình họ.
- Tuổi càng cao, người lao động tích luỹ được càng nhiều kinh nghiệm,

trình độ chuyên môn kỹ thuật được nâng cao, cơ hội tìm kiếm việc làm ngày
càng cao.
• Theo giới: Tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới thường cao hơn nam giới. Có rất

nhiều nguyên nhân dẫn đến điều đó, một trong những nguyên nhân chính là:
- Mặc dù trong điều kiện hiện nay, nam nữ bình đẳng nhưng tâm lý chung

của các nhà tuyển dụng vẫn thích tuyển nam giới hơn nữ giới. Bởi vì trong quá
trình công tác, nam thường có điều kiện đi công tác xa, ít phải bận công việc gia
đình nhất là con cái hơn nữ.
- Nam giới thường có sức khoẻ cũng như điều kiện để nâng cao trình độ

hơn nữ giới nên khả năng tìm kiếm việc làm cao hơn.
9


• Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Người có trình độ chuyên môn lành


nghề càng cao thì thất nghiệp càng ít. Nguyên nhân:
- Do nhu cầu lao động chất lượng cao ngày càng nhiều trong khi cung ứng

lao động này lại ít nên người có trình độ chuyên môn lành nghề càng cao thì khả
năng tìm việc càng dễ dàng hơn.
- Hơn nữa người có trình độ chuyên môn kỹ thuật và học vấn càng cao thì

càng có khả nhận nhiều loại công việc hơn.


Theo khu vực: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị

luôn cao hơn tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn.
Người ta nói rằng, nếu thất nghiệp là vấn đề của khu vực thành thị thì
thiếu việc làm vấn đề của khu vực nông thôn. Tại sao thất nghiệp là vấn đề của
thành thị, điều này sẽ được lý giải trong phần sau: Nguyên nhân thất nghiệp ở
khu vực thành thị. Còn ở khu vực nông thôn, mức sống chủ yếu là thấp, hơn nữa
họ thường không có một nguồn thu nhập nào khác nếu họ không làm việc. Vì
vậy họ dễ chấp nhận bất kì công việc gì và duy trì thời gian không làm việc là
ngắn nhất. Tuy nhiên, do khối lượng công việc ít, lại chủ yếu mang tính thời vụ
nên tuy không thất nghiệp nhưng thiếu việc làm là rất nhiều.
4.

ẢNH HƯỞNG CỦA THẤT NGHIỆP TỚI PHÁT TRIỂN KINH

TẾ XÃ HỘI
a/ Hậu quả kinh tế của thất nghiệp, được chia ra làm 3 cấp độ:



Đối với quốc gia:

- Thất nghiệp là một sự lãng phí nguồn lực xã hội. Đây là một trong những

nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển, hiệu quả
sản xuất kém hơn tiềm năng (tổng thu nhập quốc gia thực tế thấp hơn tiềm
năng). Hơn thế nữa, nếu thất nghiệp kéo theo sự gia tăng của lạm phát dẫn đến
nền kinh tế bị suy thoái và khả năng phục hồi chậm.

10


- Thất nghiệp làm giảm tổng thu nhập GDP của quốc gia, do đó làm giảm

cơ sở đánh thuế dẫn đến nguồn thu thuế của nhà nước giảm.
- Thất nghiệp làm gia tăng chi phí của nhà nước trong giới hạn gia tăng của

nó. Khối lượng chi phí này được thực hiện nhờ quỹ việc làm.
Đối với doanh nghiệp:



Thất nghiệp tạo cơ hội cho doanh nghiệp giảm giá sức lao động (đặc biệt
khi thất nghiệp kéo dài). Người thuê lao động (đặc biệt là các xí nghiệp nhỏ) kéo
dài tuần làm việc hơn so với quy định của pháp luật, kéo dài thời kỳ nghỉ không
lương, không trả tiền viện phí cho phụ nữ sinh con nhỏ, người lao động bị ốm
đau, không nhận lao động nữ vào làm việc, huỷ bỏ các hợp đồng lao động tuỳ
tiện,… Từ đó làm ảnh hưởng rất lớn tới lợi ích của người lao động.



Đối với cá nhân người lao động:

- Thất nghiệp là sự mất mát nguồn thu nhập đều đặn, thường xuyên.
- Đối với người lao động có thu nhập thấp, không có điều kiện để tích luỹ

tiền hoặc hiện vật. Khi thất nghiệp xảy cuộc sống của họ sẽ vô cùng khó khăn.
Nhiều khi vì cuộc sống mưu sinh bắt buộc họ phải làm việc ở những chỗ ít thú
vị, kém uy tín, không phù hợp với trình độ cũng như khả năng. Do đó hiệu suất
làm việc thấp, không đảm bảo yêu cầu của công việc đặt ra.
b. Hậu quả xã hội của thất nghiệp:
Thất nghiệp không chỉ là vấn đề kinh tế mà nó còn là vấn đề xã hội.
Những hậu quả xã hội mà nó gây ra là:
- Thất nghiệp làm mất đi thu nhập của gia đình làm tăng khoảng cách về sự

phân hoá thu nhập của dân cư.
- Thất nghiệp đẩy người lao động vào tâm trạng hoang mang, buồn chán,

thất vọng, tinh thần luôn bị căng thẳng dẫn tới khủng hoảng lòng tin, đồng thời
làm giảm sút sức khoẻ của con người.

11


- Không chỉ có vậy thất nghiệp còn dẫn đến tình trạng không hoạt động và

có thể đem đến sự suy đồi, phân hoá trong con người như: rượu chè, cờ bạc,
nghiện hút ma tuý… mắc phải những hoạt động phi pháp vô đạo đức. Nó chính
là một trong những nguyên nhân gây nên những hiện tượng tiêu cực, đẩy người
lao động đến bất chấp kỷ cương, luật pháp, đạo lý để tìm kế sinh nhai như: trộm
cắp, làm ăn phi pháp, buôn lậu…

- Thất nghiệp làm cho các mối quan hệ trong gia đình bị yếu đi. Vì mải lo

tìm kế sinh nhai mà những người cha, người mẹ quên mất trách nhiệm của mình
đối với gia đình và con cái, dẫn đến không ít sự tan rã của bao gia đình.
- Thất nghiệp gia tăng còn làm cho tình hình chính trị, xã hội bất ổn, hiện

tượng bãi công biểu tình có thể xảy ra. Người lao động giảm niềm tin vào chế
độ, vào khả năng lãnh đạo của nhà cầm quyền. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong
những chỉ tiêu đánh giá uy tín của nhà cầm quyền.

12


Chương 2: THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP Ở THÀNH THỊ VIỆT NAM
2.1. THẤT NGHIỆP CHUNG CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU
VỰC THÀNH THỊ
Bảng 1: Tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực
thành thị
Đơn vị: %
Năm

1999 200 2001 200
0
2
Tỷ lệ thất nghiệpTrong độ tuổi
chung của lực lao động 6.71 6.42 6.28 6.01
lượng lao động
Từ đủ 15 tuổi
6.46 6.34 __ 5.84
khu vực thành thị

trở lên

200 200 2005
3
4
5.78 5.6 5.31
5.60 5.44 5.1

Nguồn: Lao động - việc làm ở Việt Nam 1996 – 2003. Nxb Lao động – xã hội. Hà Nội

năm 2004; Kết quả điều tra lao động và việc làm 1/7/2004; 1/7/2005
Nhìn chung, thất nghiệp chung của lực lượng lao động ở khu vực thành thị
Việt Nam có xu hướng giảm, song tốc độ giảm chậm. Từ năm 1999 đến năm
2005 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên giảm từ 6.46%
xuống 5.1%, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi giảm từ
6.74% xuống còn 5.3%, bình quân mỗi năm giảm khoảng 0.2%, đạt mục tiêu của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là đến năm 2005 giảm xuống dưới
5.5%. Điều đó cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đúng đắn
trong việc giải quyết thất nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật ở trên thì thất nghiệp ở khu
vực thành thị vẫn còn những tồn tại, điều đó sẽ được thể hiện khi phân tích thất
nghiệp ở khu vực này theo các đặc trưng ở các phần sau.

2. THẤT NGHIỆP CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU
VỰC THÀNH THỊ THEO VÙNG, LÃNH THỔ.
13


Bảng 2: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi
trở lên ở khu vực thành thị theo vùng lãnh thổ


Đơn vị: % năm 2004; Kết quả điều tra lao động và việc làm 1/7/2004
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu
vực thành thị theo vùng lãnh thổ
Nguồn: Niên giám thống kê 2005.Nxb Thống kê 2006.
Cũng giống như thất nghiệp chung ở khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp
của lực lượng lao động ở khu vực thành thị theo các vùng lãnh thổ có xu hướng
là giảm dần qua các năm. Song bên cạnh đó nó còn có một số tồn tại sau:
- Có sự chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực

thành thị giữa các vùng. Năm 2005, trong khi tỷ lệ này ở vùng Đồng Bằng Sông
Hồng là 5.61%, Đông Nam Bộ là 5.62%, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ là
5.52 % thì vùng Tây Nguyên chỉ có 4.23% và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
là 4.87%.
- Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm song tốc độ giảm không đồng đều

giữa các năm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh nhất vào giai đoạn 1999 – 2000:
Đồng bằng sông Hồng giảm từ 9.34% xuống 7.34%, Đông Bắc giảm từ 8.72%
xuống 6.49%, Bắc Trung Bộ giảm từ 8.26% xuống còn 6.8%. Những giai đoạn
sau tốc độ giảm là chậm hơn.
3. THẤT NGHIỆP CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU
VỰC THÀNH THỊ THEO TỈNH, THÀNH PHỐ
Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành
thị theo tỉnh, thành phố
Xu hướng chung của tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị theo các tỉnh,
thành phố cũng là giảm dần qua các năm. Chỉ có một số ít tỉnh, thành phố là tăng
lên như Kon Tum tăng từ 3.57% (1999) lên 6.58% (2004), Đồng Tháp tăng từ
14



4.61% (1999) lên 5.16% (2004) và Lâm Đồng từ 2.80% (1999) lên 4.77%
(2004).
Tuy nhiên, ở đây cũng có sự không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố.
Cao nhất là các tỉnh Thái Bình 6.64%, Hà Nội 6.52%, Phú Thọ 6.45 %, Kon
Tum 6.58% và TP. Hồ Chí Minh 6.39% năm 2004. Thấp nhất là các tỉnh, thành
phố Lào Cai 2.24%, Vĩnh Phúc 2.3%, Cà Mau 3.2% và Đắc Lắc 3.87% năm
2004. Xu hướng tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị ở
các tỉnh, thành phố miền Bắc cao hơn miền Trung và miền Nam.
4. THẤT NGHIỆP CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU
VỰC THÀNH THỊ THEO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT
Bảng 5: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao đông ở khu vực thành thị theo
trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 1999.
Bảng 6: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động khu vực thành thị theo
trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 2004

Đơn vị: % Nguồn: Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2004
Bảng 7: Số lượng và tỷ lệ người thất nghiệp khu vực thành thị có CMKT
Qua các bảng trên ta nhận thấy:
- Thất nghiệp của người không có CMKT cao hơn người có CMKT. Trong

tổng số người thất nghiệp thì người có CMKT thất nghiệp chỉ chiếm có 23.98%
(2003), còn lại người là người không có CMKT. Tỷ lệ thất nghiệp của người
không có CMKT là 7.96% (2004), trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao nhất của nhóm
có CMKT (trình độ trung học chuyên nghiệp) cũng chỉ là 4.37% (2004).
- Đối với người chưa qua đào tạo CMKT chỉ mới thuần tuý tham gia giáo

dục phổ thông, trình độ văn hóa càng cao thì thất nghiệp càng lớn. Năm 1999:
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị không biết đọc biết

15



viết là 8.7%, tốt nghiệp THCS là 10.2 % và tốt nghiệp PHPT là 11.9%. Nguyên
nhân dẫn đến điều đó là:
+ Những người có trình độ thấp (không biết đọc biết viết, chưa tốt nghiệp
tiểu học, tốt nghiệp tiểu học) cơ hội lựa chọn nghề của họ không nhiều. Vì thế họ
dễ dàng chấp nhận các công việc đến với họ.
+ Những người có trình độ thấp như vậy chủ yếu là do thiếu sự quan tâm
của cha mẹ, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn… có thể dẫn đến việc buộc họ
phải bỏ học, kiếm sống từ bé.
+ Trong khi những người chỉ thuần tuý tốt nghiệp phổ thông trung học có
thể chỉ do trượt đại học, không muốn học nghề mà tiếp tục ngồi chờ cơ hội…
làm thất nghiệp của nhóm này cao hơn.
5. THẤT NGHIỆP CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU VỰC
THÀNH THỊ THEO NHÓM TUỔI
Bảng 8: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị theo nhóm
10 độ tuổi.
Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao đông ở khu vực thành thị theo
nhóm 5 độ tuổi
Giống như đặc trưng chung của thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp của lực
lượng lao động ở khu vực thành thị là tỷ lệ nghịch với độ tuổi. Cao nhất là nhóm
tuổi (15 – 24) 14.14% (2003), trong đó (15 – 19) là 15.0% và (20 – 24) là 13.8%.
Thấp nhất là nhóm tuổi (55 – 59) 1.93% (2003). Ngoài những lý do chung do
đặc trưng của thất nghiệp theo tuổi đã nêu thì thất nghiệp ở khu vực thành thị
Việt Nam tập trung ở nhóm tuổi trẻ còn do một số nguyên nhân khác nữa là:
+ Do hạn chế của công tác hướng nghiệp và tư vấn việc làm cho thanh
niên làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận thông tin và lựa chọn nghề thích hợp.
+ Thành thị là nơi thu hút một số lượng lớn thanh niên từ các vùng nông
thôn lên tìm việc.
16



+ Một lực lượng không nhỏ sinh viên khi ra trường không muốn về các
vùng nông thôn, cố bám trụ lại các thành thị, đặc biệt là các đô thị lớn như Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng…
6. THẤT NGHIỆP CỦA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở KHU VỰC
THÀNH THỊ THEO GIỚI
Bảng 10: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động nữ trong độ tuổi ở
khu vực thành thị
Xu hướng chung của thất nghiệp của lực lượng lao động nữ ở khu vực
thành thị là giảm dần qua các năm cả về thất nghiệp chung và thất nghiệp theo
các vùng. Năm 1999 đến 2004 thất nghiệp chung của lực lượng lao động nữ ở
khu vực thành thị giảm từ 7.36% xuống 6.7%. Nó có sự chênh lệch giữa các
vùng: Cao nhất là Đông Nam Bộ 8.88%, Đồng Bằng Sông Cửu Long 7.59% và
Đồng Bằng Sông Hồng là 6.91% năm 2003. Thấp nhất là Vùng Tây Bắc: 3.94%
(2003). Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong khu vực thành thị nói
chung là vẫn cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung của khu vực này. Có điều đó trước
hết là do các nguyên nhân chung của thất nghiệp đặc trưng theo giới đã nêu.
Ngoài còn do một số nguyên nhân khác như: Giai đoạn 2002 -2003 do quá trình
sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, đã hình thành nên đội ngũ lao
động dôi dư mà chủ yếu liên quan đến lao động nữ nhiều hơn so với nam giới,
làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ tăng lên.

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM THẤT NGHIỆP Ở KHU
VỰC THÀNH THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. NGUYÊN NHÂN THẤT NGHIỆP Ở KHU VỰC THÀNH THỊ
NƯỚC TA
17



Để nghiên cứu một cách đầy đủ thực trạng thất nghiệp ở khu vực thành
thị, chúng ta đi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến điều đó. Qua thực tế, có thể
thấy tình trạng thất nghiệp hiện nay ở khu vực thành thị là do những nguyên
nhân chủ yếu sau:
a. Cung lao động vượt quá cầu lao động
Hiện nay, sự gia tăng nhanh chóng của cung đã vượt quá cầu về lao
động ở khu vực thành thị dẫn đến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm
ngày càng tăng.
Cung lao động tăng lên chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do sự gia tăng của lực lượng lao động.
Do ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng dân số của giai đoạn trước
(những năm 80, 90 của thế kỉ 20) nên lực lượng lao động trong giai đoạn hiện
nay tăng trưởng một cách mạnh mẽ. Hiện nay, lực lượng lao động trong độ
tuổi lao động thành thị ở mức trên 10 triệu người. Bình quân mỗi năm lực
lượng này tăng thêm khoảng 480 nghìn người với tốc độ tăng bình quân là
5,2%. Chính vì lý do này mà cung về lao động tăng lên một cách nhanh
chóng. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên những năm gần đây giảm đi
đáng kể, vì thế trong vòng 10 năm nữa sự ảnh hưởng này sẽ được hạn chế.
Bảng 11: Lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị cả nước
năm 2004; Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2004; 1/7/2005
Thứ hai, do luồng di dân từ khu vực nông thôn lên thành thị.
Sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội ở khu vực thành thị hứa hẹn cho
những cơ hội làm việc tốt, với mức thu nhập cao. Trong khi ở khu vực nông
thôn, lao động nhiều, việc làm thì thiếu nhất là đối với các công việc mang tính
chất thời vụ, mức thu nhập thấp. Vì thế, tạo ra làn sóng di cư từ các khu vực
nông thôn về thành thị sinh sống và tìm việc làm.

18



Bên cạnh đó, hàng năm còn có một lượng khá lớn sinh viên các trường
dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp có nhu cầu ở lại khu
vực thành thị để tìm việc.
b.

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Châu Á

năm 1997
Việt Nam tuy không thực sự nằm trong lòng khủng hoảng, nhưng cũng bị
tác động bởi đầu tư nước ngoài giảm sút. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động
cầm chừng, số lượng lao động được thu hút bởi doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài giảm đi nhiều. Đến năm 2000, khi Luật đầu tư nước ngoài được sửa
đổi và có hiệu lực 1/8/2000 thì mới bắt đầu thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài quay trở lại Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp có giảm dần, tuy nhiên tốc độ
giảm lúc này còn chậm và tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao.
c.

Chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu phát

triển kinh tế xã hội.
Khu vực thành thị là nơi có thị trường phát triển sâu, rộng, đòi hỏi lực
lượng lao động với chất lượng cao. Tuy nhiên chất lượng của lực lượng lao động
nói chung hiện nay còn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Nhiều ngành
nghề đào tạo còn chưa phù hợp với yêu cầu thị trường, nhiều người học xong
không có việc làm hoặc phải làm nghề khác.
d.

Chính sách giảm biên chế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà

nước

Nhằm củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước, ngày 21 tháng 4 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị
20/1998/CT-TTg với nội dung là đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà
nước. Theo đó, một loạt các doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi thành
công ty cổ phần. Đồng thời với quá trình đó, một số biện pháp được thực hiện
nhằm giảm biên chế, hợp lý hoá nguồn lao động theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ
và chất lượng cao làm loại ra một số lượng khá lớn lao động dôi dư. Trong khi
19


đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy có khả năng mở rộng sản xuất thu hút
lao động, nhưng lại hạn chế về vốn, mặt bằng sản xuất, nên số lao động được thu
hút vào khu vực này hàng năm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu.
Sự phát triển khoa học công nghệ

e.

Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển làm nâng cao năng suất, chất
lượng, cải thiện điều kiện làm việc cũng như thu nhập của người lao động.
Nhưng đồng thời với nó, lao động giản đơn và trực tiếp trong các dây chuyền
sản xuất sẽ bị thay thế bởi công nghệ, kỹ thuật hiện đại nên số lao động dôi dư từ
các cơ sở sản xuất, dịch vụ tiếp tục gia tăng.
Tâm lý xã hội của dân cư khu vực thành thị trong việc lựa chọn

f.

việc làm.
Do mức sống ở khu vực thành thị cao nên người lao động khi lựa chọn
việc làm thường chỉ chọn những công việc có thu nhập cao và ít vất vả. Đối với
các công việc nặng nhọc, độc hại, cho dù thiếu nhân lực thì người thành thị vẫn

kém hào hứng, nhất là trong lĩnh vực vệ sinh môi trường, dịch vụ gia đình, lao
động trong ngành phục vụ xây dựng… Hơn nữa, do tâm lý xã hội còn nặng nề
làm cho học sinh tìm mọi cách để vào đại học, cao đẳng, không muốn học nghề.
Trong khi đó, nhu cầu tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao
đẳng vào làm việc ở các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước còn hạn chế.
2. GIẢI PHÁP GIẢM THẤT NGHIỆP Ở KHU VỰC THÀNH THỊ
VIỆT NAM HIỆN NAY
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em có đề xuất một số giải pháp
như sau:
a. Giảm cung lao động ở khu vực thành thị
• Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên.
Trước hết là giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở khu vực thành thị, sau đó là
ở khu vực nông thôn. Đối với khu vực thành thị, do mức sống và trình độ nhận
20


thức của người dân khá cao nên công tác dân số thực hiện không mấy khó khăn.
Tuy nhiên, khó khăn của khu vực này là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao chủ yếu là
do cơ cấu dân số trẻ (đặc biệt là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng,
TP. Hồ Chí Minh…). Cho nên việc giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở khu vực
này là không đáng kể. Điều mà chúng ta thực sự phải quan tâm, đó là giảm tỷ lệ
này ở khu vực nông thôn. Khi tỷ lệ tăng dân số ở khu vực này cao, kéo theo nó
là di dân từ khu vực này lên khu vực thành thị ngày càng nhiều. Các biện pháp
phải thực hiện là:
- Thực hiện xã hội hoá công tác truyền thông dân số bằng cách:

+ Tổ chức tốt mạng lưới thông tin, truyền thông dân số ở các cơ sở, cộng
đồng dân cư.
+ Huy động sự tham gia của các ngành, các đoàn thể, tổ chức xã hội và cá
nhân trong công tác dân số. Vận động các cơ quan, các tổ chức lồng nội dung

dân số vào điều lệ, mục tiêu, chương trình và kế hoạch hoạt động của mình để
tạo sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng.
- Xây dựng và hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội như quỹ bảo trợ

người neo đơn, nhà dưỡng lão, câu lạc bộ người cao tuổi, tổ chức tốt các quỹ
bảo hiểm nông dân,… để từ đó góp phần xoá bỏ tâm lý nhất thiết phải có con
trai, làm yên lòng những người không có con, ít con hoặc chỉ có con gái.
• Giảm tỷ lệ di dân từ khu vực nông thôn lên thành thị.


Thứ nhất, ban hành các chính sách quản lý di dân và lao động từ

khu vực nông thôn lên thành thị. Đối với một số thành phố lớn như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh… trong thời gian tới cần xây dựng hệ thống các nguyên tắc, tiêu
chuẩn và đối tượng được phép về sinh sống, làm việc sao cho đảm bảo quy mô
dân số phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực đó.


Thứ hai, phát triển kinh tế khu vực nông thôn.

21


Mục đích của phát triển kinh tế khu vực nông thôn là nhằm giữ chân
người lao động, giảm di dân từ nông thôn lên thành thị. Các biện pháp thực hiện
là:
- Đa dạng hóa sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp. Nâng cấp và hoàn thiện

hệ thống thuỷ lợi, phát triển thị trường hàng hoá, thị trường tín dụng và hệ thống
các dịch vụ hỗ trợ cần thiết cho sản xuất.

- Xây dựng và phát triển những trung tâm chuyên sản xuất và cung cấp

giống (cây, con) theo phương pháp tiên tiến và công nghệ sinh học hiện đại phục
vụ cho nhu cầu trong vùng và các vùng lân cận. Tiến hành quy hoạch các vùng
sản xuất hàng hóa chuyên môn hóa với quy mô lớn như vùng sản xuất rau sạch,
vùng trồng hoa, cây cảnh, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi cá, cây và con
đặc sản đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Phát huy thế mạnh của các ngành nghề, làng nghề, cụm làng nghề truyền

thống ở nông thôn, vốn đầu tư ít nhưng lại thu hút được nhiều lao động, rất phù
hợp với tiềm năng của khu vực. Khôi phục các làng nghề truyền thống, phát
triển các làng nghề mới và phát triển du lịch sinh thái. Tuy nhiên, để thực hiện
được mục tiêu này, Chính phủ cần có các chính sách trong việc ưu đãi, hỗ trợ
cho vay vốn, miễn giảm thuế cũng như hỗ trợ tìm kiếm thị trường đầu ra tiêu thụ
sản phẩm.
- Đồng thời tăng đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là tập trung

vào các lĩnh vực nhằm đáp ứng cho việc phát triển sản xuất như thủy lợi, giao
thông, điện và nước.
- Mở rộng các nguồn vốn cho hộ nông dân trực tiếp vay để phát triển sản

xuất. Phát huy hơn nữa vai trò của HTX kiểu mới, phát triển các loại hình dịch
vụ nông nghiệp.


Thứ ba, có chính sách khuyến khích các đối tượng có trình độ học

vấn về làm việc ở khu vực nông thôn. Đồng thời, triển khai công tác đào tạo
nghề cho lao động đặc biệt là thanh niên ở nông thôn.
22



b.

Phát triển kinh tế khu vực thành thị để tạo ra chỗ làm việc mới

và đảm bảo việc làm.
Đối với khu vực thành thị, đây là nơi đã có nền kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, trong thời gian tới chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện một số biện pháp
để phát huy tối đa các lợi thế kinh tế - xã hội nhằm giải quyết việc làm cho
người lao động.
Trước hết là về cơ cấu kinh tế, tiếp tục thực hiện theo cơ cấu công nghiệp
- dịch vụ - nông nghiệp. Về công nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành sản xuất
sử dụng công nghệ cao. Có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trong và
ngoài nước. Mở rộng liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm xuất khẩu lao
động tại chỗ. Chú trọng phát triển các danh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra nhiều
chỗ làm việc cho lao động. Về dịch vụ, không ngừng nâng cao chất lượng các
ngành dịch vụ đặc biệt là phát triển du lịch, vận tải, bưu điện, tài chính, ngân
hàng - những ngành giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong kinh tế khu vực thành
thị. Về nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng tăng năng suất lao động, lấy mục
tiêu hiệu quả kinh tế làm chủ đạo. Đồng thời từng bước hình thành một nền nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch. Và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành thị theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
c.

Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp ở khu vực thành thị đã
nêu ở trên là do chất lượng của nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội. Do đó, vấn đề phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực phải được đặt thành một chiến lược quốc gia. Cần huy động mọi nguồn lực
đầu tư, tăng quy mô và chất lượng cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.


Thứ nhất, công tác giáo dục và đào tạo cần phải phù hợp với yêu

cầu và thực tế phát triển của nền kinh tế. Vì thế, ngành giáo dục – đào tạo phải
không ngừng cải cách chương trình, nội dung cũng như phương pháp giảng dạy
ở tất cả các cấp, mà đặc biệt quan tâm đến giáo dục ở bậc đại học và dạy nghề
cho phù hợp với thực tế. Đào tạo nghề cần căn cứ trên định hướng phát triển
23


kinh tế, định hướng và quy hoạch phát triển các ngành, coi trọng công tác dự
báo nhu cầu lao động theo các trình độ, chuyên môn nhằm tránh khỏi tình trạng
thừa ở một số ngành này, nhưng lại thiếu ở một số ngành khác.


Thứ hai, thực hiện phương châm giáo dục và đào tạo không ngừng,

suốt đời. Việc giáo dục và đào tạo không chỉ trong quá trình học tập trên ghế
nhà trường, mà phải học cả ở thực tế, học ở ngoài xã hội. Không ngừng mở
rộng giao lưu quốc tế nhằm học hỏi các kinh nghiệm, nâng cao kiến thức.
Người lao động không chỉ hiểu biết chuyên sâu về một ngành nghề, mà còn
phải biết các kiến thức tổng hợp khác như: ngoại ngữ, vi tính, giao tiếp ngoài xã
hội…


Thứ ba, nghiên cứu, ban hành các chính sách phân luồng học sinh


ngay từ khi tốt nghiệp phổ thông trung học như quy định đối tượng được phép
tham gia thi vào các trường đại học, cao đẳng thông qua điểm học tập; khuyến
khích tham gia vào các trường dạy nghề bằng các học bổng từ ngân sách nhà
nước…
b. Xuất khẩu lao động
Qua thực tế nhiều nước trên thế giới, việc giải quyết thất nghiệp và thiếu
việc làm theo hướng xuất khẩu lao động là một trong những biện pháp rất hữu
hiệu. Thực hiện tốt công tác này, không những chúng ta giải quyết được thất
nghiệp mà còn tăng nguồn thu ngoại tệ cho phát triển kinh tế đất nước. Đồng
thời, nó cũng mở ra một hướng đào tạo nghề cho người lao động. Vì thế, trong
giai đoạn hiện nay xuất khẩu lao động phải được coi là mũi nhọn trên cơ sở mở
rộng thị trường. Phấn đấu đến giai đoạn 2006 – 2010 mỗi năm đưa được 7,5 vạn
người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tuy nhiên để đạt được điều
đó chúng ta cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
- Không ngừng nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu về trình độ chuyên

môn, trình độ ngoại ngữ, sức khoẻ cũng như cung cấp các thông tin về truyền
thống văn hóa của các nước tiếp nhận xuất khẩu cho người lao động, để họ có
24


thể nhanh chóng thích nghi với môi trường mới và đáp ứng được yêu cầu về lao
động ở nước này.
- Xây dựng một quy trình chặt chẽ và thống nhất về công tác xuất khẩu lao

động, có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp nhằm bảo vệ quyền lợi và
quản lý người lao động, hạn chế các tranh chấp phát sinh giữa người lao động và
người sử dụng lao động nước ngoài, cơ quan xuất khẩu lao động.
- Hoàn thiện các văn bản pháp luật về xuất khẩu lao động. Xác định cụ thể


các nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận lao động xuất khẩu nhằm
bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Tốt nhất là chỉ nên gửi lao động sang các
nước đã có luật bảo vệ quyền lợi cho lao động nước ngoài hoặc phê chuẩn các
công ước quốc tế về bảo vệ quyền lợi của người lao động di cư.
c. Hỗ trợ giải quyết việc làm cho người thất nghiệp và thiếu việc làm.


Thứ nhất, đẩy mạnh công tác dịch vụ, tư vấn việc làm. Đối với mỗi

khu vực thành thị, cần phải quy hoạch và quản lý tất cả các trung tâm dịch vụ
việc làm thuộc địa bàn. Đồng thời, nâng cao chất lượng của các trung tâm bằng
cách đặt ra những yêu cầu, tiêu chuẩn cho phép hoạt động. Trong số các trung
tâm đó, chọn một trung tâm làm thường trực giúp cho Sở LĐ – TBXH theo dõi,
hướng dẫn, đôn đốc các trung tâm còn lại hoạt động thống nhất và có hiệu quả
đáp ứng được yêu cầu tư vấn giới thiệu việc làm.


Thứ hai, quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải gắn liền

với việc giúp đỡ lao động dôi dư thông qua các hình thức: tái tạo nghề, hỗ trợ
tìm việc mới, cho vay tín dụng ưu đãi để tự giải quyết việc làm…


Thứ ba, chương trình giải quyết việc làm quốc gia cần đặc biệt quan

tâm đến những người thất nghiệp và đối tường có nguy cơ thất nghiệp ở khu
vực thành thị thông qua các biện pháp: mở rộng đối tượng vay vốn, mức cho
vay và tập huấn cách thức làm ăn để lao động thất nghiệp và lao động có nguy
cơ tự giải quyết việc làm.


25


×