Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận NGHIÊN cứu TRUYỀN THÔNG vai trò của truyền thông với vấn đề bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.48 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, cần sự chung tay và

nhiệt tâm của cả cộng đồng xã hội, cả nhân loại trên toàn cầu. Trong rất nhiều
nhiệm vụ và thách thức đặt ra thì truyền thông về bảo vệ môi trường vẫn giữ một
vai trò quan trọng, là mắt xích không thể thiếu để tuyên truyền, giúp nâng cao ý
thức của người dân về bảo vệ, gìn giữ môi trường, từ đó giúp việc bảo vệ môi
trường trở nên hiệu quả nhờ sự thống nhất ý chí và hành động trên phạm vi rộng
rãi nhất.
Báo chí là phương tiện truyền thông chủ lực. Dù thế giới đang phát triển
mạng xã hội và vô vàn những hình thức truyền tải thông tin khác, liên kết xã hội
thông minh đến đâu đi chăng nữa thì báo chí vẫn giữ vị trí vững chắc bởi có được
niềm tin mà cộng đồng gửi gắm vào ý thức và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Từ đó, những người làm nhà báo, làm truyền thông về môi trường sẽ phải có trách
nhiệm hơn với bài viết của mình đưa ra những bài viết hay, ý nghĩa về môi trường,
giúp người dân hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường.
2.

Tính cấp thiết của đề tài:
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người. Nếu

môi trường sống bị hủy hoại thì loài người có nguy cơ bị hủy diệt. Cuộc sống của
con người luôn gắn bó mật thiết với môi trường: Môi trường tạo không gian sinh
sống cho con người, là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho sự sống và
hoạt động sản xuất của con người, là nơi chứa đựng, hấp thụ và trung hòa các chất
thải ra từ quá trình sinh sống và sản xuất của con người. Tuy vậy, quá trình hoạt
động của con người đã vi phạm nghiêm trọng các yếu tố cân bằng của tự nhiên một
cách liên tục và ngày càng lớn, đã và đang làm cho thế giới ngày càng biến đổi: Đó




là sự ô nhiễm của môi trường, sự cạn kiệt của tài nguyên, sự mất đi của rừng, sự
biến đổi của khí hậu, sự biến mất hay tuyệt chủng của nhiều loài,…
Thực trạng môi trường ô nhiễm do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là
do ý thức con người, do nhận thức không đúng đắn và đầy đủ về môi trường và
trách nhiệm bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ là vấn đề sống
còn đối với mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư; là việc phải làm
thường xuyên, liên tục và là trách nhiệm của mọi công dân.Các hình thức của giáo
dục môi trường rất đa dạng, phong phú như giáo dục theo cá nhân, theo nhóm, theo
cộng đồng; tuyên truyền giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng, phổ
biến chính sách, pháp luật về môi trường; thực hiện các dự án môi trường; tiến
hành các hoạt động thông qua các tổ chức đoàn thể, giáo dục trong nhà trường,…
3. Mục đích, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Bài viết tập trung làm rõ các vấn đề sau: môi trường, thực trạng và nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường, chương trình hành động, phong
trào và các giải pháp cụ thể để bảo vệ môi trường.
Bài viết nhằm đưa ra cách hiểu và quan điểm của mình về khái niệm bảo vệ
môi trường, đặc biệt là vai trò của truyền thông đối với vấn đề bảo vệ môi trường,
tác động của ô nhiễm môi trường đến con người và thiên nhiên.
Bài viết bổ sung vào lý luận báo chí nói chúng và truyền hình nói riêng, góp
phần trong việc hoàn thiện hơn về quan niệm và khái niệm bảo vệ môi trường, và
định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực.
Làm rõ thực trạng môi trường và đề xuất giải pháp về công tác tuyên
truyền giáo dục để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ môi trường.


4. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng phương pháp tổng hợp thông tin
trên các loại sách nghiên cứu, sách nghiệp vụ báo chí, chuyên ngành truyền hình,

các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo in, báo mạng điện tử,
internet…v.v.
Ngoài ra, trong bài viết này, tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê (để
lấy những số liệu cụ thể), tổng hợp, phương pháp quan sát, so sánh, phân tích, đánh
giá, khảo sát thực tiễn của người viết dựa trên cơ sở những dẫn chứng thực tế và
phương pháp điều tra xã hội học (lấy những ý kiến của khán giả về chương
trình)....Đó là những phương pháp, cơ sở quan trọng giúp tác giả khái quát đưa ra
những nhận định có tính thuyết phục trong bài viết.
5. Những đề xuất cụ thể:
Một là, cần xác định: huy động toàn dân tham gia bảo vệ môi trường là
nhiệm vụ hàng đầu để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Hai là, tăng cường sự phối hợp, thống nhất hành động giữa các tổ chức thành
viên, đặc biệt là các cơ quan thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền để tạo được sự đồng thuận mạnh mẽ của nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ
môi trường.
Ba là, Qua các phương tiện thông tin đại chúng, hướng dẫn, tổ chức để nhân
dân nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi theo hướng tích cực bảo vệ môi
trường, phòng chống suy thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường.
Bốn là, lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường với các phong trào, các cuộc
vận động như cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư; tôn vinh, nhân rộng các mô hình, các gương điển hình bảo vệ môi trường;


đồng thời, phê phán mạnh mẽ các hành vi, thói quen, tập quán sinh hoạt lạc hậu
gây tác hại đến môi trường
Năm là, đẩy mạnh hơn nữa phong trào: “Toàn dân tham gia bảo vệ môi
trường”. Qua phong trào, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường; tuyên
truyền, vận động, thuyết phục người xung quanh cùng tham gia bảo vệ môi trường,
giữ gìn, xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp.



NỘI DUNG

Chương I: Khái quát về môi trường và truyền thông môi trường
1.
Khái quát về môi trường:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật” (Mục 1, điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được Quốc
hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005).
Khái niệm môi trường chung này tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà được
phân chia một cách chi tiết hơn. Theo cách phân chia tương đối theo nguồn gốc thì
môi trường được quan niệm thành 3 dạng là môi trường tự nhiên, xã hội và nhân
tạo:
-

Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố vật lý, hoá học, còn

được gọi là môi trường vật lý, tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con
người.
+ Môi trường vật lý (Physical environment): để chỉ các yếu tố nhiệt độ,
bức xạ, áp suất khí quyển, màu, mùi, vị...
+ Môi trường hoá học (Chemical environment) : chỉ những nguyên tố và
các hợp chất hoá học. Đây là dạng môi trường “vô sinh” (abiotic).
+ Môi trường sinh học (Biological environment): gồm động vật, thực vật,
vi sinh vật. Đây là dạng “biotic”. Khái niệm “môi trường sinh thái” được sử
dụng nhiều vì suy cho cùng m ọi vấn đề môi trường đều do nguyên nhân suy
giảm sinh thái.
-


Môi trường xã hội: phản ánh mối quan hệ giữa con người và

con người tạo nên sự thuận lợi hay cản trở cho sự phát triển xã hội.


-

Môi trường nhân tạo: môi trường của tất cả các yếu tố vât lý -

hoá học - sinh học và xã hội, chịu sự chi phối của con người và sự biến đổi
do hoạt động của con người.
Ngoài cách phân loại dựa trên nguồn gốc ở trên, môi trường
còn có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
+ Theo nghĩa rộng: môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên, xã
hội có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của con người và các nguồn tài
nguyên phục vụ cho đời sống con người. Theo nghĩa này khái niệm môi trường
bao g ồm cả nghĩa tài nguyên.
+ Theo nghĩa hẹp: môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội, ảnh
hưởng tới chất lượng sống của con người mà không xem xét đến vấn đề tài
nguyên. Theo nghĩa này thì môi trường chỉ “chất liệu môi trường”.
Tuy nhiên, sự phân chia các khái niệm này chỉ là tương đối, phục vụ cho
các mục tiêu nghiên cứu chuyên ngành. Các hợp phần và yếu tố của môi trường
luôn có mối liên hệ và quy ước với nhau.
2. Khái niệm truyền thông môi trường:
* Truyền thông:
Truyền thông là quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng, tình cảm, suy nghĩ, thái
độ, chia sẻ kinh nghiệm giữa hai hay một nhóm người với nhau để tạo ra một sự
đồng thuận cao hơn, một sức mạnh lớn hơn. Truyền thông có vai trò rất quan trọng
trong đời sống, sinh hoạt của con người, đặc biệt:

- Truyền thông là một công cụ thiết yếu để đạt được các mục tiêu của chính
sách hay một dự án và đòi hỏi một cách tiếp cận có hệ thống được lên kế hoạch từ
trước, liên quan đến các bên liên quan và đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng
của chính sách hay dự án.


- Truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong lập chương trình hay xác
định dự án, ban hành, thực thi, kiểm soát, đánh giá chính sách hoặc dự án và duy
trì sự điều khiển. ở mỗi phần khác nhau của một dự án, một chiến lược hay chính
sách, truyền thông có những vai trò khác nhau. Điều quan trọng là cần xác định dự
án, chiến lược, chính sách đang ở giai đoạn nào để có những hoạt động truyền
thông thích hợp.
- Truyền thông đóng một vai trò tích cực để đưa thông tin vào trong cuộc
tranh luận nhằm đạt được sự chấp thuận từ phía những người lãnh đạo, nhà chính
trị, cũng nhằm sắp xếp các vấn đề trong chương trình nghị sự của xã hội và chuẩn
bị những bước khởi đầu cho sự phát triển xã hội. Truyền thông được sử dụng như
nhau trong việc bày tỏ sự quan tâm của mọi tầng lớp trong xã hội từ những người
dân đến các nhà hoạch định chính sách hay những người cung cấp dịch vụ. Một
phần quan trọng của truyền thông là lắng nghe, làm rõ vấn đề, sự tiếp thu, thái độ,
thiện chí tham gia của mọi người, các hoạt động thực tiễn, những trở ngại dễ thay
đổi và các lợi ích tiềm ẩn. Điều này cho phép có thể dựa vào những nỗ lực truyền
thông để giải quyết các vấn đề dẫn tới những hoạt động không phù hợp gây ra do
sự thiếu kiến thức, thái độ hay khả năng thực hiện hành động. Truyền thông sẽ có
hiệu quả nhất khi được kết nối với các vấn đề cụ thể mà nhờ đó các hoạt động khả
thi và thuận lợi có thể thấy rõ được.
* Sự khác nhau giữa thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông là hai lĩnh vực không hoàn toàn giống nhau.
Thông tin là sự chuyển giao tín hiệu một chiều từ người gửi đến người nhận.
Truyền thông còn bao gồm cả phương tiện truyền thông, bối cảnh xã hội, đối thoại
và quan trọng nhất là ý nghĩa “chia sẻ” giữa hai hay nhiều người, đó là mối tương

tác xã hội dài hạn.


* Truyền thông bảo vệ môi trường :
Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác hai chiều, giúp cho mọi
đối tượng tham gia vào quá trình đó cùng tạo ra và cùng chia sẻ với nhau các thông
tin bảo vệ môi trường, với mục đích đạt được sự hiểu biết chung về các chủ đề có
liên quan, và từ đó có năng lực cùng chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi trường với
nhau. Hiểu biết chung sẽ tạo ra nền móng của sự nhất trí chung, và từ đó có thể đưa
ra các hành động cá nhân và tập thể để bảo vệ môi trường.
Truyền thông môi trường có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi của người dân trong cộng đồng, từ đó thúc đẩy họ tham
gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường; không chỉ tự mình tham gia mà còn lôi
cuốn những người khác cùng tham gia, để tạo ra những kết quả có tính đại chúng.
Truyền thông môi trường góp phần cùng giáo dục môi trường để:
+ Nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường
+ Thay đổi thái độ của người dân về bảo vệ môi trường
+ Xác định tiêu chí và hướng dẫn cách lựa chọn hành vi bảo vệ môi trường
có tính bền vững.
Truyền thông môi trường rất đặc biệt vì:
 Môi trường là một hệ thống phức tạp;
 Tác động và hậu quả của các hành vi không phù hợp với môi trường
không thể dễ dàng thấy được ngay;


 Các hành vi gây tác hại tới môi trường đã trở thành thường xuyên, thói
quen, tập quán trong xã hội;
 Những hành vi phù hợp với môi trường không mang lại lợi nhuận trực
tiếp.
 Đối tượng truyền thông là những người có học vấn, chuyên môn, kinh

nghiệm sống, vị trí xã hội,...rất khác biệt nhau.
Tại sao cần truyền thông môi trường ?
- Các dự án/chương trình môi trường thường đem lại kết quả hạn chế, vì
những sự đổi mới và giải của dự án hay chương trình đưa ra không được những
người có liên quan hiểu rõ và cùng tham gia.
- Những người thực hiện các dự án hay chương trình môi trường thường
nghĩ rằng các sự kiện khoa học và sự quan tâm của họ đến môi trường có sức
thuyết phục. Tuy nhiên người dân thường nhận thức vấn đề thông qua xúc cảm và
giao tiếp xã hội hơn bằng lý lẽ và kiến thức.
- Nhiều cấp ra quyết định không biết cách làm thế nào để lồng ghép một
chiến lược truyền thông vào các dự án bảo vệ môi trường.


Chương II: Mục tiêu, yêu cầu và vai trò của truyền thông đối với vấn đề
bảo vệ môi trường
1.

Mục tiêu

Nâng cao nhận thức của công dân về bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường, thay đổi thái độ, hành vi về môi trường, tạo lập cách
ứng sử thân thiện với môi trường, tự nguyện tham gia các hoạt động bảo vệ môi
trường. Phát hiện các tấm gương, mô hình tốt, đấu tranh với các hành vi,
hiện tượng tiêu cực xâm hại đến môi trường.
Xây dựng nguồn nhân lực và mạng lưới truyền thông môi trường, góp phần
thực hiện thành công xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
2.

Yêu cầu


Truyền thông môi trường có một số yêu cầu sau:
+ Tuân thủ luật pháp, kể cả các quy định cấp quốc tế, quốc gia và cấp
địa phương về bảo vệ môi trường.
+ Đảm bảo tính hiện đại, chính xác của các kiến thức về môi trường
được truyền

thông.

+ Truyền thông môi trường phải có hệ thống, kế hoạch và chiến lược. Mỗi
một chương trình cần là bước đệm cho các chương trình sau, cao hơn về nội dung
và mới hơn về hình thức.
+ Phù hợp với đối tượng truyền thông, đặc biệt là phù hợp về văn hoá,
trình độ học vấn và kinh tế.


+ Tạo dựng sự hợp tác rộng rãi giữa truyền thông môi trường với các
chương trình, dự án truyền thông của các ngành khác, đặc biệt là sự hỗ trợ của
lực lượng truyền thông môi trường tình nguyện.
Như vậy, truyền thông cần phải rất cụ thể nhằm nâng cao kiến thức, tác
động đến thái độ và hành vi của cộng đồng và truyền thông cũng cần phải gắn bó
đối với cộng đồng liên quan đến môi trường. Bởi lẽ, cộng đồng vừa là đối tượng
của truyền thông, và hành vi của họ cũng là thước đo hiệu quả của truyền thông đối
với vấn đề môi trường. Và đây cũng là chủ thể tác động lên vấn đề truyền thông và
quá trình truyền thông đối với việc bảo vệ môi trường.
Trong truyền thông môi trường, sự tham gia của cộng đồng vào tất cả
các bước có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công của một chiến lược, kế
hoạch truyền thông. Sự tham gia ở đây chính là quá trình tạo điều kiện cho cộng
đồng có thể sử dụng nguồn lực của mình, huy động nguồn lực đó cho quá trình
thiết kế, vận hành và duy trì hoạt động của chương trình truyền thông môi trường.
Các vấn đề môi trường thường là vấn đề liên ngành, có phạm vi ảnh hưởng

và tác động tới mọi tầng lớp trong xã hội và tới mọi mặt của đời sống con người.
Vì thế, đối tượng truyền thông môi trường là những người có trình độ học vấn,
chuyên môn, kinh nghiệm sống, vị trí xã hội… chênh lệch rất khác biệt.
Những tác động và hậu quả của các hành vi không phù hợp với môi trường
là không thể dễ dàng thay thế được. Thậm chí, nhiều hành vi đã trở thành thói quen
và tập quán trong xã hội. Trong khi đó, những hành vi phù hợp với môi trường
không đem lại lợi nhuận trực tiếp, không đáp lại những kết quả có thể nhìn thấy
được. (Nguyễn Nguyên Cương và cs, 2001).


3.

Vai trò của truyền thông môi trường trong vấn đề bảo vệ

môi trường
Nhu cầu mong muốn hưởng thụ một môi trường trong lành, an toàn luôn
mâu thuẫn với nhu cầu hưởng thụ một đời sống vật chất sung túc gắn với các hoạt
động gây tác động tiêu cực đến môi trường. Từ đó cũng đang đặt ra những thách
thức trong công tác quản lý môi trường khi phải đối mặt với thái độ, hành vi của
mỗi người trong cộng đồng. Vì vậy, truyền thông môi trường cần phải được xem
như là một công cụ cơ bản trong công tác đưa xã hội hoá đến với bảo vệ môi
trường. Nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái độ, hành vi của con
người trong cộng đồng, từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào các hoạt động
bảo vệ môi trường và không chỉ tự mình tham gia mà còn lôi cuốn những người
khác cùng tham gia, tạo nên những kết quả chung của toàn xã hội.
+ Ngoài ra, truyền thông còn là một quá trình tương tác xã hội hai chiều,
giúp cho mọi đối tượng tham gia vào quá trình đó cùng tạo ra và cùng chia sẻ với
nhau các thông tin về môi trường, với mục đích đạt được sự hiểu biết chung về các
vấn đề môi trường có liên quan, từ đó có khả năng chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi
trường.



Chương III: Tăng cường hiệu quả vai trò của báo chí, truyền thông
trong vấn đề bảo vệ môi trường
1.

Truyền thông cùng với cơ quan quản lý nhà nước tuyên

truyền chính sách bảo vệ môi trường
Truyền thông là quá trình đưa ra những chủ trương, chính sách, biện pháp
của chủ thể quản lý đến với đối tượng quản lý nhằm hướng đối tượng theo ý chí
của chủ thể, đạt mục tiêu đề ra. Đây là quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng, tình c
ảm, suy nghĩ, thái đ ộ giữa các cá thể, các nhóm người. “ Truyền thông môi
trường” là quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho người có liên quan
hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa
chúng và tác động thích h ợp để gi ải quy ết vấn đề về môi trường.
Theo khoản 2, Điều 5, luật Bảo vệ môi trường :“ đẩy mạnh hoạt động tuyên
truyền, giáo dục, vận động, kết hợp các biện pháp tài chính, kinh tế và các biện
pháp khác để xây dưng ý thức tự giác, kỷ cương trong bảo vệ môi trường”.
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục bảo vệ tài nguyên môi trường là trách
nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt nó là trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước. Cụ thể: UBND các cấp ( điểm điều khoản 2, Điều 122,
Luật Bảo vệ môi trường), của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( Khoản 1, Điều 124,
Luật Bảo vệ môi trường)
- Các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện hoạt động tuyên
truyền về giữ gìn tái tạo nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Cụ thể:


+ Tuyên truyền giáo dục môi trường là hoạt động chủ yếu trong công việc tổ
chức và quản lý của các cơ quan nhà nước. Đây chính là công cụ quản lý của nhà

nước về tài nguyên và môi trường.
+ Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, huy động toàn dân tham
gia thì công tác bảo vệ mới thành công. Công tác này có vai trò to l ớn trong s ự
nghiệp bảo vệ môi trường.
+ Thực hiện tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nh ận th ức về môi trường
để vấn đề này trở thành trách nhiệm của toàn xã hội, “ sự nghiệp của toàn dân”.
Vì vậy truyền thông giúp các đối tượng liên quan nhận thức và có sự quan
tâm đến vấn đề môi trường, tìm kiếm các giải pháp khắc phục, giúp các đối tượng
bị ảnh hưởng có giải pháp tự vệ trước sự ô nhiễm môi trường.
Huy động các biện pháp,kinh nghiệm, kỷ năng, bí quyết tham gia vào
chương trình bảo vệ môi trường.
Thương lượng, hòa giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường
giữa các cơ quan và trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào bảo vệ môi trường,
xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
Tác động đến ý thức người dân làm cho họ thay đổi hành vi c ủa mình tác
động tiêu cực đến môi trường.
*) Truyền thông tuyên truyền vấn đề bảo vệ môi trường qua một số phương
thức sau:
- Thứ nhất: phổ biến kiến thức pháp luật, tuyên truyền, phổ cập hóa nhận
thức môi trường theo các chương trình và các thông tin môi trường trên các ph


ương tiện thông tin đại chúng ( báo chí, ti vi, radio, pa nô, áp phích, tờ rơi, phim
ảnh...)
- Hai là: mở các lớp tập huấn nhằm chuyển thông tin tới các nhóm thông qua
hội thảo tập huấn, huấn luyện, họp nhóm, tham quan, khảo sát...
- Ba là: đưa nội dung này vào trong giáo dục, đào tạo ở tất cả các cấp học,
trong đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp...
- Bốn là: đào tạo chuyên gia về môi trường.

- Năm là: có biện pháp khuyến khích những tập thể, cá nhân, doanh nghiệp
có những việc làm tốt, có những sáng kiến trong giữ gìn, bảo vệ môi trường.
Thông qua các biện pháp, phương thức tuyên truyền phong phú, đa đạng mà
có sự tác động chuyển biến mạnh mẽ trong ý thức, hành vi của đối với người dân,
các tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh…. Cũng như làm thay đổi
nhận thức của nhân dân về vai trò của bảo vệ môi trường đối với cuộc s ống, đối
với sự phát triển trên toàn xã hội, giúp họ hiểu được thực trạng của môi trường
hiện nay như thế nào.
Từ đó sẽ tác động đến hành vi, ý thức đến người dân, các tổ chức, các doanh
nghiệp, các công ty, các cơ sở sản xuất kinh doanh…
2.

Các mô hình truyền thông môi trường

Có ba loại hình truyền thông cơ bản: truyền thông dọc, truyền thông ngang
và truyền thông theo mô hình.
* Truyền thông dọc:
Là truyền thông không có thảo luận, không có phản hồi. Người phát thông
điệp không biết chính xác người nhận thông điệp cũng như hiệu quả của công tác


truyền thông. Các phương tiện thông tin đại chúng (báo, phát thanh, truyền hình) là
các công cụ truyền thông dọc.
Truyền thông dọc ít tốn kém và phù hợp với các vấn đề môi trường toàn cầu
và quốc gia. Loại hình này rất hiệu quả khi truyền thông về các vấn đề đang được
công chúng quan tâm.
* Truyền thông ngang
Là truyền thông có thảo luận và phản hồi giữa người nhận và người phát
thông điệp. Loại truyền thông này khó hơn, tốn kém hơn nhưng có hiệu quả lớn.
Truyền thông ngang phù hợp với cấp dự án và góp phần giải quyết các vấn đề môi

trường của địa phương và cộng đồng.
* Truyền thông theo mô hình
Đây là hình thức truyền thông cao nhất và hiệu quả nhất. Bằng mô hình cụ
thể, sử dụng làm địa bàn tham quan trực tiếp. Tại địa điểm tham quan, chuyên gia
truyền thông và công chúng có thể trực tiếp trao đổi, thảo luận, xem xét, đánh giá
về mô hình.
Ví dụ: mô hình sử dung bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường như quản lý
bao bì hoá chất bảo vệ thực vật, bioga, quản lý rác thải... Hình thức truyền thông
theo mô hình rất phù hợp với các khu công nghiệp, thủ công nghiệp, nông thôn và
miền núi, là những nơi công chúng phải thấy rõ giá trị thực tế, chi phí và hiệu quả
của mô hình.
3.

Giải pháp phối hợp giúp truyền thông thực hiện hiệu quả

tuyên truyền bảo vệ môi trường


Trong vấn đề bảo vệ môi trường, chúng ta cần phải nhấn mạnh đến lợi ích và
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân. Có thể nhấn mạnh mấy khía cạnh sau về lợi ích:
Cá nhân con người sống phải có trách nhiệm với cộng đồng, với tương lai con
cháu. Giữ gìn môi trường vì thế vừa là đạo đức, vừa là văn hóa và trí tuệ con người
trong thời đại văn minh. Với các doanh nhân, bảo vệ môi trường đi đôi với lợi
nhuận doanh nghiệp. Tăng chi phí cho bảo vệ môi trường nhưng bù lại doanh
nghiệp có cơ hội bán được số lượng hàng hóa lớn hơn. Người tiêu dùng trong xã
hội văn minh không chỉ muốn có hàng hóa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, điều
kiện giao hàng thuận lợi… mà hàng hóa đó còn phải thân thiện với môi trường.
Ngược lại, hàng hóa của những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường sẽ có nguy
cơ bị tẩy chay.
Truyền thông cần tập trung về khía cạnh pháp lý. Doanh nghiệp, cá nhân vi

phạm môi trường không chỉ bị xử phạt hành chính mà còn phải đối diện với các
chế tài nghiêm khắc của pháp luật như: Bồi thường nếu gây hại môi trường; đóng
cửa nhà máy, doanh nghiệp vi phạm pháp luật môi trường nghiêm trọng; nâng cao
mức xử phạt, mức phạt phải tương xứng với lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu
được.
Hầu như không có ngày nào, báo chí không đưa tin về các hành vi xâm hại
môi trường. Sự lên án mạnh mẽ của dư luận một một mặt cho thấy tác dụng của
báo chí truyền thông trong đấu tranh trước các hành vi vi phạm môi trường, mặt
khác cũng cảnh tỉnh ngăn ngừa hiệu quả những hành vi vi phạm tiếp theo có thể
phát sinh.
Từ hoạt động truyền thông về bảo vệ môi trường trên báo chí, trong thời
gian tới, cần có một số giải pháp điều chỉnh để nâng cao hiệu quả truyền thông
như:


-

Cần có thêm những kênh truyền thông chuyên biệt, hiệu quả

về môi trường và phát triển bền vững cho từng đối tượng khác nhau;
Cần khuyến khích và tổ chức thêm nhiều cuộc thi tác phẩm
báo chí, các hình thức sáng tạo slogan, clip bảo vệ môi trường trên báo chí.
Bảo đảm tránh hình thức, để nhiều người có thể tham gia, đưa giải thưởng
theo tuần hay tháng để tránh sự nhàm chán, trùng lặp, tạo hiệu ứng xã hội
cao.…;
-

Tăng cường truyền thông về các sáng kiến bảo vệ môi trường,

các công nghệ bảo vệ môi trường phù hợp với điều kiện doanh nghiệp hiện

nay;
-

Cần tránh thái độ nôn nóng, phê bình gay gắt, miệt thì quá

mức hành vi vi phạm của cá nhân, doanh nghiệp; cần nhận thức đây là một
quá trình, cần quan tâm đến điều kiện, nhu cầu cụ thể của cá nhân, doanh
nghiệp để tìm giải pháp phát triển vững và bảo vệ môi trường.


KẾT LUẬN
Như vậy, trong quá trình xã hội phát triển như hiện nay, nhà báo cần phải
luôn trau dồi kiến thức phong phú về môi trường. Luôn lắng nghe mọi nguồn tin và
biết chọn lọc nguồn tin có lợi và nguồn tin thất thiệt để truyền đạt với người dân về
vấn đề bảo vệ môi trường.
Trong quá trình khai thác và thu thập thông tin cũng đòi hỏi tới trình độ hiểu
biết cả nhà báo, phải nắm bắt được nhiều thông tin càng tốt…
Tuy nhiên, ngoài việc nhà báo, truyền thông tuyên truyền bảo vệ môi trường
thì qua thực tế cho thấy nhận thức của người dân về môi trường và biến đổi khí hậu
nói chung còn thấp. Để có chuyển biến tích cực, nhất thiết phải có sự vào cuộc từ
nhiều phía. Trong việc tuyên truyền, báo chí giữ vai trò trung tâm nhưng cũng
không thể bỏ qua sức mạnh và tác dụng to lớn của các phương tiện truyền thông
khác, đặc biệt là truyền thông xã hội. Tận dụng được điều này sẽ thu hút được trí
tuệ, khả năng sáng tạo của hàng triệu triệu người để phục vụ lợi ích chung của
cộng đồng./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Báo môi trường (báo điện tử)

2. Vnexpress
2. Báo lao động
3. Báo Tiền Phong……..
4. [1]. Luật Bảo vệ môi trường, tr 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
[2]. Luật Bảo vệ môi trường, tr 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994
5. [3].Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Duy Nhiên, tr 53, Những vấn đề của thời đại,
Nxb Đại học Sư phạm.


6. [4].Tạp chí Mặt trận, Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân bảo vệ môi trường của Mặt trận Tổ quốcViệt Nam,
trang 15.
7. TS Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển,
NXB thông tấn, Hà Nội
8. PGS.TS Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội
9. PGS.TS Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
10. />11. www.iucn.org
12. />13. TS. Nguyễn Thị Trường Giang
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Tham luận tại Hội thảo quốc tế về “Thực trạng báo chí truyền thông về môi
trường ở châu Á” do khoa Báo chí và Truyền thông (trường ĐH KHXH và NV Hà
Nội phối hợp với Qũy Konrad-Adenauer-Stiftung (Đức) tổ chức vào ngày 24 và
25.5.2012).
14. Luật Bảo vệ môi trường, tr 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994. [2].
Luật Bảo vệ môi trường, tr 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994



[3].Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Duy Nhiên, tr 53, Những vấn đề của thời đại, Nxb Đại
học Sư phạm.
15. Tạp chí Mặt trận, Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân bảo vệ môi trường của Mặt trận Tổ quốcViệt Nam, tr 15
Nguyễn Thị Diệu Liêng - Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học An Giang.



×