Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

GIÁO ÁN BÀI NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.46 KB, 57 trang )

A. KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
1. Tên bài giảng: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2. Thời gian giảng: 8 tiết (mỗi tiết 45 phút)
3. Đối tượng người học: Cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn
thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng,
phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của
sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh
trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng khác.
4. Mục tiêu:
4.1. Về kiến thức: Trang bị cho học viên nội dung chủ yếu trong chiến lược
bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở
thống nhất nhận thức để thực hiện các giải pháp nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam.
4.2. Về kỹ năng: Giúp học viên bồi dưỡng kỹ năng thực hiện nhiệm vụ trong
các điều kiện cụ thể để góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
4.3. Về thái độ: Giúp học viên nâng cao niềm tin, trách nhiệm cá nhân cùng
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và hệ thống chính trị thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ
vững chắc Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
5. Kế hoạch chi tiết:
Bước
Phương
Thời
Nội dung
Phương tiện
lên lớp
pháp
gian
BUỔI 1
Bước 1 Ổn định lớp
Thuyết trình Micro


10’
Bước 2 Kiểm tra bài cũ
Lồng ghép
0’
Bước 3 1. KHÁI NIỆM VÀ CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC BẢO
160’
(Giảng VỆ TỔ QUỐC
1.1. Một số khái niệm
30’
bài
1.1.1. Chiến lược
Thuyết trình
5’
mới)
- Micro
- Thuyết trình
- Bảng
1.1.2. Tổ quốc
10’
- Hỏi - đáp
- Phấn
1.1.3. Bảo vệ Tổ quốc
Thuyết trình
5’
- Powerpoint
1.1.4. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Thuyết trình
10’
1.2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai 130’
đoạn hiện nay


1


1.2.1. Kinh nghiệm, truyền thống giữ nước - Thuyết trình - Micro
của dân tộc
- Hỏi - đáp
- Powerpoint
1.2.2. Học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa
1.2.3. Đường lối quan điểm của Đảng

30’

- Micro

Cộng sản Việt Nam và kinh nghiệm bảo vệ - Thuyết trình - Bảng, phấn
Tổ quốc trong quá trình đổi mới
1.2.3.1. Đường lối quan điểm của Đảng

50’

- Powerpoint

- Thuyết trình - Micro
Cộng sản Việt Nam từ 1991 đến Đại hội XII
- Bảng, phấn
1.2.3.2. Kinh nghiệm trong quá trình đổi - Thuyết trình
- Powerpoint
mới đất nước

- Hỏi - đáp
1.2.4. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước ảnh hưởng đến nhiệm
vụ Bảo vệ Tổ quốc
1.2.4.1. Tình hình thế giới, khu vực

Thuyết trình

1.2.4.2. Tình hình trong nước

Thuyết trình

- Micro
- Bảng, phấn
- Powerpoint
- Micro

Bước 4 Tiểu kết phần 1
Thuyết trình
BUỔI 2
Bước 1 Ổn định lớp
Thuyết trình - Micro
Bước 2 2. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC
(Giảng TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

20’
30’
20’
10’
10’
10’

5’
155’

- Thuyết trình - Micro

bài
mới)

30’

2.1. Mục tiêu tổng quát
2.2. Mục tiêu cụ thể
2.2.1. Về chính trị
2.2.2. Về kinh tế - xã hội
2.2.3. Về tư tưởng, văn hóa
2.2.4. Về đối ngoại
2.2.5. Về quốc phòng – an ninh
2.3. Quan điểm và nhiệm vụ
2.3.1. Quan điểm
2.3.2. Nhiệm vụ
2.4. Giải pháp chủ yếu
2.4.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực quản lý của Nhà nước
2.4.2. Đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa
2.4.3. Phát triển kinh tế - xã hội
2.4.4. Tăng cường quản lý nhà nước về
quốc phòng – an ninh
2.4.5. Tích cực và chủ động trong hoạt

- Hỏi - đáp


- Bảng, phấn

- Tương tác

- Powerpoint

Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình
Thuyết trình

- Micro
- Bảng, phấn
- Powerpoint
- Micro
- Powerpoint
- Micro
- Powerpoint

45’
25’
5’
5’
5’
5’

5’
45’
30’
15’
40’
5’

Thuyết trình
Thuyết trình

5’
5’

Thuyết trình

20’

Thuyết trình

5’

2


Bước 3
Bước 4

động đối ngoại
Tiểu kết phần 2 và chốt kiến thức toàn bài
Hướng dẫn câu hỏi, bài tập, nghiên cứu tài liệu


10’
10’

B. TÀI LIỆU PHỤC VỤ SOẠN GIẢNG
1. Tài liệu bắt buộc
1.1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Trung cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính: Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, H.2016.
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001.
1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006.
1.4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011.
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016.
1.6. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2003.
1.7. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2013.
1.8. Báo cáo tổng kết lý luận – thực tiễn 30 năm đổi mới của Đảng, Nxb. Chính
trị quốc gia, H.2016.
2. Tài liệu tham khảo
2.1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, tr.36, tr.102.
2.2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t4-t5-t9-t15.
2.3. Từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H.2004.
2.4. Học viện An ninh nhân dân: Một số vấn đề cơ bản về Chiến lược An ninh

quốc gia của Việt Nam, H.2014.

3


2.5. Học viện Quốc phòng: Một số vấn đề cơ bản về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, H.2015.
2.6. Hoàng Xuân Lãm: Lý Thường Kiệt, Nxb. Khoa học xã hội, H.1994, t.1.
2.7. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, H.1993.
2.8. Viện Chiến lược quân sự: Cách mạng trong quân sự và những vấn đề đặt
ra đối với Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2010.
2.9. Quý Lâm (tuyển chọn): Những điều cần biết Về công tác quốc phòng và
an ninh trong tình hình mới, Nxb. Hồng Đức, H.2018.
2.10. Tạp chí Cộng sản; Tạp chí Xây dựng Đảng; Tạp chí Dân vận;….
C. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Bước 1: Ổn định lớp
Bước 2: Kiểm tra bài cũ (Lồng ghép trong quá trình giảng bài)
Bước 3: Giảng bài mới

4


Bài 10
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. KHÁI NIỆM VÀ CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ
QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Chiến lược
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 5 phút)

Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu chiến lược là chương trình hành
động, kế hoạch hành động được thiết kế để đạt được một mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các
mục tiêu dài hạn và các biện pháp, các cách thức, con đường đạt đến các mục tiêu đó.
Như vậy, một chiến lược phải giải quyết tổng hợp các vấn đề sau:
- Xác định chính xác mục tiêu cần đạt.
- Xác định con đường, hay phương thức để đạt mục tiêu.
- Và định hướng phân bổ nguồn lực để đạt được mục tiêu lựa chọn.
Trong ba yếu tố này, cần chú ý, nguồn lực là có hạn và nhiệm vụ của chiến
lược là tìm ra phương thức sử dụng các nguồn lực sao cho nó có thể đạt được mục
tiêu một cách hiệu quả nhất.
1.1.2. Tổ quốc
(Phương pháp: Hỏi – đáp, thuyết trình; thời gian: 10 phút)
- GV nêu câu hỏi: Tổ quốc là gì?
- GV gọi 1 -2 học viên trả lời, sau đó nhận xét, đánh giá, khái quát lại như sau:
Với người Việt Nam, hai tiếng “Tổ quốc” từ bao đời đã trở thành tiếng nói
thiêng liêng, tha thiết nhất…Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1992), tổ
quốc là “đất nước, được bao đời trước xây dựng và để lại, trong quan hệ với những
người dân có tình cảm gắn bó với nó” (tr.990).
Như vậy, tổ quốc trước hết chính là đất nước, giang sơn tổ tiên, ông bà bao đời
trước xây dựng, bảo vệ và để lại. Mang tính lịch sử và tự nhiên.
“Tổ quốc” có thể hiểu là “đất nước của tổ tiên (xây dựng, bảo vệ và để lại)”. Do
đó, “tổ quốc” hay đất nước không phải là tài sản riêng của một cá nhân, một dòng họ,
một tổ chức, một nhà nước, một chế độ nào cả. “Tổ quốc” là tài sản chung của cả một
5


dân tộc – quốc gia trải qua hàng nghìn đời vun đắp, giữ gìn, kế thừa và xây dựng. Đó là
thứ tài sản thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Tuy Tổ quốc không là tài sản của riêng ai, nhưng lại gắn liền với một Nhà nước
cụ thể, một chế độ chính trị cụ thể (Chưa thấy có cái gọi Tổ quốc siêu biên giới, không

biên giới hay Tổ quốc siêu tự nhiên mà bản thân nó không gắn liền với một chế độ
chính trị nào). Như vậy, bản thân Nhà nước đó, chế độ chính trị đó có đầy đủ tính
“chính đáng”, trước tiên, NN, chế độ đó phải bảo vệ Tổ quốc, cũng chính là tự bảo vệ
lấy nó hay chế độ của nó. Qua đó, nó có xứng đáng là sự lựa chọn của lịch sử (người
dân) hay không? Nếu không người dân sẽ thay thế NN, chế độ đó bằng một NN, chế
độ khác đủ khả năng bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc là cái vĩnh viễn, NN là cái biến đổi. Có
thể nói rõ rằng, Tổ quốc mang tính chính trị - xã hội.
Có thể khái quát: Tổ quốc là tổng hòa các yếu tố lịch sử - tự nhiên và chính trị xã hội của một quốc gia – dân tộc được gắn kết chặt chẽ bởi chủ quyền lãnh thổ của
đất nước và cộng đồng dân cư với chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.
1.2.3. Bảo vệ Tổ quốc
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 2 phút)
Bảo vệ: “Bảo” là giữ; “Vệ” là che chở. Bảo vệ: Sự giữ gìn, che chở.
Bảo vệ Tổ quốc là việc giữ gìn đảm bảo toàn diện cả mặt lịch sử - tự nhiên cùng
mặt chính trị - xã hội của Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu và hành động phá hoại của
các thế lực thù địch.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lời vua Lê Thánh Tông khi căn dặn sứ thần
sang nhà Minh đòi đất, đã chỉ rõ: “Một thước núi, một tất sông của ta lẽ nào lại nên
vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe,
còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám
đem một thước, một tất đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”1 (Thời
điểm diễn ra sự việc kể trên là vào năm 1473, tức năm Hồng Đức thứ 4).

Lời răn của người xưa luôn có ý nghĩa sâu xa, thâm thúy, đặc biệt những lời răn
như trên, giá trị của nó xuyên thời gian, đến với muôn đời các thế hệ dân tộc Việt
Nam về sự thiêng liêng của hai tiếng tổ quốc, không có gì có thể đánh đổi được.

1 Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, H.1993, tr.478.

6



Ý nghĩa nhận thức trên: Đấu tranh phản bác với những luận điệu tư tưởng của
bọn phản động, tàn quân của ngụy quân, ngụy quyền lẫn trốn ở nước ngoài: luôn
gương cao ngọn cờ “Tổ quốc” – “Phục quốc” khoét sâu thêm nổi mất mát đau thương
cho dân tộc trong chiến thắng 30/4, nào là “nhồi da, xáo thịt” nào là ngày “Quốc
hận”,…Tất cả đều là ngụy biện cho sự thất bại, dựa dẫm vào nguồn viện trợ nước
ngoài. Thực chất chúng không xứng đáng để gọi 2 tiếng “Tổ quốc”.
1.1.4. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian:10 phút)
Chiến lược BVTQ là chương trình hành động, kế hoạch hành động hay là mưu
lược (kế sách) xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả
thi nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Mục tiêu trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc được Đảng, Nhà nước ta xác định (Đại
hội XII của Đảng):
- (1) Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc;
- (2) Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
- (3) Bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- (4) Bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc;
- (5) Bảo vệ nền văn hóa dân tộc;
- (6) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội để đất nước phát triển bền vững.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc mang tính tổng hợp toàn diện về bảo vệ Tổ quốc,
do cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng, Nhà nước hoạch định, dựa trên cơ sở:
- Đánh giá đúng đắn các điều kiện khách quan và chủ quan về bối cảnh quốc tế,
tình hình khu vực, về thực trạng tình hình đất nước;
- Dự báo các nguy cơ, khả năng và tình huống chiến lược có thể xảy ra đối với đất
nước;
- Cũng như quá trình tổng kết thực tiễn và những yêu cầu mới đặt ra của nhiệm

vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

7


1.2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay
1.2.1. Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc
Việt Nam có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Nam châu Á, luôn là đối tượng
bị các thế lực bành trướng ngoại bang xâm chiếm. Cũng chính vì thực tiễn đó mà
ông cha ta đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm trong kế sách giữ nước, bảo
vệ Tổ quốc.
(Phương pháp: Hỏi – đáp, thuyết trình; thời gian: 30 phút)
- GV nêu câu hỏi: Những bài học kinh nghiệm nào trong kế sách giữ nước, bảo
vệ Tổ quốc mà ông cha để lại cho chúng ta?
- GV gọi 1 - 2 học viên trả lời, sau đó nhận xét, đánh giá, khái quát lại như sau:
Có thể khái quát lên thành những bài học kinh nghiệm như sau:
Một là, Quyết tâm bảo vệ toàn vẹn cương vực lãnh thổ, chủ quyền quốc gia và
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Từ năm 179 tr.CN, khi cuộc kháng chiến của nước Âu Lạc bị thất bại đến năm
938, hơn 1.000 năm Việt Nam liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc như
Hán, Lương, Tùy, Đường đô hộ. Đây là thời kỳ thử thách hết sức nguy hiểm đối với
sự mất còn của dân tộc ta. Nhưng cũng chính trong thời gian mất nước kéo dài, nhân
dân ta đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ, đấu tranh bảo tồn cuộc
sống, giữ gìn, phát huy tinh hoa của nền văn hóa dân tộc và quyết đứng lên đấu tranh
giành lại độc lập dân tộc. Nước mất, nền văn hóa bám chặt vào làng xã, đoàn kết đùm
bọc lẫn nhau, nhân dân ta đã đấu tranh có hiệu quả chống lại chính sách nô dịch và
đồng hóa của kẻ thù.
Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ trong bài thơ thần của Lý Thường
Kiệt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà

nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành kha thủ bại hư”2. Hay trong “Hịch tướng
sĩ”, Trần Quốc Tuấn đã lên án gay gắt tội không chú ý đến việc giữ gìn quốc thể:
“Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết
thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái
thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm,…; chẳng những thân ta kiếp này bị
2 Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVII, Nxb. Văn hóa, H.1963, tr.45-46.

8


chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà thanh
danh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận” 3. Hay trong bài
“Hịch xuất quân”, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên đọc:
“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”
Hai là, Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, một kỷ nguyên độc lập, tự chủ của dân tộc
đã mở ra. Các triều đại phong kiến đã chú trọng chăm lo xây dựng đất nước, thực hiện
giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điển hình là vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long. Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “Thành Đại La ở giữa khu vực
đất trời, có thế rồng cuộn hổ ngồi, giữa ở Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện hình thế núi sông
sau trước, đất rộng mà phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt…
xem khắp nước Việt, chỗ ấy là hơn cả…Làm như thế cốt để mưu việc lớn, chọn chỗ ở
giữa làm kế cho con cháu muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân…”.
Năm 1075, biết tin nhà Tống chuẩn bị phát binh xâm lược Đại Việt, Nhà Lý đã
dùng biện pháp “tiên phát chế nhân”, đưa quân đánh sang Ung Châu, Khâm Châu và
Liêm Châu, phá cuộc chuẩn bị tiến công của giặc.

Kế thừa tư tưởng của tiền nhân, nhà Trần đã nhận thức sâu sắc mối đe dọa từ
bên ngoài, do đó rất chăm lo việc phòng bị đất nước. Tinh thần chuẩn động phòng
giữ đất nước được thể hiện trong bài thơ của Thái sư Trần Quang Khải: “…Thái
bình tu trí lực; Vạn cổ thử giang san” 4 (Thái bình phải gắng sức/ Non nước ấy ngàn
thu). Tinh thần đó được thể hiện ở “giảng võ đường”, “trường đua” và diễn tập để
nâng cao sức chiến đấu cho quân đội và tinh thần cảnh giác của nhân dân. Vua Lê
Thái Tổ đã căn dặn: “Nên sửa sang võ bị, đề phòng việc không ngờ”5.
Ba là, “Khoan thư sức dân” là kế sách lâu dài để giữ nước.
3 Xem Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVII, Nxb. Văn hóa, H.1963, tr.91.
4 Lịch sử Việt Nam: Quyển 1, Nxb. Giáo dục, H.1980, tr.355.
5 Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng

9


Trong lịch sử dân tộc, hầu hết các Nhà nước phong kiến Việt Nam đều nhận
thức khá đầy đủ vai trò của nhân dân trong dựng nước và giữ nước. Nhân dân ta vốn
có lòng yêu nước nồng nàn và nhiều bậc hiền nhân đã quy tụ lòng dân thành “thế
trận” vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ gìn non sông.
Thời nhà Trần đã “khoan thư sức dân”, coi đó là kế sách lâu dài để trị nước đã
thực hiện “Chúng chí thành thành”, xây dựng thành lũy của lòng dân, tạo được bức
tường thành vững chắc nhất trong lòng dân để giúp triều đình ba lần đánh bại quân
Nguyên, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong binh pháp của Trần Quốc Tuấn đều chỉ rõ:
lòng dân không chia, cả nước chung sức chống giặc là nền tảng cho xây dựng lực
lượng vũ trang thời nhà Trần. Mặc khác, ông còn thấy rõ vai trò của nhân dân đối với
sự phát triển tài năng của những anh hùng xuất chúng. Theo ông, những vị anh hùng
làm nên nghiệp lớn là dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, bởi họ cũng từ nhân dân mà ra.
Thời nhà Hậu lê, Nguyễn Trãi – nhà quân sự, chính trị lỗi lạc của dân tộc đã có
tư tưởng sâu sắc về vai trò của nhân dân. Ông nói: “Mến người có nhân là dân, mà
chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”; “Việc thành bại của Nhà nước và nỗi vui hay

buồn của nhân dân, những việc ấy đều có liên quan đến nhau rất lớn” 6. Đúng vậy,
dựng nước và giữ nước là của dân, do dân, vì dân, nghĩa là dân là chủ thể hoạt động
của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa,…Tư tưởng đó của Nguyễn
Trãi được rút ra từ thực tiễn cuộc sống lao động, sản xuất của người dân, từ kinh
nghiệm “hưng vong”, thành bại của các thời đại trước. Đặc biệt là sự đánh giá đúng
vai trò, vị trí của “lòng dân”, “thế trận lòng dân” trong lịch sử giữ nước của dân tộc.
Do đó, Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi đã động viên nhân dân cả nước tiến hành khởi
nghĩa vũ trang và phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc.
Bốn là, Kết hợp chặt chẽ “kiến quốc” với “thủ quốc”.
Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, các nhà nước phong kiến Việt Nam luôn thực
hiện “dựng nước đi đôi với giữ nước”, coi đó là quy luật sinh tồn của dân tộc. Vào
thời nhà Lý, thế nước Đại Việt khá vững mạnh là do công cuộc “kiến quốc” kết hợp
chặt chẽ với “thủ quốc”, trong đó điển hình là chính sách “ngụ binh ư nông”. Xây
dựng quân đội gắn liền với “tam nông” dưới thời nhà Lý, nhà Trần và Lê Sơ là một
phương thức kết hợp kinh tế với quốc phòng rất hiệu quả. Chính vì lẽ đó mà quốc gia
6 Viện sử học: Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, H.1976, tr.141-146.

10


độc lập, thống nhất, có nền kinh tế và văn hóa…ngày càng phát triển ngang hàng với
các nước trong khu vực. Đồng thời có sách lược đối nội, đối ngoại khôn khéo nhằm
ổn định tình hình, xây dựng phát triển tiềm lực đất nước. Ông cha ta đã thực hiện tốt
việc kết hợp chặt chẽ giữa “kiến quốc” với “thủ quốc” để xây dựng “quốc phú, binh
cường, nội yên, ngoại tĩnh”.
Năm là, Thực hiện “cử quốc nghênh địch”, phát huy sức mạnh của toàn dân để
đánh giặc, trong đó lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam đã phải chống lại những đội quân
xâm lược hùng mạnh đến từ phương Bắc để bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ của
quốc gia. Để đánh bại kẻ thù xâm lược, các triều đại phong kiến Việt Nam đã huy

động sức mạnh của nhân dân cả nước đánh giặc, thực hiện “cử quốc nghênh địch”.
Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình để
tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch rơi vào trạng
thái bị động, lúng túng và bị sa lầy. Thời nhà Tiền Lê, khi nhà Tống phát binh xâm
lược nước ta (năm 981), Lê Hoàn đã dựa vào sức mạnh toàn dân để tổ chức kháng
chiến, xây dựng hệ thống trận địa để chặn hướng tiến công và đánh bại chúng. Thời
nhà Lý, tư tưởng “cử quốc nghênh địch” được thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến
chống quân Tống lần thứ 2 (từ năm 1075 đến năm 1077). Thời nhà Trần, nước ta đã
phải trải qua ba lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông (năm 1258, 1285, 1288),
tư tưởng “cử quốc nghênh địch” lại phát triển lên một tầm cao mới lầm cho kẻ địch
luôn bị động đối phó. Trước những hành động ngang ngược của kẻ thù, sứ giả nhà
Trần đã khẳng khái trả lời: “Nước chúng tôi tuy nhỏ nhưng cũng đủ binh tướng ra đón
tiếp quân quý quốc”7. Mỗi khi đất nước đứng trước họa xâm lăng, đều huy động sức
mạnh cả nước để đánh giặc, đồng thời rất chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang làm
nòng cốt. Thời nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê…đã xây dựng nhiều thứ quân (cấm quân, lộ
quân, dân binh, thổ binh). Trong xây dựng quân đội, thường chú trọng chất lượng hơn
số lượng (binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa).
Sáu là, Thực hiện “bang giao hòa hiếu”, ngăn chặn “họa binh đao” cho đất nước.
Khát vọng hòa bình luôn là ước mơ cháy bỏng trong tâm khảm của mỗi người dân
Đại Việt. Khát vọng đó thể hiện rất rõ trong quá trình giữ nước và dựng nước của các
7 Theo Hoàng Xuân Lãm: Lý Thường Kiệt, H.1994, t1, tr.175.

11


triều đại phong kiến Việt Nam. Khi đất nước bị xâm lăng, các triều đại phong kiến mỗi
người dân phải cầm vũ khí để tự vệ, nhưng vẫn thực hiện tư tưởng “không đuổi cùng
diệt tận những kẻ bại trận”, “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người để muôn đời
dập tắt chiến tranh. Khi đất nước hòa bình thì thực hiện “bang giao hòa hiếu” để giữ
yên bờ cõi và cuộc sống thanh bình cho muôn dân. Tinh thần hòa hiếu để bảo vệ Tổ

quốc được thể hiện đầy đủ trong chủ trương của Lê Lợi, Nguyễn Trãi: “Nghĩ về kế lâu
dài của Nhà nước; Tha kẻ hàng người vạn sĩ binh; Sửa hòa hiếu cho hai nước. Tắt
muôn đời chiến tranh”8.
Sau cuộc chiến, Quang Trung ra lệnh thu nạp và nuôi dưỡng hàng vạn tù binh
Mãn Thanh. Ông sai thu nhặt xương cốt quân Thanh tử trận, chôn thành những gò
đống, lập đàn cúng tế và sai Vũ Huy Tấn soạn văn tế, biểu thị sự thương xót với những
quân, dân Trung Quốc chết xa nhà. Bài văn có đoạn:
“Nay ta
Sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
Bảo lập đàn bên sông cúng tế
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
Hồn các ngươi không vơ vẩn ở trời nam, hãy lên đường mà quay về nơi hương
chí
Nên kính ngưỡng ta đây là chủ, chan chứa lòng thành
Nhưng mong sao đáp lại đạo trời, dạt dào lẽ sống”.
Qua đó, chúng ta thấy rất rõ tinh thần nhân văn, nhân đạo của các bậc tiền nhân.
Nhưng cốt yếu đó chính là đạo lý nhân nghĩa, đánh vào lòng người để dập tắt chiến
tranh muôn đời cho con cháu.
 Những kinh nghiệm, truyền thống quý báu trong kế sách, mưu lược giữ nước của cha
ông ta được truyền nối qua nhiều thế hệ và trở thành tài sản tinh thần vô giá trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
1.2.2. Học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 30 phút)
8 Viện Sử học: Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, H.1976, tr.87.

12



- C. Mác, Ph. Ăngghen sống trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, các nước tư
bản lớn nhất lúc này phát triển tương đối đồng đều, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản trong các nước đó chưa đến độ chín muồi, khi mà giai cấp vô sản chưa
trở thành giai cấp cầm quyền, chưa có quốc gia, chưa có quyền lực nhà nước. Vì thế,
Mác và Ăngghen cho rằng, cách mạng vô sản chỉ có thể đồng thời xảy ra ở tất cả các
nước văn minh nhất, như Anh, Pháp, Mỹ, Đức,…và cách mạng vô sản là một cuộc
cách mạng có tính chất toàn thế giới, với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết
lại”! Sau này được Lênin phát triển thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại!” đến nay vẫn là hồi kèn tập hợp lực lượng trong cuộc đấu tranh
giành hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Qua kinh nghiệm Công xã Pari năm 1871 (từ ngày 18/3-28/5/1871) Mác và
Ăngghen cho rằng, sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản phải nhanh
chóng:
+ củng cố nền chuyên chính vô sản;
+ cũng cố khối liên minh công nông;
+ giải giáp quân đội cũ, vũ trang toàn dân, thành lập các đội dân cảnh;
+ xây dựng xã hội mới;
+ kiên quyết tiến công đập tan mọi hành động phản kháng của giai cấp tư sản.
 Đó là những tư tưởng ban đầu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Mác,
Ph.Ăngghen.
- Thời kỳ V.I. Lênin, Lênin phát hiện quy luật phát triển không đồng đều về
kinh tế, chính trị của CNTB trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và đi đến kết luận hết
sức quan trọng: Trong điều kiện lịch sử mới, giai cấp vô sản có thể giành được chính
quyền ở mắc xích yếu nhất của CNTB, tức là cách mạng vô sản có thể thành công ở
một nước, thậm chí ở một nước có trình độ phát triển chưa cao. Thực tiễn ở nước
Nga, cách mạng vô sản Nga thành công vào tháng 10/1917. V.I.Lênin là người có
công, đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin khẳng định: “Kể từ ngày 25
tháng Mười năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang


13


đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã
hội với tính cách là tổ quốc”9.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng bắt
đầu được hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách
trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm
vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Do đó, bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan của cách mạng vô sản và
“một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”, “giành chính quyền đã khó,
giữ chính quyền còn khó hơn”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng
sáng tạo học thuyết của Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào tình hình
thực tiễn của cách mạng Việt Nam; kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, nắm vững
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam “dựng nước phải đi đôi với giữ
nước”, Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đưa ra hệ thống
quan điểm, tư tưởng làm cơ sở cho đường lối của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn thể
dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy”10. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày
19/12/1946, Người nói: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ…Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”11.
Hồ Chí Minh tiêu biểu cho ý chí, quyết tâm giải phóng dân tộc, quyết tâm bảo
vệ đất nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Những
điều Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh đã trở thành chân lý, thôi thúc ý chí, quyết tâm

của cả dân tộc: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau

9 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, t.36, tr.102.
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr3.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr534.

14


giữ lấy nước”12. Ý chí giữ nước của người rất sâu sắc và kiên quyết; dù hy sinh đến
đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên quyết bảo vệ chính quyền và chủ quyền
dân tộc, thực hiện nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, hết sức tranh thủ thời
gian hòa hoãn để xây dựng lực lượng mọi mặt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Người
đưa ra hàng loạt các biện pháp xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tổ
chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thông qua Hiến pháp 1946; kiên quyết chống
“giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt”, ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, đồng thời
cùng Trung ương Đảng quyết định chủ trương “Hòa để tiến”; quyết định ký Hiệp
định sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước 14/9/1946 để có thời gian chuẩn bị kháng chiến, bảo
vệ chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam phải đối phó với cả thù trong giặc
ngoài, nhiều khó khăn chồng chất như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch hồ Chí Minh
đã cùng với Đảng ta chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, với đường lối
kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ”, từng bước tạo nên sự chuyển hóa cả về
thế, thời và lực để đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lý
rằng: Không có gì quý hơn độc lập tự do; “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”13. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi
trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng tinh thần
kháng chiến của toàn dân. Đồng thời, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Tích cực thực hiện các biện pháp ngoại giao, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù, phân
hóa chúng, đồng thời hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối
với cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước khi Người đi xa, trong bản Di chúc, có căn dặn:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều
của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi
hoàn toàn”14. Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr59.
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr512.
14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr623.

15


toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước, cả nước
đi lên xã hội chủ nghĩa.
 Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc
đời hoạt động của Hồ Chí Minh.
Tóm lại: Học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là một bộ phận hợp thành lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, bao gồm
một hệ thống các quan điểm, tư tưởng hết sức cơ bản về tính tất yếu, nhiệm vụ và nội
dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng với các biện pháp có tính chiến lược trong
xây dựng, củng cố quốc phòng, chuẩn bị đất nước về mọi mặt và đường lối đối ngoại
đúng đắn để có thể đánh thắng thù trong, giặc ngoài bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
1.2.3. Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và những kinh
nghiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới đất nước
1.2.3.1. Đường lối, quan điểm của Đảng từ năm 1991 đến Đại hội XII
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 20 phút)
Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa là những định hướng chiến lược xác định mục tiêu, phương châm, phương
thức, sức mạnh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công
cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân
tộc; bảo vệ văn hóa dân tộc; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội để đất nước phát triển bền vững.
Đường lối, quan điểm của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc luôn được bổ sung và phát
triển hoàn thiện qua các kỳ Đại hội (VII – XII) như sau:
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) xác định:
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, quyền làm chủ
của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản
động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Củng cố quốc phòng, giữ vững
an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của nhân dân…Kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong kế hoạch
16


phát triển kinh tế - xã hội…Xây dựng LLVTND với số quân thường trực thích hợp
theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; với lực lượng dự
bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao. Phát triển đường lối và
nghệ thuật quân sự, chiến tranh nhân dân trong hoàn cảnh mới…15
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) xác định:
Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không
được lơi lõng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân,
của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của
đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực
lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và

làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước; ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn
xã hội…Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết hợp quốc phòng và an
ninh với kinh tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ
khăng khít với nhau của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa”16.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) xác định:
“Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,…Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế
trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt
động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Tăng cường quốc phòng, giữ
15 Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2007, t.51, tr.142-143.
16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996,
tr.118.

17


vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
lực lượng nòng cốt. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,…có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến
đấu ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành
động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh quốc
gia; ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật

tự, an toàn xã hội”17
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) xác định:
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, “bảo vệ an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an
toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ…”18
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) xác định:
“Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trọng mọi tình huống”19.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) đặt ra mục tiêu tổng
quát phát triển đất nước ta trong năm năm tới là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết,
17 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.117118.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr.109.
19 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.233.

18


kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ

gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước;
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Về nhiệm vụ tổng quát bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới”20; và … “củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại
hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”21.
Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc dần bổ sung và phát triển nhưng mục tiêu không chỉ kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây
chính là cơ sở vững chắc để Đảng ta hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay.
1.2.3.2. Kinh nghiệm bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới
Trong quá trình thực hiện đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đã có những nỗ lực lớn và đạt được những thành tựu thật sự to
lớn, hết sức có ý nghĩa về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những năm qua, đó
là cơ sở và căn cứ quan trọng để Đảng hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình đổi mới, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đã có bước phát triển và
hoàn thiện: “Nhận thức về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai
nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ biện chứng không tách rời; trong lúc đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải đồng thời coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
20 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.76.
21 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.7879.

19



Có xây dựng tốt mới tạo sức mạnh cho bảo vệ Tổ quốc, có bảo vệ tốt mới tạo điều kiện
thuận lợi cho xây dựng đất nước”22.
- Mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng được hoàn thiện hơn: “Bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”23.
- Về phương châm chỉ đạo:
+ Một, kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về
sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và dư luận quốc tế.
Kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp
quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân
hóa, cô lập các phần tử, thế lực ngoan cố chống phá Việt Nam.
+ Hai, đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi
đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với các đối tượng chống phá ở trong nước, cần phải kịp thời ngăn chặn, xử lý
những kẻ chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố; giáo dục, cảm hóa những người lầm đường.
Chủ động đấu tranh với các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch. Không để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Ba, thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng
đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội.
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 5 phút)
- Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc:
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.


22 Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2015, tr.118.
23 Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2015, tr.118.

20


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh
đấu cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ”24.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tạo thành bởi nhiều yếu tố: chính trị, kinh tế, văn
hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…Đây là những lĩnh vực hoạt động chủ yếu, quan
trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc hiện nay được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật
lực, tinh thần mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, nhưng trước hết
tập trung ở sức mạnh quốc phòng, an ninh. Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh
phải giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, bạo loạn lật đổ của
kẻ thù bảo đảm cho đất nước cũng như từng địa phương không bị bất ngờ trước mọi
tình huống và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô.
Quốc phòng trở thành sức mạnh của đất nước và phối hợp với an ninh để giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không đồng nghĩa với quân sự, với chiến tranh, được
thực hiện trong thời bình nhằm mục đích tự vệ, phòng thủ đất nước nhưng không
thụ động, phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và
sẵn sàng đánh thắng khi chiến tranh xảy ra, đồng thời tích cực khắc phục những lực
cản nội sinh và làm thất bại “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch chống phá cách mạng Việt Nam và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ chúng ta.
(Phương pháp: Thuyết trình; thời gian: 5 phút)
- Về lực lượng bảo vệ Tổ quốc:
Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là những con người, tổ chức hoạt động dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong

mọi tình huống.
Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân tộc Việt Nam, trong đó lực lượng vũ trang
nhân dân là nòng cốt.
- Lực lượng vũ trang của Việt Nam?
Bao gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ.

24 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011,t.5, tr.9.

21


+ Quân đội? là tổ chức, lực lượng vũ trang tập trung, thường trực và chuyên
nghiệp do một nhà nước hoặc một phong trào chính trị xây dựng nhằm mục tiêu
giành chính quyền, giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc bằng đấu tranh vũ trang
(chiến tranh, nội chiến...) hoặc tiến hành chiến tranh, đấu tranh vũ trang để thực hiện
mục đích chính trị của nhà nước hoặc của phong trào chính trị đó.
+ Công an? Là một LLVT của một nhà nước, công cụ chuyên chế của chính
quyền đang điều hành nhà nước đó. Nhiệm vụ ổn định xã hội, trật tự kỷ cương, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Dân quân, tự vệ? Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không
thoát ly sản xuất, công tác; là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt
cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh.
Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã) gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (sau đây gọi chung là cơ
quan, tổ chức) gọi là tự vệ.
Trong tình hình mới phải khai thác, phát huy ở mức cao nhất thế mạnh của cả
hai lực lượng quốc phòng và an ninh trong vai trò nòng cốt của sức mạnh bảo vệ Tổ

quốc; không để chồng chéo lên nhau; hạn chế thấp nhất mọi sơ hở, mâu thuẫn quốc
phòng và an ninh, không cho kẻ thù lợi dụng kích động, chia rẽ giữa quân đội và công
an, giữa quân đội, công an và nhân dân. Đồng thời, quân đội nhân dân và công an
nhân dân là hai lực lượng vũ trang nòng cốt cùng có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà
nước và Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm.
- Nhận thức về phương thức bảo vệ Tổ quốc:
Phương thức bảo vệ Tổ quốc là cách thức, biện pháp tiến hành của cả hệ thống
chính trị và toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; nhằm bảo vệ vững chắt độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa
22


dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội.
Dân tộc Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát từ các cuộc chiến tranh
chống xâm lược, do đó nhân dân Việt Nam luôn khác vọng được sống trong hòa bình,
hữu nghị để xây dựng và phát triển. Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta xác định phương
thức bảo vệ Tổ quốc: “Kết hợp chặt chẽ đấu tranh phi vũ trang và đấu tranh vũ trang,
kết hợp xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ, nhấn mạnh phương thức “phi vũ
trang”, bảo vệ Tổ quốc từ xa, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ…”25.
- Nhận thức về đối tác, đối tượng: về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát
triển đột phá trong thời gian đổi mới: chuyển từ tư duy bạn – thù sang đối tượng, đối
tác trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc. Nhận thức về sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về
mọi mặt của Đảng, quản lý của Nhà nước với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh trong quá trình đổi mới là cơ sở để định ra chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới.

Theo quan điểm, nguyên tắc đó, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện
nay, việc xác định đối tượng, đối tác có cách nhìn nhận mới, biện chứng: trong mỗi đối
tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; ngược lại, trong số các đối tác, có thể
có mặt khác biệt, mâu thuẫn lợi ích với ta. Một chủ thể có thể vừa là đối tác, vừa là đối
tượng. Hai mặt đối tượng và đối tác có thể chuyển hóa lẫn nhau. Do vậy, trong từng
lĩnh vực, thời điểm cụ thể có thể có những đối tượng, đối tác khác nhau. Cần khắc phục
cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương
và xử lý các tình huống cụ thể.
Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn nhận thức
mới về đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam theo nguyên tắc:

25 Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2015, tr.120.

23


Một là, những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta.
Hai là, bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước
ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc những năm qua, bên cạnh
những thành tựu và kết quả đã đạt được cũng còn không ít những khuyết điểm, yếu
kém: “- Tuy nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc.
- Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên
một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ.

- Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp ủy, chính
quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để;
- Còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách,
pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện”26.
1.2.4. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước ảnh hưởng đến nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc
1.2.4.1. Về tình hình thế giới và khu vực
* Những nhân tố tác động chủ yếu đến sự vận động của cục diện thế giới
ảnh hưởng đến nhiệm vụ BVTQ
Thứ nhất, đó là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay cách mạng công
nghiệp 4.0).
Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cách mạng CN 4.0 là sự gắn quyện
giữa các nền công nghệ làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và
thế giới sinh học. Đó là công nghệ Internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người
máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công
nghệ nano, công nghệ sinh học,…Với các tư liệu sản xuất mới và cách thức tổ chức,
quản lý sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra, thế giới hiện đại từ
thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI đã có những bước đi đầu tiên vào một thời đại
26 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016,
tr.147.

24


kinh tế mới: thời đại kinh tế tri thức, số hóa, tự động hóa và toàn cầu hóa cao độ.
Mặc dù bản thân nó chưa là một thời đại lịch sử, nhưng mỗi thời đại kinh tế đều đặt
dấu ấn của mình lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm xuất hiện các xu hướng
vận động mới, ban đầu ở phạm vi cục bộ, sau đó mở rộng ra toàn thế giới.
Với tác động mạnh mẽ cuộc CM 4.0, lĩnh vực quân sự không đứng ngoài cuộc.

Các nước tranh thủ mọi thành quả của nó để cải tiến vũ khí, khí tài quân sự nhằm
phòng thủ quốc gia và cũng như tạo ra các mưu lược khác. Chính vì vậy, đã tạo ra cả
thời cơ và thách thức đối với nhiệm vụ an ninh an toàn của mọi quốc gia.
Thứ hai, đó là quá trình nhận thức lại nội hàm của phạm trù “phát triển” và
chuyển đổi mô hình phát triển.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội năm 2008 đã buộc thế giới phải tư duy lại
về sự phát triển và mô hình phát triển; khắc phục những khuyết điểm, sai lầm của
kiểu phát triển duy kinh tế, phát triển loại trừ đầy bất công xã hội, phát triển trên cơ
sở khai thác tàn khốc các nguồn lực thiên nhiên. Từ sự đỗ vỡ đó (2008), cộng đồng
quốc tế đã đúc kết những mô hình tăng trưởng phản phát triển; đồng thời, đã nhấn
mạnh tính cấp bách của việc áp dụng mô hình phát triển bền vững trên phạm vi toàn
cầu. Tất cả các quốc gia đều phải chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để triển khai mô
hình này, trong đó tri thức, thông tin, năng lượng sạch, công nghệ tiên tiến, sức lao
động chất lượng cao,…là những nguồn nhân lực chiếm thứ hạng hàng đầu, khác xa
với thời kỳ công nghiệp trước đây. Cuộc cạnh tranh vì những nguồn lực sống còn,
mới mẽ này chắc chắn sẽ tạo nên nhiều thay đổi, sôi động trong những năm sắp tới.
Thứ ba, sự nổi lên gay gắt của các nguy cơ biến đổi khí hậu và các vấn đề toàn
cầu cấp bách khác.
Trong mọi kịch bản của nó, biến đổi khí hậu là một thảm họa chung đối với toàn
nhân loại: làm mất đi không gian sinh tồn của hàng tỷ người, châm ngòi cho sự bùng
nổ các làn sóng di cư khổng lồ, đẩy thế giới vào hỗn loạn không thể kiểm soát. Bên
cạnh đó, các vấn đề toàn cầu khác vẫn rất nghiêm trọng: nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, dịch bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái tàn phá, tình trạng đói nghèo, chủ
nghĩa khủng bố,… có thể xóa sổ toàn bộ nền văn minh trên trái đất. Những vấn đề
sinh tử cấp bách này buộc các quốc gia – dân tộc phải vượt qua ranh giới ý thức hệ,
tạm gác lại mọi mâu thuẫn, không phân biệt chế độ chính trị cũng như tiềm lực nước
25



×