Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.35 KB, 18 trang )

Chuyên đề:
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY
I- NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
Công tác vận động nhân dân của chính quyền nhà nước là một trong những nội
dung quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do tính chất và tầm quan trọng của vấn đề, việc
nghiên cứu để làm rõ nội dung, phương thức công tác dân vận của chính quyền nhà nước cần
có sự tiếp cận một cách khoa học.
1. Những lý do chính quyền cơ sở phải làm công tác dân vận
Thứ nhất, chính quyền nhà nước là một hệ thống chính trị của nước ta, có vai trò rất
quan trọng trong hệ thống chính trị. Trong bài báo Dân vận" viết từ tháng 10-1949, Hồ
Chí Minh khẳng định: "tất cả cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của
các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận". Nghị quyết
Trung ương 8b của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, Đảng đã chỉ rõ: "Công
tác quần chúng của Đảng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể".
Thứ hai, Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích,
nguyện vọng của nhân dân lao động, của toàn dân tộc Việt Nam. Vì vậy, trong toàn bộ
hoạt động của mình các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp phải làm công tác dân vận.
Thứ ba, xuất phát từ chức trách bao quát nhất của Nhà nước mà điều 3 Hiến pháp
năm 1992 đã quy định: "Nhà nước bảo đảm không ngừng phát huy mọi mặt quyền làm
chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân". Để thực hiện chức trách nói trên, Nhà nước phải tiến
hành công tác dân vận.
Thứ tư, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người thực hiện luật pháp, chính
1



sách của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, không chỉ có Đảng, Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân làm công tác dân vận theo chức năng và nhiệm vụ của mình, mà
chính quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở cũng phải làm công tác dân vận. Trong
quá trình hoạt động của các cơ quan chính quyền, cán bộ, công chức nhà nước phải vì
nhân dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm trước hết, giải quyết nhanh chóng mọi công
việc có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân đúng chính sách, pháp luật.
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 1.
Cán bộ, công chức chính quyền là công bộc, là đầy tớ của nhân dân, cán bộ phải học hỏi
nhân dân, phải xem trọng ý kiến nhân dân, tự phê bình trước nhân dân.
Nhân dân là nguồn của sức mạnh, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của chính quyền,
có dân là có tất cả; ngược lại, để mất dân là mất tất cả.
2. Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Nhà nước làm
công tác dân vận
Vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh và các bài học kinh nghiệm của cách
mạng Việt Nam do Đại hội VI của Đảng tổng kết vào thời kỳ đổi mới, Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ra Nghị quyết số 08B/NQ-HNTW
“Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân” với bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng trong thời kỳ mới,
trong đó có những nội dung đề cập trực tiếp đến công tác dân vận của Nhà nước:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.
Đưa quan điểm này lên hàng đầu Nghị quyết khẳng định lại nguyên lý cũng là lý
tưởng phục vụ nhân dân của Đảng. Đồng thời, phê phán một xu hướng lệch lạc đã trở
nên trầm trọng, một thứ ''giặc nội xâm'' là quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng,
không tôn trọng nhân dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Để hiểu đúng và thực hiện tốt quan điểm này, các cơ quan và công chức nhà nước
cần chú ý những điểm sau:
1 Trích bài Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên trên báo Sự thật tháng 10-1949..


2


Phải luôn luôn lấy mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân làm trọng. Nhân dân là lực
lượng, là người tiến hành mọi nhiệm vụ, mọi công việc của Nhà nước và đất nước. Nhà
nước phải tạo điều kiện, sức mạnh để nhân dân phát huy hết vai trò và thực hiện tốt
trách nhiệm của mình; phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhân dân ta bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, các giới, các dân tộc. Vì vậy, tư
tưởng đại đoàn kết phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, luật pháp của
Nhà nước, trong tổ chức điều hành, chỉ đạo thực hiện của chính quyền nhà nước các
cấp một cách đúng đắn. Chú trọng các chính sách cụ thể nhằm tăng cường và củng cố
khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền
tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có các chính sách dân tộc nhằm cải thiện,
nâng cao đời sống đồng bào về mặt vật chất, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn
hóa của từng dân tộc anh em trong thời kỳ mới. Tôn trọng và thực hiện tốt chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Phát huy tinh thần
yêu nước của các nhà doanh nghiệp tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ, của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
Đấu tranh mạnh mẽ, nghiêm khắc với tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng,
không tôn trọng dân, thiếu trách nhiệm với dân, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của
nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Nghị quyết Trung ương tám khóa VI đề ra nguyên tắc chỉ đạo: ''Trong xã hội do
nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt và thống
nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp''. Công tác vận động và
tổ chức nhân dân của Nhà nước chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và đáp
ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi
ích, gắn chặt quyền và nghĩa vụ công dân. Để có phong trào quần chúng, động viên
được tính tích cực chính trị, xã hội của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở phải sâu sát nhân dân, hiểu biết nhân dân,

nắm chắc yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của họ, đặc biệt là những vấn đề mới nảy
sinh, kịp thời giải quyết về mặt chính sách, cơ chế quản lý và có biện pháp cụ thể nhằm
3


chăm lo và bảo vệ lợi ích thiết thân của nhân dân. Cần khắc phục những lệch lạc trong
huy động sức dân, nhất là lạm dụng chủ trương xã hội hóa mà coi nhẹ việc bồi dưỡng
sức dân; đồng thời, cũng cần khắc phục tư tưởng mị dân, cục bộ, bản vị, làm hại lợi ích
chung, chỉ chú ý lợi ích kinh tế đơn thuần mà quên mất lợi ích tinh thần, chính sách xã
hội, văn hóa, giáo dục, đào tạo v.v:.. Phải uốn nắn những lệch lạc trong nhân dân như:
chỉ thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ, chỉ thấy lợi ích cá nhân và gia đình mà coi nhẹ
lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Trong giai đoạn mới, cơ cấu xã hội - giai cấp, xã hội - dân cư, xã hội - nghề
nghiệp... có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do đó, nhu cầu lợi ích của xã hội, nhu cầu về tổ chức hết sức đa dạng,
phong phú. Để nhân lên sức mạnh của quần chúng nhân dân, để xây dựng cuộc sống
mới, Nhà nước cần có nhiều hình thức và hoạt động thích ứng.
Trình độ của các tầng lớp quần chúng không đồng nhất, do đó phải có cấp độ
khác nhau về hình thức tập hợp để thực hiện và phát huy dân chủ, phát huy được khả
năng sáng tạo phong phú của nhân dân để giải quyết những lợi ích, nguyện vọng chính
đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân.
Bốn là, công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI đã chỉ rõ rằng: ''Công tác quần chúng
không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi cán bộ,
đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của
mình”. Như vậy, khi Đảng đã cầm quyền, lực lượng làm công tác dân vận gồm Đảng,
Nhà nước và các tổ chức đoàn thể. Mỗi tổ chức - tùy theo chức năng, nhiệm vụ của

mình - có nội dung, phương thức làm dân vận riêng.
Đối với Đảng, công tác quần chúng trước hết là trách nhiệm của Đảng. Đảng làm
công tác dân vận bằng cả hệ thống tổ chức đảng, thông qua Nhà nước và hệ thống Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân. Đảng có bộ máy tham mưu giúp cấp ủy trong việc lãnh
4


đạo công tác vận động nhân dân là Ban Dân vận các cấp; đồng thời, cử cán bộ, đảng
viên có uy tín, được tín nhiệm làm nòng cốt lãnh đạo các cơ quan chính quyền, các
đoàn thể nhân dân.
Đối với Nhà nước, trong điều kiện Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân chủ yếu thông qua Nhà nước, cụ thể là thông qua hệ thống luật pháp, chính
sách và các cơ quan nhà nước tổ chức điều hành, thực thi luật pháp, chính sách; thông
qua mối quan hệ phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để thực hiện các
chương trình, kế hoạch phát triển, luật pháp và chính sách; thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng; thông qua cán bộ, công chức nhà nước.
Tháng 3-1996, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VIII đã tổng kết sáu năm thực
hiện Nghị quyết 08B/NQ-HNTW, các nghị quyết về công tác Mặt trận, các đoàn thể
nhân dân và ban hành Chỉ thị số 69-CT/TW ngày 20-6-1996 về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI về ''Đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan giữa Đảng và nhân dân”. Chỉ
thị nhấn mạnh các nội dung của công tác vận động nhân dân trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa:
- Mục tiêu của công tác dân vận trong những năm tới là động viên mọi tiềm năng
sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Chăm lo, tạo điều kiện cho mọi vùng sớm xóa đói giảm nghèo, mọi nhà no
ấm; sớm xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, không ngừng nâng cao dân trí; bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân, xóm làng đoàn kết, yên vui, gia đình hòa thuận, hạnh
phúc, xã hội công bằng, đất nước ổn định.
- Đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, năng cao tinh thần yêu nước, ý thức tự

lực, tự cường, làm chủ cuộc sống bản thân và xã hội, nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
phong trào cách mạng trong nhân dân.
- Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
- Đảng lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên công tác dân vận. Mỗi cán bộ, đảng
viên, mỗi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm tốt công tác dân vận, giữ môí
quan hệ tốt với nhân dân trong khi thi hành công vụ. Cần phối hợp chặt chẽ giữa các
5


tổ chức chính trị - xã hội với các cấp, các ngành của chính quyền, gắn công tác dân
vận với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
II- VAI TRÒ, NỘI DUNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN
NHÀ NƯỚC
1. Vai trò của chính quyền nhà nước trong công tác dân vận
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được thực
hiện chủ yếu thông qua quan hệ giữa chính quyền với nhân dân; phong cách, thái độ làm
việc của cơ quan, cán bộ, công chức chính quyền có quan hệ trực tiếp đến xây dựng,
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Thông qua hoạt động quản lý điều hành, các cơ quan chính quyền nhà nước có điều
kiện phát hiện những thiếu sót, bất cập trong chủ trương, chính sách, đồng thời nắm
vững và hiểu rõ nguyện vọng của nhân dân, những nhân tố mới từ phong trào quần
chúng để tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường
lối, chính sách.
2. Nội dung, nhiệm vụ công tác dân vận của cơ quan chính quyền nhà nước
Hệ thống tổ chức nhà nước của nước ta gồm bốn cấp. Tất các các cơ quan nhà
nước ở từng cấp đều có trách nhiệm và điều kiện tiến hành công tác dân vân.
2.1. Đối với các cơ quan chính quyền cấp Trung ương đến cấp huyện và tương
đương
Quốc hội, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ có chức năng chính là nghiên cứu,
đề xuất, ban hành chính sách, luật pháp. Các cơ quan này có trách nhiệm quán triệt đầy

đủ, đúng đắn và kịp thời các chủ trương, nghị quyết của Đảng để cụ thể hóa thành các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; luật hóa thành các luật, pháp lệnh và văn bản quy
phạm pháp luật để bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quản lý xã hội, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; ban hành các chính sách khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và người dân sản xuất kinh doanh. Đồng
thời, các cơ quan này kiểm tra, giám sát đối với chính quyền cấp dưới, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chính phủ có trách
6


nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng tích cực tuyên truyền, phổ biến các chủ
trương, chính sách và pháp luật cho nhân dân; biểu dương các điển hình tiên tiến, các
gương "người tốt, việc tốt" trong nhân dân; phê phán, đấu tranh với các hành vi vi phạm
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Trong các chức năng của chính quyền nhà nước thì chức năng quản lý hành chính
nhà nước là chức năng cơ bản nhất. Đặc trưng quản lý hành chính của chính quyền là
áp dụng pháp luật, sử dụng quyền lực nhà nước tổ chức thực hiện chính sách thông qua
các quyết định, các biện pháp hành chính để tác động đến đối tượng quản lý. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả mọi trường hợp dùng biện pháp hành chính đều
có tác dụng. Thực tế chỉ rõ rằng, các biện pháp hành chính cũng chỉ có giới hạn trong
những hoàn cảnh và điều kiện nhất định. Muốn nâng cao hiệu quả của các biện pháp
hành chính, phải kết hợp nhiều biện pháp khác mà một trong các biện pháp đó là công
tác dân vận. Công tác dân vận phải được thể hiện cụ thể trên từng lĩnh vực công tác cụ
thể của chính quyền cơ sở như về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, an
ninh - quốc phòng, thi hành pháp luật...
2.2. Đối với chính quyền cấp cơ sở
Chính quyền xã, phường, thị trấn là cấp thấp nhất của hệ thống tổ chức chính
quyền. Chính quyền cơ sở gồm: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn (gọi chung là cấp xã). Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương; Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương. Chính quyền cơ sở làm công tác dân vận chính là
phải thực hiện tốt các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ theo quy định.
2.2.1. Đối với Hội đồng nhân dân cấp xã
Để làm tốt công tác dân vận, Hội đồng nhân dân cấp xã cần thực hiện việc đổi
mới tổ chức và hoạt động theo hướng:
- Hội đồng nhân dân bàn bạc và quyết định mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng tại cơ sở, những công việc mà xã, phường, thị trấn được phân cấp và
những việc đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bầu và phê duyệt
các chức danh hành chính theo luật định; giám sát hoạt động của cơ quan hành chính
7


và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai,
quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với
các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
- Đổi mới cơ chế bầu cử, ứng cử, lựa chọn các đại biểu Hội đồng nhân dân thực sự là
người đại diện cho dân; tăng thêm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân so với hiện nay;
tăng thích đáng tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng.
- Tăng số kỳ họp và nâng cao chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân.
- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong các kỳ họp Hội đồng, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên,
gắn bó với dân như tổ chức giám sát của Hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải, các tổ chức tự quản của
nhân dân2...
2.2.2. Đối với Uỷ Ban nhân dân
Tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục
tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở.
Thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được
giao.
Hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của dân, tạo thuận lợi cho người dân

và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật.
Nâng cao hiệu lực của cơ quan ủy ban nhân dân cấp xã trên cơ sở đề cao trách
nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn. Đối với những nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, những công việc được phân cấp và những việc
tự quản của cộng đồng dân cư, Chủ tịch ủy ban nhân dân đưa ra Hội đồng nhân dân bàn,
quyết định chủ trương, sau đó tổ chức thực hiện. Đối với những công việc được cấp trên
ủy quyền, cơ quan hành chính tổ chức thực hiện theo đúng quy định của cấp trên. Đối
với công việc tự quản của thôn và các tổ chức tự quản khác, cơ quan hành chính hướng
dẫn, hỗ trợ và giám sát việc tuân thủ pháp luật. Đối với các khiếu kiện của dân, phải đề
cao trách nhiệm giải quyết theo thẩm quyền, không để dây dưa kéo dài.
2 Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb CTQG, H,
2002, tr. 173-174.

8


Về tổ chức cơ quan hành chính, cần quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập
thể Uỷ ban nhân dân, của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên trong Uỷ ban nhân
dân. Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm Văn phòng Uỷ ban nhân dân và ba khối công việc:
khối kinh tế - tài chính (kể cả kế toán), khối văn hóa - xã hội và khối nội chính (đối với
phường có thể vận dụng quy định chung để tổ chức các khối công việc cho phù hợp).
Về điều kiện và phương tiện làm việc, tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ
động về ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo) đảm cho những cơ sở ở trình độ phát
triển trung bình có thể tự cân đối được chi thường xuyên. Thực hiện quy chế định kỳ
kiểm toán nhà nước, công khai thu chi ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc
phục vụ chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở miền núi và
các vùng có khó khăn. Trang bị các phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại
hóa theo yêu cầu tin học hoá hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm tốt hệ
thống truyền thanh, nhà bưu điện - văn hóa để nhân dân tiếp cận thông tin và hội họp3.
Cần lưu ý, chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất,

đời sống dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất quan
trọng trong quản lý đô thị 4. Do đó, trong nhận thức cũng như trong thực tế phải phân
biệt và phân định rạch ròi thẩm quyền, trách nhiệm và tạo điều kiện để chính quyền
phường thực hiện tốt nhiệm vụ đã được quy định, đặc biệt là trong việc quản lý thực
hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường, trật tự đô thị...
Những nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền cơ sở:
Một là: về phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Chính quyền cơ sở phải có các chủ trương đúng đắn, sáng tạo về phát triển kinh tế xã hội của cơ sở trong từng thời kỳ, không chỉ đúng với đường lối, chủ trương, chính sách
chung của Trung ương, của tỉnh, thành phố, huyện, quận, mà còn phải phù hợp với tình
hình thực tế ở cơ sở, xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân
dân. Để đạt được yêu cầu đó, chính quyền cơ sở phải coi trọng khâu quy hoạch, lập kế
hoạch, xây dựng chương trình, dự án; phải công khai để dân biết, tạo mọi điều kiện để
dân bàn, tham gia ý kiến; có cơ chế cụ thể để dân giám sát việc thực hiện các chủ
3 Sdd, tr. 174-176.
4

9


trương; chương trình, dự án kinh tế - xã hội đó. Đồng thời, chính quyền cơ sở phải
quan tâm bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
sản xuất kinh doanh, chế biến... cho nhân dân.
Với tư cách là chủ thể quản lý trực tiếp ở cơ sở, chính quyền cấp xã có thể ban
hành các quy định, thực hiện các biện pháp không trái với pháp luật nhằm khuyến
khích những nghề nghiệp, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, những việc làm có lợi cho
quốc kế, dân sinh, ngăn cấm những nghề nghiệp, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà
pháp luật không cho phép. Chính quyền cơ sở cần khuyến khích, trợ giúp việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tác thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh đúng với
quy định của luật pháp nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Chính quyền cơ sở phải làm tốt nhiệm vụ quản lý và phân bổ các nguồn lực một cách

hợp lý, ưu tiên những khu vực, địa bàn có điều kiện sản xuất khó khăn, những gia đình
chính sách...
Hai là: vận động nhân dân chấp hành nghiêm Hiến pháp, pháp luật và các văn bản
của chính quyền cấp trên tại cơ sở.
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân một cách rộng rãi và
sâu sắc. Tùy điều kiện cụ thể và trình độ nhận thức của nhân dân ở từng nơi mà có
cách tuyên truyền, giáo dục thích hợp như tổ chức học tập, tọa đàm, trao đổi, thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng: sách, báo, truyền thanh, truyền hình... Tuy nhiên,
kinh nghiệm thực tế cho thấy, phương pháp hiệu nghiệm nhất là tuyên truyền miệng và
thông qua việc tuân thủ nghiêm túc pháp luật, chính sách của cán bộ, đảng viên và gia
đình họ tại cơ sở là một phương thức tuyên truyền, giáo dục có tác dụng to lớn.
- Chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc của xã, phường, thị trấn tổ
chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hòa giải, thanh tra nhân dân xã, phường, thị
trấn.
- Thực hiện việc tiếp dân, xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị
của công dân theo đúng quy định của pháp luật một cách kịp thời, không để dây dưa,
đùn đẩy lên trên cho cơ quan, tổ chức khác.

10


- Tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo đúng quy định
của Chính phủ; hướng dẫn các xóm, ấp, làng, bản, phum, sóc, tổ dân phố xây dựng các
quy ước, hương ước không trái với quy chế dân chủ.
Ba là: vận động nhân dân tích cực tham gia phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội và
đời sống.
Chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện tốt kế hoạch phát triển giáo dục ở địa
phương. Phối hợp với nhà trường, Mặt trận và các đoàn thể vận động các tầng lớp nhân
dân, các gia đình đưa trẻ vào lớp một đúng độ tuổi và hoàn thành chương trình phổ cập
giáo dục. Đối với những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, chính quyền tổ chức các

lớp bổ túc văn hóa và xoá nạn mù chữ. Tùy tình hình cụ thể của từng vùng, chính
quyền cơ sở phối hợp với Hội Khuyến học, Mặt trận và các đoàn thể - bằng nhiều hình
thức - khuyến khích và trợ giúp các hoạt động khuyến học, khuyến tài, nêu gương
những gia đình, dòng họ, làng, bản, thôn, ấp... có truyền thống học tập giỏi. Đối với
các gia đình chính sách, gia đình nghèo khó, chính quyền cơ sở có các biện pháp cụ thể
giúp đỡ, khuyến khích cho con em đến trường.
Chủ động phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể, các hội quần chúng tổ chức các
hoạt động văn hóa, thông tin, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tổ chức các lễ hội truyền
thống của địa phương; giáo dục và có các biện pháp bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa
và danh lam thắng cảnh ở địa phương. Phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
trên địa bàn vận động nhân dân xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa; tham gia các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao. Phối hợp với các
ngành, các đoàn thể tổ chức phong trào quần chúng rộng rãi chống lại việc truyền bá
văn hóa phẩm đồi truỵ, phản động, bài trừ mê tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu; phòng chống
các tệ nạn xã hội và các biểu hiện không lành mạnh trong đời sống của các tầng lớp
dân cư ở địa phương.
Bốn là: vận động nhân dân tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển y tế, thực
hiện kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ môi trường.

11


Chính quyền cơ sở phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể vận động nhân dân thực
hiện các chương trình y tế ở cơ sở, chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình; giữ
gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, phòng chống các dịch bệnh...
Năm là: tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách đối với một số đối tượng.
Chính quyền cơ sở cần tổ chức thực hiện đúng chính sách, chế độ đối với các bà
mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những cá nhân và gia
đình có công với nước; chủ động phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể, các ngành vận
động nhân dân thực hiện công tác cứu tế xã hội, hoạt động nhân đạo từ thiện, giúp đỡ

các gia đình khó khăn, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật, trẻ mồ
côi; vận động nhân dân tham gia quy hoạch, quản lý, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ và nghĩa
địa của địa phương; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân đối
với việc tổ chức thực hiện các công tác này của Uỷ ban nhân dân.
Sáu là: Vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và an ninh
Về nhiệm vụ quốc phòng, tổ chức tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong nhân dân
trên địa bàn về mục đích, ý nghĩa, nội dung chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn
dân của Đảng, Nhà nước ta và nghĩa vụ công dân đối với những chủ trương đó. Phối
hợp với Mặt trận và các đoàn thể vận động nhân dân thực hiện luật nghĩa vụ quân sự,
công tác tuyển quân theo kế hoạch, đăng ký quân nhân dự bị động viên; thực hiện pháp
lệnh dân quân tự vệ ở địa phương, tham gia thực hiện chính sách hậu phương quân đội
và các lực lượng vũ trang ở địa phương.
Về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tổ chức thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, làm cho mọi người dân có thể lạo môi trường xã hội hoà
thuận, ấm cúng. Xây dựng lực lượng công an xã, phường, thị trấn trong sạch vững
mạnh, là công cụ đắc lực của chính quyền cơ sở, chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền
nhân dân. Chính quyền cơ sở chủ động phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh ở xã, phường, thị trấn, góp phần bảo vệ
an ninh Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hướng dẫn và vận động nhân dân tham
gia quản lý hộ khẩu, đăng ký tạm trú, tạm vắng và quản lý việc đi lại, cư trú của người
nước ngoài ở địa bàn xã, phường, thị trấn, thôn, xóm, bản, ấp, phạm, sóc của mình. Tổ
12


chức phối hợp với các cơ quan chức năng, với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tầng
việc thi hành các bản án với những cá nhân, tổ chức của địa phương mình và xử lý các
sai phạm hành chính theo quy định của pháp luật trong phạm vi, quyền hạn của mình.
Bảy là: Chính quyền cơ sở đối với nhiệm vụ thực hiện chính sách dân tộc và tôn
giáo
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết,

tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, chống kỳ
thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Nêu cao ý thức tự
lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường hỗ trợ, giúp đỡ
của nhân dân và cộng đồng. Thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
nhân sĩ, trí thức dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của mọi tầng lớp nhân
dân trong việc bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội 5. Để đạt được yêu cầu
trên, chính quyền cơ sở cần tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc.
Đối với đồng bào các tôn giáo, phải bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo
tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của đạo lý và truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với nước, đấu tranh ngăn chặn
các hoạt động mê tín dị đoan. Đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo có trách
nhiệm sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn
giáo. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo
hộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Nghiêm
cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích
động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tổn hại đến an ninh quốc gia. Để
5 Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trun ương Đảng khoá IX về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc “vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

13


thực hiện được định hướng chính sách nêu trên về tôn giáo của Đảng, chính quyền cấp
cơ sở phải tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác tôn giáo theo tinh thần Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo.
Tám là: Vận động nhân dân xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính
xã, phường, thị trấn. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật và các quy định của
Nhà nước và của chính quyền địa phương để nhân dân biết và thực hiện. Phối hợp với
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc của xã, phường, thị trấn tổ chức thực hiện công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo đúng quy định của luật pháp. Phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn tổ chức để
nhân dân bầu trưởng thôn, làng, bản, ấp, thum, sóc theo đúng quy định của quy chế dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập hồ sơ về phân vạch,
điều chỉnh địa giới hành chính ở địa phương; tổ chức lấy ý kiến trước khi trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân cấp trên xem xét, quyết định.
Chín là: Chủ động xây dựng, hoàn chỉnh cơ chế hoạt động của Nhà nước trong hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mười là: Hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ công chức Nhà nước tận tụy phục vụ
nhân dân.
III- PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1. Công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý, điều hành
Trong công tác dân vận, trước hết phải làm cho "dân biết" đầy đủ về mọi chủ trương,
kế hoạch, luật pháp, quy định để thực hiện. Đối với những vấn đề đang trong qua strình
chuẩn bị, chính quyền phải công bó công khai để nhân dân biết và đóng góp ý kiến. Bằng
các kênh thông tin khác nhau, chính quyền phổ biến đầy đủ, kịp thời chủ trương, chính
sách của Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân nắm được và thực hiện; những gì người dân
chưa hiểu, chưa rõ phải được giải thích, hướng dẫn. Trong thực hiện nhiệm vụ, các cơ
quan chính quyền phải công bố công khai, minh bạch với đại biểu nhân dân, với người
dân, tùy cấp độ, nội dung vấn đề. Đây là cơ sở quan trọng để các doàn thể nhân dân và
người dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của chính quyền.

14



2. Dân chủ hóa quá trình xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật
Chính sách của Nhà nước vừa là sự cụ thể hóa đường lối của Đảng, vừa là ý chí,
nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân không chỉ là người thi hành chính sách, mà trước
hết họ phải được tham gia xây dựng chính sách của Nhà nước, các quy định quản lý của
chính quyền địa phương. Chính quyền các cấp, các địa phương cần có các hình thức
thích hợp để tranh thủ được tối đa ý kiến đóng góp và việc xây dựng các chính sách, quy
định của các đoàn thể xã hội, các tầng lớp nhân dân.
Về bản chất, pháp luật là các quy tắc xử sự chung của đời sống xã hội được hình
thành và vận động một cách khách quan; nhà nước là người nhận thức và ghi nhận
chúng một cách sáng tạo và bảo đảm cho chúng được thực hiện thống nhất trong xã hội
theo các quan điểm và định hướng chính trị, vì lợi ích của nhân dân; pháp luật trở thành
hình thức pháp lý biểu hiện nhu cầu vận động của các quy luật khách quan. Vì vậy, nếu
đặt mọi công dân, mọi thiết chế xã hội và ngay cả bản thân việc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước dưới sự chi phối tuyệt đối của nó.
3. Mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải là một người làm công tác dân vận
Trong bài Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó đặt câu hỏi “Ai phụ trách dân vận”
và Người chỉ ra rằng: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội
viên của các tổ chức nhân dân… đều phải phụ trách dân vận”. Chủ tịch Hồ Chớ Minh
cũng nhấn mạnh trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn thể cán bộ, công chức đối với nhân dân:
“Cán bộ đoàn thể cũng như chính quyền, từ trên xuống dưới đều là đầy tớ của nhân dân,
phải xem trọng ý kiến nhân dân”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám khóa VI “Về đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”
chỉ ra: “Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Mọi
cán bộ, đảng viên, nhân viên Nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức
trách của mình”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội xác định: xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Nghị
15



quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đại diện quyền làm chủ của
nhân dân đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường
lối chính trị của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham
gia ý kiến của nhân dân”. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền”. Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21-9-2000 của Thủ tướng Chính phủ “Về tăng
cường công tác dân vận” cũng nêu ra: “Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân là người thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Chính phủ, đoàn thể,
nên dân phải được hiểu biết, bàn bạc và giám sát, do đó không chỉ có mặt trận, các đoàn
thể mà chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương cũng phải làm công tácc dân
vận”.
Chính quyền các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ quản lý hành
chính trên địa bàn, đồng thời có trách nhiệm động viên, vận động nhân dân, mọi thành
phần kinh tế phát huy vai trò làm chủ của mình đem tài năng, vốn liếng, sức lực xây
dựng địa phương giàu mạnh. Do đó, để thực hiện được nhiệm vụ chính trị của địa
phương, hệ thống chính quyền cần phải tăng cường công tác vận động nhân dân. Đội
ngũ cán bộ, công chức của chính quyền phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng,
kiên quyết chống thói quan liêu, cửa quyền, lạm quyền, hạch sách, nhũng nhiễu người
dân trong quá trình thừa hành nhiệm vụ. Cung cách hành xử thiếu tôn trọng dân, hống
hách, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, nhân viên của chính quyền đó khiến người dân
có suy nghĩ lệch lạc, giảm sútt lòng tin vào bộ máy chính quyền.
Cán bộ, công chức chính quyền làm công tác dân vận là phải nhận thức sâu sắc, đầy
đủ về tầm quan trọng của công tác dân vận; sâu sát, chú ý lắng nghe, tôn trọng ý kiến của
nhân dân, coi trọng việc vận động, thuyết phục, chịu khó tiếp xúc, tìm hiểu đời sống, tâm
tư, chú trọng giải quyết kịp thời những nguyện vọng, bức xúc chính đáng của người dân.

Các bộ phận, cơ quan, các ngành chức năng của nhà nước có quan hệ với dân như: tiếp
16


công dân, giải quyết thủ tục hành chính, công an, thuế, lao động - thương binh và xã hội, y
tế, giáo dục - đào tạo, xây dựng… cần tổ chức quán triệt, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ,
công chức về công tác dân vận gắn với thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chớ Minh", làm cho đội ngũ cán bộ, công chức có ý thức tự rèn luyện
về phẩm chất đạo đức, tích cực học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực
hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính,
không vì coi lợi nhỏ trước mắt mà quên trách nhiệm của mình đối với nước, với dân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, các cấp chính quyền cần chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ, công chức; xây dựng tác phong dân vận, đề cao trách nhiệm trước dân của cán
bộ, công chức theo tinh thần nội dung Chỉ thị số 18 -2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường công tác dân vận. Cần có khẩu hiệu, chương trình hành động trong
mỗi cơ quan nhà nước khắc phục thái độ, hành động thờ ơ, vô trách nhiệm của cán bộ,
công chức; bên cạnh đó, cần biểu dương, khen thưởng xứng đáng những tập thể, cá nhân
cán bộ, công chức có đức, có tâm, có năng lực, làm tốt công tác dân vận của Đảng, của
Nhà nước qua lời nói, hành động, tác phong trong quan hệ với nhân dân, thể hiện ý thức
và việc làm tốt trong quỏ trỡnh thừa hành nhiệm vụ được giao.
4. Chủ động phối hợp, liên kết hoạt động với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân để thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương chung
a) Về phối hợp tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Các cấp chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể các cấp phối hợp, tổ
chức việc vận động, tập hợp các nhân sĩ, trí thức, cá nhân tiêu biểu trong các dân tộc,
các tôn giáo, chuyên gia trên các lĩnh vực tham gia các hoạt động của Mặt trận tạo sự
đồng thuận trong xã hội; tuyên truyền, vận động người Việt Nam ở nước ngoài hướng về
quê hương, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.

b) Về phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân
Nhà nước chủ động phối hợp, liên kết hoạt động với Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân xây dựng và thực hiện kế hoạch tuyên truyền,
17


vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động mang tính
toàn dân, toàn diện. Đối với các cuộc vận động nhân dân, Nhà nước nên giao trách
nhiệm chính cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì thảo luận về mục đích, yêu
cầu, nội dung và các bước tiến hành, đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận, các đoàn thể
nhân dân tổ chức thực hiện. Đối với cuộc vận động nhân dân do Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đề xướng và chủ trì, Chính phủ phối hợp, tạo điều kiện để Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức triển khai thực hiện và cần có sự
phối hợp của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì lãnh đạo hai bên
thảo luận về mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc vận động, các bước tiến hành và phối hợp
cùng chỉ đạo triển khai thực hiện.
5. Sử dụng có hiệu quả các công cụ thông tin đại chúng, văn hóa - nghệ thuật
Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho công tác thông tin đại chúng. Chú trọng xây dựng các công trình phúc lợi, khu vui
chơi công cộng, các điểm vui chơi, nhà văn hóa các phường, xã, thị trấn, thôn, bản…
Thường xuyên kiện toàn, bồi dưỡng lực lượng tuyên truyền viên trực tiếp làm cộng tác
viên tuyên truyền ở cơ sở. Khai thác, sử dụng có hiệu quả các kênh thông tin, hệ thống loa
truyền thanh, tủ sách pháp luật các xã, phường, thị trấn. Nâng cao tính giáo dục, tự rèn
luyện thể dục thể thao trong quần chúng nhân dân và trong các hoạt động văn hóa, thể
thao cộng đồng. Đổi mới hình thức, biện pháp trong hoạt động tuyên truyền, văn hóa - thể
thao.

18




×