Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.03 KB, 25 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
1.1. KHÁI NIỆM, QUY TRÌNH THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
1.1.1. Khái niệm.
Mọi khoản chi trả phát sinh giữa các chủ thể thanh toán của các nước được diễn
ra thông qua một quy trình xử lý kỹ thuật các chứng từ thanh toán, được gọi là phương
thức thanh toán.
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng và có tính tổng hợp nhất trong
các điều kiện thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại thương
lại càng quan trọng và phức tạp. Trong buôn bán, người ta có thể chọn lựa nhiều
phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về, hoặc để trả tiền, nhưng xét cho cùng
việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền
nhanh, đúng, đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng
và đúng hạn. Trong thanh toán quốc tế, có thể kể tới nhiều phương thức thanh toán khác
nhau như:
- Phương thức chuyển tiền (Rimittance)
- Phương thức nhờ thu (Collection of payment)
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary credit)
Bằng ngôn ngữ luật, định nghĩa về Tín dụng chứng từ được nêu tại Điều 2, UCP
500, như sau:
“Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, theo đó một ngân hàng (NHPH) hành
động theo yêu cầu và theo các chỉ thị của một khách hàng (người mở L/C) hoặc trên
danh nghĩa chính mình,
i. Phải trả tiền cho hoặc trả tiền theo lệnh của một bên thứ ba (người hưởng lợi),
hoặc chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người hưởng lợi ký phát, hoặc
ii. Uỷ quyền cho một ngân hàng khác trả tiền, hoặc chấp nhận và trả tiền các hối
phiếu, hoặc
iii. Uỷ quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu,
đối với chứng từ quy định được xuất trình và tuân thủ các điều kiện của Tín dụng”.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được áp
dụng phổ biến nhất hiện nay trong thương mại quốc tế.


1.1.2. Các thành phần tham gia thanh toán tín dụng chứng từ:
Trong quá trình thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ, thông thường có các
thành phần tham gia như sau:
a) Người xin mở L/C (Appicant for L/C): Là người nhập khẩu hay người yêu cầu
ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc
trả tiền của ngân hàng cho người bán theo L/C này.
b) Người thụ hưởng L/C (Beneficiary):.Theo quy định của L/C, là người được
hưởng số tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán.
c) Ngân hàng phát hành (Issuing Bank): Là ngân hàng, theo yêu cầu của người
mua, phát hành một L/C cho người bán hưởng. NHPH thường được hai bên
mua bán thoả thuận và quy định trong hợp đồng mua bán. Nếu không có sự
thoả thuận trước, thì nhà nhập khẩu được phép tự chọn NHPH.
d) Ngân hàng thông báo (Advising Bank): Là ngân hàng được NHPH yêu cầu
thông báo L/C cho người hưởng. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng đại
lý hoặc là chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu.
Ngoài các thành phần tham gia thanh toán trên, trong thực tế tuỳ thuộc vào từng
loại thư tín dụng có thế xuất hiện thêm một số ngân hàng khác:
- Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Trong trường hợp nhà xuất khẩu
muốn có sự bảo đảm chắc chắn của L/C, thì một ngân hàng có thể đứng ra xác
nhận L/C theo yêu cầu của NHPH. Thông thường, NHXN là một ngân hàng
lớn có uy tín và trong nhiều trường hợp NHTB được đề nghị là NHXN. Muốn
được xác nhận, NHPH phải trả phí xác nhận rất cao và thường phải đặt cọc
trước, mức đặt cọc có thể tới 100% trị giá của L/C.
- Ngân hàng được chỉ định (Norminated Bank): là NHXN hoặc bất cứ ngân
hàng nào khác được NHPH uỷ nhiệm. Tuỳ theo từng loại thư tín dụng mà ngân
hàng này có thể thực hiện một trong các nghiệp vụ sau:
+ Ngân hàng chỉ định thanh toán (Norminated Paying Bank)
+ Ngân hàng chỉ định chấp nhận (Norminated Accepting Bank)
+ Ngân hàng chỉ định chiết khấu (Norminated Negotiating Bank)
- Ngân hàng bồi hoàn (Reimbursing Bank): là ngân hàng được NHPH uỷ nhiệm

thực hiện thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân hàng được chỉ định thanh
toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn thường tham gia trong trường hợp
giữa NHPH và ngân hàng được chỉ định không có quan hệ tài khoản trực tiếp
với nhau.
1.1.3. Quy trình nghiệp vụ trong thanh toán tín dụng chứng từ.
Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ có quy trình công nghệ khá
phức tạp, gồm nhiều khâu xử lý nghiệp vụ, kể cả từ phía nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
và các ngân hàng có liên quan. Có thể tóm tắt quy trình thanh toán như sau:
SƠ ĐỒ 1.1. QUY TRÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ THANH TOÁN
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
Người thụ hưởng
(Beneficiary)
Người yêu cầu mở tín dụng thư
(Applicant)
(8)
(7)
(2)

(3) (5) (6) (1) (9) (10)

(4)
Hợp đồng
Chú thích:
Trước hết người nhập khẩu và người xuất khẩu phải ký hợp đồng thương mại,

trong đó lựa chọn điều khoản thanh toán tín dụng chứng từ.
(1) Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại, viết đơn đề nghị mở tín
dụng thư cho người xuất khẩu hưởng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình.
(2) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu căn cứ vào đơn xin mở tín dụng, nếu
đáp ứng các yêu cầu, ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng và thông qua ngân
hàng phục vụ người xuất khẩu để thông báo tới người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng thông báo khi nhận được thư tín dụng sẽ khẩn trương thông báo,
chuyển giao thư tín dụng này cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng đã mở thì tiến hành
giao hàng theo điều kiện hợp đồng.
(5) Sau khi đã hoàn thành việc giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh
toán theo thư tín dụng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề nghị thanh toán.
(6) Ngân hàng này được chỉ định là ngân hàng thanh toán, tiến hành kiểm tra bộ
chứng từ nếu thấy phù hợp với các điều khoản trong thư tín dụng thì tiến hành
thanh toán cho người xuất khẩu (trả tiền ngay, hoặc chấp nhận, hoặc chiết
khấu).
(7) Sau khi đã thanh toán, ngân hàng chuyển bộ chứng từ sang ngân hàng phát
hành và đòi tiền.
(8) Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu đáp ứng những điều kiện của
thư tín dụng thì hoàn lại tiền cho ngân hàng đã thanh toán.
(9) Ngân hàng phát hành báo cho người nhập khẩu biết bộ chứng từ đã đến, đề
nghị họ làm thủ tục thanh toán.
(10) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến hành trả tiền
(hoặc chấp nhận), ngân hàng sẽ trao chứng từ để họ đi nhận hàng. Trong
trường hợp người nhập khẩu không thanh toán, thì ngân hàng cũng không trao
chứng từ cho họ.
Qua quy trình thanh toán nêu trên cho chúng ta thấy rằng: phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán rất chặt chẽ về mặt thủ tục, Hơn
thế nữa, trong phương thức thanh toán này, ngân hàng mở L/C không chỉ là một trung
gian trong thanh toán, mà còn là người có nhiệm vụ trả tiền nhà xuất khẩu trong thời

gian hiệu lực của L/C, với số tiền tối đa bằng số tiền của L/C nếu nhà xuất khẩu trình
được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C. Vì vậy, đây là phương thức thanh toán
bảo đảm chắc chắn quyền lợi cho nhà xuất khẩu.
Tuy nhiên, xét về phía nhà nhập khẩu, thanh toán bằng phương thức tín dụng
chứng từ sẽ làm cho nhà nhập khẩu bị đọng vốn trong trường hợp phải ký quỹ mở L/C.
Nếu thời gian hiệu lực của L/C càng dài, số tiền của L/C càng lớn thì hiệu quả sử dụng
vốn của nhà nhập khẩu càng giảm đi. Đây chính là một trong những vấn đề mà nhà
nhập khẩu cần quan tâm khi xác định loại L/C và thời hạn hiệu lực của L/C để giảm bớt
những thiệt hại cho nhà nhập khẩu.
1.1.4. Lợi ích và rủi ro đối với các bên tham gia.
1.1.4.1. Đối với người nhập khẩu.
a. Lợi ích:
1. Người nhập khẩu sẽ nhận được các chứng từ về hàng hoá do mình quy định như
NHPH ghi rõ trong L/C. Những chứng từ đó là bằng chứng của việc người mua
được trao quyền sở hữu hàng hóa.
2. Người nhập khẩu được đảm bảo rằng sẽ chỉ bị ghi nợ tài khoản số tiền L/C khi
tất cả các chỉ định trong L/C được thực hiện đúng.
3. Đảm bảo hàng hóa phù hợp với bộ chứng từ theo các điều kiện và điều khoản đã
ký kết trong hợp đồng ngoại thương.
4. Vì có sự bảo đảm về thanh toán, người nhập khẩu có thể thương lượng để đạt
được giá cả tốt hơn và mở rộng được quan hệ khách hàng cũng như quy mô kinh
doanh.
b. Rủi ro:
1. Không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hoá sẽ đúng như đơn
đặt hàng hay không bị hư hại gì. Trong trường hợp này, nhà nhập khẩu vẫn phải
hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NHPH.
2. Những thay đổi trong hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu phải tiến hành làm thủ tục sửa đổi, bổ sung L/C làm kéo dài thời gian giao
dịch, tăng chi phí.
3. NHXN hay một NHCĐ khác có thể mắc sai lầm khi đã thanh toán cho một bộ

chứng từ có sai sót, sau đó ghi nợ NHPH. Nếu ngân hàng mắc sai lầm lại do
người nhập khẩu chỉ định, thì NHPH có quyền truy hoàn số tiền đã bị ghi nợ.
4. Nhà nhập khẩu chưa nhận được bộ chứng từ cho đến khi hàng đã cập cảng.
5. Nếu không quy định “bộ vận đơn đầy đủ” thì một người khác có thể lấy được
hàng hoá khi chỉ cần xuất trình một phần của bộ vận đơn, trong khi người trả
tiền hàng hoá lại là nhà nhập khẩu.
6. Người bán có thể không giao hàng khi giá cả thị trường biến động bất lợi cho họ,
điều này có thể dẫn đến tình trạng đình trệ sản xuất, làm giảm lợi nhuận của
người người mua.
1.1.4.2. Đối với người xuất khẩu.
a. Lợi ích:
1. Là người hưởng lợi của thư tín dụng, người xuất khẩu có được bảo đảm rằng khi
xuất trình chứng từ phù hợp với các điều khoản của thư tín dụng, người xuất
khẩu sẽ nhận được tiền thanh toán.
2. Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng cam kết của NHPH là sẽ
trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở chứng từ xuất trình phù hợp với
các điều khoản của L/C.
3. Đối với L/C có xác nhận, thì NHXN và NHPH cam kết bảo đảm rằng việc
“thanh toán/chiết khấu/chấp nhận” quy địng trong L/C được thực hiện theo
nguyên tắc không truy đòi người thụ hưởng.
b. Rủi ro:
1. Những thay đổi trong hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu phải tiến hành làm thủ tục sửa đổi, bổ sung L/C.
2. Nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản
thanh toán/chấp nhận có thể đều bị từ chối, và nhà xuất khẩu phải tự xử lý hàng
hoá như dỡ hàng, lưu kho…
3. Trong trường hợp L/C không có xác nhận, nếu NHPH mất khả năng thanh toán,
thì dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì cũng không được thanh toán.
4. Nếu nhà xuất khẩu nhận được một L/C trực tiếp từ NHPH (không gửi thông qua
NHTB), thì đó có thể là một L/C giả.

1.1.4.2. Đối với NHPH.
a. Lợi ích:
1. Thu phí từ phát hành L/C và các khoản phí khác liên quan đến giao dịch L/C; các
khoản thu nhập liên quan đến chuyển đổi tiền tệ.
2. Thông qua việc cung cấp dịch vụ thanh toán giúp khách hàng phát triển kinh
doanh, thì các hoạt động khác của ngân hàng cũng phát triển theo.
3. Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng tiềm năng kinh
doanh đối ứng giữa các ngân hàng với nhau.
b. Rủi ro:
1. NHPH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C
ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không hoàn trả hoặc không có
khả năng hoàn trả. Do đó rủi ro tín dụng đối với NHPH là rất hiện hữu.
2. Liệu ngân hàng có thu lại được một phần hay toàn bộ số tiền đã thanh toán từ
việc bán hàng nếu nhà nhập khẩu bị phá sản.
3. Khi L/C không có xác nhận, NHCĐ có thể yêu cầu NHPH chấp nhận thanh toán
cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ. Trong trường hợp này,
nếu không có sự chấp nhận trước của người nhập khẩu về việc hoàn trả, thì
NHPH sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, nên nhà nhập khẩu không chấp
nhận, do đó ngân hàng sẽ không truy hoàn được tiền từ nhà nhập khẩu.
4. Nếu NHPH chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà không có sự kiểm tra
một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà nhập khẩu không
chấp nhận, thì không thể đòi tiền nhà nhập khẩu được.
1.1.4.3. Đối với các ngân hàng thông báo/chỉ định/xác nhận.
a. Lợi ích:
1. Thu phí từ việc thông báo/thanh toán/xác nhận L/C và các khoản thu nhập khác
liên quan đến chuyển đổi tiền tệ.
2. Thông qua việc cung cấp dịch vụ thanh toán giúp khách hàng phát triển kinh
doanh, thì các hoạt động khác của ngân hàng cũng phát triển theo. Ví dụ, mở
rộng được các khoản tín dụng xuất khẩu, chiết khấu bộ chứng từ…
3. Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng tiềm năng kinh

doanh đối ứng giữa các ngân hàng với nhau.
b. Bất lợi:
1. Đối với NHTB: NHTB chịu trách nhiệm phải có sự “quan tâm hợp lý” để bảo
đảm rằng L/C là chân thật, bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khoá mã, mẫu điện
trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu.
2. Đối với NHCĐ: Trừ khi là NHXĐ, các NHCĐ không có một trách nhiệm nào
phải thanh toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NHPH. Tuy
nhiên, trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình, các NHCĐ thường ứng
trước cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy đòi (with recourse) để trợ giúp nhà
xuất khẩu, do đó, ngân hàng này phải tự chịu rủi ro tính dụng đối với NHPH
hoặc nhà xuất khẩu.
3. Đối với NHXN:
- Nếu bộ chứng từ là hoàn hảo, thì NHXN phải trả tiền cho người xuất khẩu bất
luận là có truy hoàn được tiền từ NHPH hay không. Như vậy, NHXN chịu rủi
ro tín dụng đối với NHPH, cũng như rủi ro chính trị và rủi ro cơ chế (hạn chế
ngoại hối) của nước NHPH.
- Nếu NHXĐ trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà không có
sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, NHPH
không chấp nhận, thì không thể đòi tiền NHPH.
Trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, Ngân hàng vừa là trung gian
thanh toán tiền hàng giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, vừa là người đảm bảo thanh
toán cho hai bên mua và bán. Người bán nhận được sự đảm bảo thanh toán từ ngân
hàng mở L/C hoặc ngân hàng xác nhận, đảm bảo thu được tiền hàng khi xuất trình
chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C. Người mua được
ngân hàng mở L/C, ngân hàng xác nhận dùng uy tín và tài chính của ngân hàng để cam
kết thanh toán cho người bán yên tâm giao hàng. Tuy nhiên đây không phải là phương
thức tuyệt đối an toàn cho người bán hay người mua, mà thực tế phát sinh cũng dẫn đến
những bất lợi, rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các bên tham gia. Chính vì
vậy, nhà nhập khẩu và xuất khẩu cần phải có những biện pháp phòng ngừa để giảm
thiểu những rủi ro này.

Các biện pháp phòng ngừa được dùng cho nhà xuất khẩu (nếu có điều kiện):
- Yêu cầu người mua mở thư tín dụng không huỷ ngang và thu xếp để thư tín
dụng được ngân hàng thông báo xác nhận. Ngân hàng xác nhận như thường lệ
chiết khấu/chấp nhận/thanh toán, nhưng cơ bản là giải toả nỗi lo của nhà xuất
khẩu khỏi những rủi ro về:
+ Sự đổ bể của ngân hàng mở thư tín dụng
+ Việc quản lý ngoại hối cấm chuyển ngoại tệ
Là thư tín dụng không huỷ ngang, thư tín dụng không thể huỷ bỏ hoặc sửa đổi
nếu không được sự đồng ý của tất cả các bên tham gia.
- Bảo đảm rằng các điều khoản của hợp đồng được bao gồm trong thư tín dụng.
Điều này cần thiết phải được kiểm tra cẩn thận khi nhà xuất khẩu nhận được
thư tín dụng do NHTB gửi cho. Nếu như các điều khoản trên đúng như theo
thoả thuận thì nhà xuất khẩu phải thông báo cho người mua ngay lập tức và
yêu cầu sửa đổi thư tín dụng.
Các biện pháp phòng ngừa được dùng cho nhà nhập khẩu (nếu có điều kiện):
- Có được báo cáo tốt về trạng thái của người cung cấp như danh tiếng, khả
năng tài chính và năng lực để sản xuất hàng hoá yêu cầu.
- Có được mẫu hàng hoá.
- Thêm vào điều khoản của thư tín dụng rằng người cung cấp phải giao hàng
phù hợp với hợp đồng mua bán, có nghĩa là “hàng hó được giao phù hợp với
hoá đơn tạm số … ngày …”.
- Đưa ra sự đảm bảo thêm vào bằng cách yêu cầu các chứng từ như giấy chứng
nhận kiểm định hoàn hảo do một công ty độc lập phát hành. Công ty này xác
nhận chất lượng/tiêu chuẩn nhất định của hàng hoá/đóng gói…
1.2. UCP ICC - VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH THANH TOÁN TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ.
Nhằm thống nhất thực hành về nghiệp vụ tín dụng chứng từ trên phạm vi toàn
cầu, phòng Thương Mại Quốc Tế (International Chamber of Commerce – ICC) cho ra
đời bản điều lệ về quy tắc thực hành và thống nhất về tín dụng chứng từ lần đầu tiên
vào năm 1933 (tại Viene – Áo). UCP là văn kiện tập hợp toàn bộ những qui tắc và định

nghĩa quốc tế thống nhất về tín dụng chứng từ, được hơn 165 quốc gia công nhận (đặc
biệt Mỹ và Canada coi UCP là một bộ luật cấu thành luật pháp quốc gia). Để phù hợp
với trình độ phát triển của ngoại thương và công nghệ thông tin, UCP đã được tu chỉnh
nhiều lần, lần tu chỉnh gần đây nhất là năm 2006 với kết quả là bản UCP 600 ra đời và
có hiệu lực từ ngày 1-7-2007.
Tuy vậy, các bản UCP ra đời sau không bác bỏ các UCP ra đời trước đó, nên
toàn bộ 7 bản UCP vẫn còn giá trị hiệu lực trong thanh toán quốc tế. Do vậy, các bên
tham gia trong một quy trình thanh toán quốc tế cụ thể nào đó có thể thỏa thuận với
nhau chọn bất kỳ bản nào và nhất thiết phải ghi nhận trong hợp đồng ngoại thương và
L/C. Cần lưu ý rằng, UCP là một văn bản quy phạm tuỳ ý, có nghĩa là muốn sử dụng thì
các bên phải dẫn chiếu vào trong hợp đồng và L/C, các bên cũng có thể có những thoả
thuận khác nhưng phải ghi rõ trong L/C.
Trong trường hợp UCP mâu thuẫn với luật pháp quốc gia thì ngoại trừ Mỹ và
Colombia, các quốc gia còn lại sử dụng luật pháp quốc gia để xử lý tranh chấp. Tại Việt
Nam các ngân hàng và các tổ chức xuất nhập khẩu đều cam kết thực hiện UCP 500 của
ICC.
1.3. THƯ TÍN DỤNG - MỘT CÔNG CỤ QUAN TRỌNG TRONG
THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
1.3.1. Khái niệm.
Thư tín dụng là một văn bản do Ngân hàng phát hành mở ra, trên cơ sơ yêu cầu
của người nhập khẩu; trong đó ngân hàng này cam kết trả tiền cho người thụ hưởng,
nếu họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Như vậy L/C là một bộ phận quan trọng của thanh toán tín dụng chứng từ, nếu không
có thư tín dụng chứng từ thì cũng không thể có phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ.
1.3.2. Tính chất của L/C.

×