Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất ở công ty cổ phần lam sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.65 KB, 33 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Phi thương bất phú” đây là câu truyền miệng đã có từ lâu đời nghĩa là:không
buôn bán không giàu có được,vì thế mà từ thời phong kiến và trước đó con người ta đã
trao đổi hàng hoá để đổi được những thứ cần thiết.Và khi đồng tiền được ra đời đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ trao đổi buôn bán.Ngày nay, trong thời
buổi kinh tế thị trường nơi mà khó khăn chồng chất khó khăn,con người thì ngày càng
tinh khôn,xảo quyệt hơn trong buôn bán.Hay chúng ta có thể nói rằng là chúng ta đang
sống trong một bối cảnh người khôn của cũng khôn.
Vì vậy, mà vấn đề cần đặt ra cho mỗi doanh nghiệp và mỗi cá nhân là phải làm
như thế nào để có thể tồn tại trong bối cảnh này. Để trở thành một thành một doanh
nghiệp tốt, hùng hậu thì ngay từ ban đầu hãy chuẩn bị tốt nhất những yếu tốt đầu vào
để từ đó có thể phát huy được lợi thế của mình. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Hoạt
động đảm bảo vật tư cho sản xuất” ở công ty cổ phần Lam Sơn để viết đề án môn
học kinh tế thương mại.
“Lam Sơn” là công ty cổ phần chuyên sản xuất và cung ứng trên thị trường sản
phẩm thức ăn chăn nuôi gia súc với mục tiêu nghiên cứu chính là:
Thứ nhất là bảo đảm số lượng,chủng loại,chất lượng sản phẩm và dịch vụ
Thứ hai là bảo đảm đúng về thời gian
Thứ ba là chi phí sản xuất thấp nhất
Thứ tư là bảo đảm tính linh hoạt trong tổ chức
Với phạm vi của tề tài chỉ nằm trong hoạt động bảo đảm vật tư của công ty cổ
phần Lam Sơn trong thời gian gần đây với thời kì hội nhập

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO VẬT TƯ Ở DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT KINH DOANH HÀNG MỸ NGHỆ.
CHƯƠNG II : THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP Ở
CÔNG TY CỔ PHẦN LAM SƠN

1



CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO VẬT TƯ Ở DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT KINH DOANH HÀNG MỸ NGHỆ.
I. Bản chất và vai trò của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX.
1. Đảm bảo vật tư cho sản xuất là điều kiện tất yếu của quá trình sản xuất.
1.1 Khái niệm về vật tư.
Vật tư là sản phẩm của lao động được dùng để sản xuất hoặc cho sản xuất. Đó là
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, bán thành phẩm, điện năng, máy móc, thiết bị, dụng
cụ và phụ tùng.
Vật tư được chia làm hai nhóm lớn là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao
động và những vật tư dùng làm tư liệu lao động. Những loại vật tư thuộc nhóm thứ
nhất có đặc điểm là trong quá trình sử dụng chúng được dùng trong một lần và giá trị
chuyển hết sang giá trị thành phẩm. Còn những vật tư thuộc nhóm thứ hai, ngược lại,
được sử dụng nhiều lần và chuyển dần giá trị sang giá trị thành phẩm.
1.2 Phân biệt vật tư với tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng.
Mọi vật tư đều là tư liệu sản xuất. Nhưng không phải mọi tư liệu sản xuất cũng
đều là vật tư. Vật tư là tư liệu sản xuất theo nghĩa hẹp.
Vật tư giống vật phẩm tiêu dùng vì đều là sản phẩm của lao động. Vật tư khác vật
phẩm tiêu dùng ở mục đích sử dụng. vật tư dùng cho sản xuất còn vật phẩm tiêu dùng
để tiêu dùng.
1.3 Đảm bảo vật tư cho sản xuất là tất yếu.
Vì, quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động
vào đối tượng lao động nhằm làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý, hoá của
đối tượng lao động, nhằm tạo ra các giá trị sử dụng khác nhau. Vật tư là bộ phận chính
cấu thành lên sản phẩm. Để có vật tư cho sản xuất thì phải thông qua vấn đề tổ chức

2



quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất. Do đó, quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất
của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan của mọi nền sản xuất xã hội.

3


2. Vai trò của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX.
Để thực hiện quá trình sản xuất trơn chu đòi hỏi phải đảm bảo thường xuyên, liên
tục nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc thiết bị, ... Chỉ có đảm bảo đủ về số lượng,
đúng về mặt hàng, đúng về chất lượng và kịp thời các loại vật tư thì quá trình sản xuất
mới tiến hành được bình thường và sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Những vi
phạm, sai sót dù nhỏ trong quá trình đảm bảo vật tư cũng sẽ dẫn đến gián đoạn trong
sản xuất, gây ứ đọng vốn và mất đi cơ hội kinh doanh.
II. Những nội dung chủ yếu của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX và hệ
thống chỉ tiêu đánh giá.
Vật tư là bộ phận chủ yếu cấu thành lên sản phẩm. Do vậy bất cứ doanh
nghiệp nào khi tiến hành sản xuất cũng đều phải tiến hành hoạt động mua sắm vật tư.
Quá trình tổ chức mua sắm và quản lý vật tư ở doanh nghiệp có thể khái quát theo sơ
đồ sau. Đây là các bước của công tác đảm bảo vật tư ở các doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng.

Phân tích
đánh giá quá
trình quản lý

Xác định
nhu cầu

Quyết toán vật



Xác định
các phương
thức đảm
bảo vật tư

Lựa chọn người
cung ứng

Quản lý dự trữ
và bảo quản
Cấp phát vật tư
nội bộ

Xây dựng
kế hoạch
yêu cầu vật


Tổ chức
quản lý
vật tư nội
bộ

Thương lượng và
đặt hàng
Tổ chức tiếp
nhận và vận
chuyển vật tư


Mô hình mua sắm và quản lý vật tư ở doanh nghiệp sản xuất.

4

Lập và tổ chức
thực hiện kế
hoạch mua
sắm vật tư


1. Xác định nhu cầu mua sắm vật tư.
1.1 Xác định nhu cầu vật tư là việc đầu tiên của công tác hậu cần vật tư (đảm bảo
vật tư cho sản xuất). Đây là bước nhằm trả lời những câu hỏi sau: Cần mua những loại
vật tư gì? Chất lượng ra sao? Khối lượng bao nhiêu? Mua lúc nào? Mua ở đâu? Bước
này mà làm tốt sẽ tạo điều kiện cho việc lạp kế hoạch mua sắm vật tư được chính xác.
1.2 Cơ sở của việc xác định nhu cầu mua sắm vật tư.
Một là, phải dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua
chiến lược kinh doanh, các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Đó là, các chỉ số như
khối lượng sản phẩm dự định sản xuất, mức tiêu dùng vật tư cho một đơn vị sản phẩm,
...Từ đó, xác định được những loại vật tư nào là cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, số lượng cần bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu sản xuất của
doanh nghiệp.
Hai là, dự báo nhu cầu của vật tư trên thị trường. Trong tình hình hiện nay vấn đề
dự báo rất quan trọng, do thị trường trong và ngoài nước có nhiều thay đổi ảnh hưởng
đến mặt hàng kinh doanh trong quá trình thực hiện. Công ty cần nắm vững diễn biến
của thị trường về mặt hàng mà công ty sẽ kinh doanh, về giá cả, về phí lưu thông,
nguồn hàng và sự cạnh tranh của các đơn vị khác. Để từ đó củng cố thay đổi phương
thức kinh doanh của công ty. Công ty cần nghiên cứu nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từng
quý tháng, để từ đó công ty biết các vật tư mà công ty cần là bao nhiêu, chất lượng ra
sao, số lượng vật tư đó mua ở đâu. Qua dự báo này công ty có thể mở rộng thị trường

và bán thêm sản phẩm của mình kinh doanh. Khi đó lắm được tình hình tiêu thụ sắp
tới của công ty cũng biết thêm khả năng cung cấp vật tư trong nước và nước ngoài.
Nguồn hàng mà bán với số lượng giá trị ổn định, thuận tiện để bảo quản vận chuyển
đến nơi đơn vị cần mua. Dự báo nhu cầu vật tư cũng cho công ty biết được, những
biến đổi của chất lượng sản phẩm nào công ty đã mua hoặc những nguồn hàng mà
công ty vừa khai thác, nắm vững được yếu tố này sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của các bộ
phận.
Những luận chứng để dự báo nhu cầu vật tư: Diễn biến của thị trường; Nhu cầu
tiêu thụ sản phẩm trong nước; Khả năng cung cấp vật tư trong nước; Những biến đổi
của cơ cấu sản phẩm.

5


Những điểm cần chú ý khi dự báo nhu cầu vật tư: Xác định chi phí sản xuất; Khả
năng trong nước (cung cấp và khai thác); Cơ chế kinh tế; Những đòi hỏi về nâng cao
chất lượng sản phẩm
2. Nội dung và trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
2.1 Nội dung của kế hoạch mua sắm vật tư.
Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp thực chất là sự tổng hợp những tài
liệu tính toán kế hoạch, nó là một hệ thống những bảng biểu, tổng hợp nhu cầu vật tư
và một hệ thống các bảng biểu cân đối vật tư. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là bảo đảm vật
tư một cách tốt nhất cho sản xuất. Muốn vậy kế hoạch mua sắm vật tư phải xác định,
cho lượng vật tư cần thiết có trong kỳ kế hoạch cả về số lượng, chất lượng và thời
gian.
Bên cạnh việc xác định lượng vật tư cần mua, kế hoạch mua sắm vật tư còn phải
xác định rõ nguồn vật để thoả mãn các nhu cầu của doanh nghiệp. Bởi vậy kế hoạch
mua vật tư thường phản ánh hai nội dung cơ bạn sau đây:
Một là, phản ánh toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như
nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho xây dựng cơ bản, cho sửa chữa, cho dự trữ.

Hai là, phản ánh các nguồn vật tư để thoả mãn nhu cầu nói trên, bao gồm nguồn
tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp và nguồn mua ngoài.
2.2 Trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
Trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư gồm có 4 giai đoạn sau:
Thứ nhất, giai đoạn chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất
lượng và nội dung của kế hoạch vật tư, ở giai đoạn này, cán bộ thương mại doanh
nghiệp phải thực hiện các công việc sau, nghiên cứu và thu nhập các thông tin về thị
trường, các yếu tố sản xuất chuẩn bị các tài liệu về phường án sản xuất kinh doanh và
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mức tiêu dùng nguyên vật liệu, yêu cầu của các phân
xưởng, tổ đội sản xuất và của doanh nghiệp.
Thứ hai, Giai đoạn tính toán các loại nhu cầu của doanh nghiệp: Đối với các
doanh nghiệp sản xuất, để có được kế hoạch mua vật tư chính xác và khoa học, đòi hỏi
phải xác định đầy đủ các loại nhu cầu vật tư cho sản xuất. Đây là căn cứ quan trọng, để
xác định lượng vật tư cần mua về cho doanh nghiệp. Trong đó nền kinh tế thị trường,

6


với cơ chế tự trang chải và có lợi nhuận để tồn tại và phát triển, việc xác định đúng đắn
các loại nhu cầu có ý nghĩa kinh tế to lớn.
Thứ ba, Giai đoạn xác định số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp số lượng vật tư này thường được xác định theo
phương pháp "Uớc tính” và phương pháp "Định mức".
Thứ tư, Giai đoạn kết thúc của công việc lập kế hoạch mua sắm vật tư là xác định
số lượng vật tư hàng hoá cần phải mua về cho doanh nghiệp, nhu cầu này của doanh
nghiệp được xác định theo phương pháp cân đối nghĩa là:


i, j


N  P
i, j

Trong đó:

 N : Tổng nhu cầu về loại vật tư i dùng cho mục đích j.
i, j

 P : Tổng nguồn về loại vật tư i đáp ứng bằng nguồn j.
i, j

3. Các phương pháp đảm bảo vật tư.
3.1 Các nguồn hàng và đặc điểm của chúng.
Nguồn hàng của doanh nghiệp là tập hợp bao gồm các bộ phận có nguồn gốc
khác nhau, tính chất và đặc điểm khác nhau, các bộ phận này có thể phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Nguồn gốc hình thành góc độ phân cấp quản lý, tính chất
đặc điểm, phương thức mua, mà hình thành nên các hệ thống phân loại khác nhau,
kiểu lựa chọn tiêu thức phân loại nào, là phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu đã giúp
cho công tác tạo nguồn linh hoạt hơn. Do đó, lấy tiêu thức phân loại theo nguồn gốc
hình thành là phù hợp nhất. Theo tiêu thức này nguồn của các doanh nghiệp bao gồm
hai thành phần cơ bản: nguồn nhập khẩu và nguồn nội địa.
Nguồn nhập khẩu: Đây là nguồn được sản xuất tại nước ngoài mà doanh nghiệp
có khẳ năng khai thác đáp ứng, phần nào nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Hoạt động ở thị trường quốc tế phải tuân theo các điều kiện thương mại chung,
luật pháp và các chính sách buôn bán ở nước bạn hàng, điều kiện về tiền tệ và thanh
toán, điều kiện vận tải và tình hình giá cước. Hiện nay đại đa số các hợp đồng mua bán

7



nước ngoài phải thanh toán bằng ngoại tệ, vì thế phải cân nhắc tính toán cẩn thận khi
bỏ ngoại tệ ra mua hàng.
Nguồn nội địa: Nguồn nội địa là toàn bộ khả năng vật tư hàng hoá trong nước mà
doanh nghiệp có thể khai thác được. Nguồn hàng nội địa có thể chia ra làm hai bộ
phận: nguồn từ các đơn vị sản xuất và từ các tổ chức kinh doanh khác.
Nguồn thu mua trực tiếp từ các đơn vị sản xuất trong nước có nhiều điểm tích cực
như đảm bảo chất lượng, tính chất thường xuyên và khối lượng lớn, chi phí lưu thông
thấp.
Nhưng bên cạnh đó còn nhiều nhược điểm như là vật tư kinh doanh không đồng
bộ, nhưng thường phải chấp nhận giá cao hơn ở các tổ chức kinh doanh khác.
Ngoài hai bộ phận trên nguồn nội địa còn có.
Nguồn tồn kho tại các đơn vị phụ thuộc.
Nguồn do doanh nghiệp tự sản xuất.
Nguồn do doanh nghiệp thuê gia công.
Nguồn do doanh nghiệp liên doanh liên kết.
Nguồn do doanh nghiệp bán nghuyên vật liệu mua thành phẩm.
3.2 Các phương thức tạo nguồn hàng cho nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp.
a. Mua hàng: Các tổ chức kinh doanh hàng hoá có thể áp dụng nhiều hình thức
mua hàng khác nhau. Nhưng có hai hình thức mua hàng phổ biến sau.
Mua hàng theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế: Các tổ chức kinh doanh sau khi
tìm được nguồn hàng thì lập đơn hàng gửi tới đơn vị có hàng hoá và ký kết hợp đồng
mua.
Mua đứt bán đoạn (thuận mua vừa bán): Đó là hình thức mua sau khi tìm được
nguồn hàng, các tổ chức kinh doanh vật tư tiến hành thỏa thuận với đơn vị hàng hoá,
về giá cả và các điều kiện có liên quan như vận chuyển, phương thức thanh toán, thì
tiến hành mua không cần đơn đặt hàng hay hợp đồng kinh tế.
b. Các hình thức tạo nguồn khác.
Khai thác nguồn tồn kho đầu kỳ: là toàn bộ lượng hàng hoá còn lại cuối kỳ báo
cáo mà các tổ chức kinh doanh cung ứng có khả năng cân đối cho kỳ kế hoạch. Số
lượng thực tế hàng tồn kho đầu kỳ xác định kiểm kê thông qua vào cuối tháng 12,


8


nhưng thực tế khi xây dựng kế hoạch số liệu tồn kho được xác định trước thời gian
kiểm kê.
Vì vậy, người ta phải ước tính được lượng vật tư hàng hoá tồn kho. Kết quả ước
tính càng chính xác thì kế hoạch càng gần với tính khoa học và tính thực tế của nó.
Thông thường khi xác định lượng tồn kho đầu kỳ kế hoạch (cuối kỳ báo cáo) của
một mặt hàng nào đó ta dùng công thức.
Ođk = Ott + Nh - X
Trong đó:
Ođk : Tồn kho ước tính đầu kỳ kế hoạch.
Ott : Tồn kho thực tế tại thời điểm lập kế hoạch
Nh : Lượng hàng hoá ước nhập vào kể từ thơì điểm lập kế hoạch đến hết
năm báo cáo.
X : Lượng hàng ước xuất cũng trong thời gian đó.
Khai thác nguồn hàng ứ đọng chậm luân chuyển: Nguồn hàng này thường phát
sinh do yếu tố chủ quan của các tổ chức kinh tế. Xác định nhu cầu về khối lượng,
chủng loại và cơ cấu mặt hàng không chính xác. Cụ thể khi lập kế hoạch cung ứng và
ký kết các hợp đồng mua bán chưa tính đến nhu cầu cung ứng đồng bộ. Hàng nhập vào
không phù hợp với yêu cầu nên sinh ứ đọng. Yếu tố thứ hai là phải có vật tư hàng hoá
dự trữ cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do trình độ quản lý yếu tố đã xuất hiện một
lượng vật tư hàng hoá vượt quá mức dự trữ, hoặc không nằm trong danh mục cần cho
dự trữ. Những lượng vật tư hàng hoá đó cần nhanh chóng huy động vào lưu thông để
tiêu dùng cho sản xuất
Để có nguồn hàng cho hoạt động kinh doanh chúng ta còn nhiều nguồn khác như:
Nguồn tổ chức sản xuất: Đây là nguồn tự hình thành do các do các tổ chức lưu
thông kinh doanh vật tư tận dụng tiềm năng của mình là lao động, vật tư, tièn vốn(vật
tư ở đây là vật tư ứ đọng chậm luân chuyển, phế liệu, phế phẩm do thu mua được).

Hình thức này có tác dụng giải quyết công ăn việc làm cho lao động dư thừa và tăng
vật tư cho lao động xã hội, thực hiện được tiết kiệm.
Nguồn nhờ liên doanh liên kết:

9


Liên doanh là hình thức hợp tác giữa các tổ chức kinh tế cùng nhau đầu tư về vật
tư,tiền vốn lao động và cùng thống nhất với nhau về quyền lợi lâu dài giữa các bên về
lợi nhuận, cùng chia sản phẩm, liên kết cũng là quá trình hợp tác giữa hai bên hoặc
nhiều bên nhưng không chi phối nhau về sản phẩm.
Nguồn thu tái chế, sử dụng phế thải, phế liệu và phế phẩm: Đây là sản phẩm sinh
ra tất yếu trong quá trình sản xuất cùng với việc đa dạng hoá sử dụng sản xuất thì
nguồn hàng này càng trở nên phong phú và đa dạng. Nguồn này có thể tiến hành ngay
đầu vào cho một số nghành sản xuất nào đó, hoặc thông qua chế biến thành vật tư cho
các nghành sản xuất khác. Để tận dụng được nguồn này các tổ chức kinh doanh phải
tìm hiểu, liên doanh liên kết với sản xuất để thu được nguồn hàng này thông qua việc
bán đầu vào cho sản xuất, tìm hiểu và biết được đầu ra,thông qua hội chợ với khách
hàng.
Nguồn do nhận làm đại lý ký gửi: Để tạo thêm nguồn hàng phục vụ tốt cho yêu
cầu của kinh doanh, các tổ chức kinh doanh hàng hoá, có thể nhận làm đại lý bán
hàng cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hưởng hoa hồng theo tỷ lệ% nhất
định tính theo doanh số đại lý sự thoả thuận về giá bản quyền và nghĩa vụ của các bên
giao nhận đại lý.
4. Tổ chức thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư.
Trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và kết qủa nghiên cứu thị trường, doanh
nghiệp nên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện, bảo đảm vật tư cho sản xuất, lên đơn
hàng là quá trình cụ thể hoá, nhu cầu là việc xác định tất cả các quy cách chủng loại
hàng hoá dịch vụ cần thiết. Số lượng đặt mua từng quy cách, chủng loại và thời gian
nhập hàng, lập đơn hàng là công tác hết sức quan trọng trong quá trình mua sắm vật tư,

và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4.1 Lựa chọn người cung ứng vật tư.
Thông qua các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả, khả năng kĩ thuật, sự nổi tiếng,
thời hạn giao hàng, vị trí địa lý mà doanh nghiệp lựa chọn người cung ứng. Việc đánh
giá đơn vị cung ứng có thể thực hiện theo phương pháp cho điểm theo mỗi tiêu chuẩn
của doanh nghiệp. việc đánh giá được thực hiện theo định kỳ và không hạn chế ở các

10


đơn hàng đầu tiên. Người cung ứng phải được đánh giá lại nhằm đảm bảo sự ổn định
về chất lượng.
4.2 Thương lượng và tổ chức ký hợp đồng mua bán vật tư.
a. Thương lượng: Là giai đoạn quan trọng của quá trình mua. Những mục tiêu
cần đạt được trong thương lượng là.
Xác định tiêu chuẩn kỹ thuật các vật tư (độ dung sai sản phẩm, độ bền) và phương
pháp kiểm tra.
Xác định lại giá cả với những điều khoản xét lại giá cả khi giao hàng theo thời
hạn.
Xác định hình thức trả tiền.
Điều kiện giao hàng.
Thời hạn giao hàng và trách nhiệm khi giao hàng chậm.
b. Tổ chức kí hợp đồng mua bán vật tư.
Hợp đồng mua bán vật tư là văn bản ký kế giữa đơn vị mua và đơn vị bán. Hợp
đồng mua bán có tính chất pháp lý, người đại diện cho mỗi bên tham gia ký kết phải là
người có tư cách pháp nhân. Vì hợp đồng kinh tế là cơ sở, là căn cứ của trọng tài kinh
tế xét sử khi có những tranh chấp xẩy ra giữa hai bên ký kết hợp đồng. Hợp đồng mua
bán là cơ sở cho việc thực hiện thương mại phục vụ nhu cầu sản xuất trong những
khoảng thời gian nhất định. Hai bên mua bán có thể gặp nhau bàn bạc thoả thuận và ký
kết hợp đồng, thông qua các văn bản theo quy định của pháp luật.

Nội dung của hợp đồng mua bán phải đầy đủ các diều khoản sau.
1. Ngày, tháng, năm kí kết hợp đồng mua bán, tên, địa chỉ, số tài khoản và
ngân hàng giao dịch của các bên, họ tên người đại diện, người đứng tên đăng kí kinh
doanh.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá
trị quy ước đã thoả thuận.
3. Chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của vật tư hoặc các
cầu kĩ thuật.
4. Giá cả.
5. Bảo hành.
6. Địa điểm và thời gian giao nhận.

11

yêu


7. Phương thức thanh toán.
8. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
9. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng kinh tế.
10. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán vật tư.
11. Các thoả thuận khác.
Trong hợp đồng kinh tế nội dung quan trọng nhất, đó là các điều khoản cam kết
giữa hai bên bao gồm ba loại.
Một là, những điều khoản chủ yếu như nội dung giao dịch mặt hàng, trọng
lượng khối lượng, số lượng quy cách kích thước mã hiệu, phẩm chất, thời gian, địa
điểm phương thức giao nhận, phương thức thanh toán.
Hai là, những điều khoản thường lệ: là các điều khoản ghi trong hợp đồng,
nhưng vẫn được hai bên công nhận.
Ba là, những điều khoản thoả thuận: là những điều khoản chưa có quy định

của nhà nước được vận dụng một các linh hoạt, vào thực tế của hai bên mà không trái
với các điều luật, của nhà nước như giá cả tỷ lệ (chiết khấu hao mòn). Đối với những
hợp đồng kinh tế mua bán với nước ngoài, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị
trường quốc tế, và có kiến thức nhất định trong quan hệ mua bán quốc tế.
4.3 Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển vật tư.
a. Tổ chức tiếp nhận vật tư:
* Nhiệm vụ của công tác tiếp nhận vật tư.
Tiếp nhận đúng về số lượng, chất lượng vật tư, thời gian đã ghi trong hợp đồng
kinh tế hoặc các chứng từ giao nhận vật tư, bảo đảm đúng chính sách chế độ.
Giải phóng nhanh phương tiện ga, cảng bến bãi, tiếp nhận đưa nhanh vật tư về
kho an toàn.
* Nội dung công tác tiếp nhận:
Công tác chuẩn bị: Chuẩn bị các thủ tục tiếp nhận (hoá đơn, hợp đồng kinh tế, thủ
tục tiếp nhận) chuẩn bị lao động, phương tiện vận chuyển, phương tiện cân đong, chứa
đựng, kiểm tra và kho tàng.
Phương tiện tiếp nhận:

12


Tiếp nhận về số lượng: Dùng các phương tiện cân, đong, đo, đếm để kiểm tra số
lượng vật tư nhập kho.
Tiếp nhận về chất lượng: Người nhận cùng với người giao trực tiếp xác định chất
lượng vật tư hàng hoá trên các mặt. Phẩm cấp chất lượng hàng hoá và tỷ lệ phẩm cấp
trong lô.
Xác định về cơ cấu hàng hoá (tính đồng bộ).
Mức độ hư hỏng biến chất vật tư hàng hoá.
Hình dáng kích thước mầu sắc.
Tính chất cơ lý hoá.
Việc tiếp nhận hàng hoá được tiến hành theo hai phương pháp. Phương pháp tiết

kiệm toàn bộ và phương pháp kiểm tra điển hình, quy trình tiếp nhận phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn và điều khoản trong hợp đồng mua bán cũng như
các thông lệ hiện hành.
Một số trường hợp cần sử lý khi tiếp nhận vật tư:
Hàng hoá thừa , thiếu, kém, mất phẩm chất người giao và người nhận cùng nhau
lập biên bản, hàng hoá vật tư được tiếp nhận bình thường ghi chép theo đúng biểu
mẫu.
Hàng hoá đã về kho nhưng chưa có chứng từ, bộ phận nghiệp vụ tiến hành kiểm
tra toàn bộ các hợp đồng, kinh tế có liên quan để xác định, loại hàng hoá đó có
đúngtrong kế hoạch tiếp nhận hay không. Sau đó tiến hành tiếp nhận theo đúng nguyên
tắc, và ghi vào sổ theo dõi hàng chưa có hoá đơn, khi đã có hoá đơn chứng từ tiến
hành đối chiếu thực nhập với hoá đơn.
Hàng chưa về kho nhưng đã có chứng từ: Nếu đã chấp nhận thanh toán thì tiếp
nhận toàn bộ các loại hoá đơn chứng từ đó và ghi vào sổ theo dõi hàng trên đường đi.
Nếu chưa chấp nhận thanh toán thì lưu trữ hoá đơn và ghi vào sổ theo dõi chứng từ
chờ khi hàng hoá chuyển đến thì tiếp nhận bình thường.
làm tốt công tác tiếp nhận vật tư sẽ bảo đảm điều kiện, thúc đẩy quá trình tái sản
xuất phát triển giảm chi phí lưu thông, qua việc giải phóng nhanh, ga cảng, bến bãi,
kho tàng, phương tiện bốc xếp vận chuyển, giảm hao hụt mất mát, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Làm tốt công tác tiếp nhận là điều kiện thực hiện tốt các nghiệp

13


vụ kho, nắm vững lực lượng vật tư, nguồn nhập là cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu về
chi phí, tổ chức lao động và hạch toán giá thành.
b. Tổ chức chuyển vật tư về kho.
Tổ chức vận chuyển vật tư về kho, của doanh nghiệp là thực hiện kế hoạch vật tư
nhằm đảm bảo, vật tư cho sản xuất, vì vậy làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện cung
ứng vật tư kịp thời, và đồng bộ cho sản xuất của doanh nghiệp. Công tác vận chuyển

cũng là một điều khoản, trong hợp đồng mua bán dựa trên việc tính toán các chi phí
cần thiết trên cơ sở khối lượng vật tư cần mua, địa điểm giao hàng.
5. Tổ chức quản lý vật tư nội bộ.
5.1 Quản lý dự trữ và bảo quản.
a. Quản lý dự trữ.
Dự trữ là một công tác mà tất cả các doanh nghiệp đều phải làm để thực hiện, duy
trì hoạt động của mình. Vì nó đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục. Dự trữ quá nhiều
dẫn đến tốn nhiều chi phí. Nhưng dự trữ mà quá ít có thể gây gián đoạn quá trình sản
xuất.
Trong cơ chế thị trường, vấn đề quản lý dự trữ vật tư có ý nghĩa kinh tế to lớn,
làm tốt công tác dự trữ cho phép huy động được số lượng lớn vật tư vào chu chuyển.
Tuy nhiên, đòi hỏi phải phân bố hợp lý lực lượng dự trữ, xác định lượng thông tin kinh
tế cần thiết để quản lý các loại dự trữ vơí việc sử dụng công nghệ thông tin, lựa chọn
hình thức hạch toán và kiểm tra dự trữ, ...
Tối ưu hoá dự trữ được bắt đầu ở các doanh nghiệp là việc xác định mức dự trữ
cần thiết, theo từng loại vật tư cụ thể. Cơ sở cho công tác này là dự báo thị trường vật
tư, phân tích giá cả, cũng như dự báo tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở dự báo tính được
khối lượng dự trữ cần thiết. Đặc biệt, phải xác định giới hạn tối đa của dự trữ.
Hiện nay, có 2 phương pháp quản lý dự trữ. Đó là:
Phương pháp theo dõi và điều chỉnh liên tục: Theo dõi sự biến động của vật tư
một cách liên tục.
Dtt = Dmin + Dtx
Trong đó:
Dtt: Mức dự trx thực tế.

14


Dmin: Mức dự trữ tối thiểu.
Dtx: Mức dự trữ thường xuyên.

Phương pháp theo dõi và điều chỉnh định kỳ: Định kỳ tiến hành kiểm tra và đặt
hàng.
Ddh = Dmax – MxT
Trong đó:
Ddh: Số lượng đặt hàng.
Dmax: Mức dự trữ tối đa.
M: Mức tiêu dùng vật tư bình quân 1 ngày đêm.
T: Thời gian đặt hàng.
b. Tổ chức công tác bảo quản.
Làm tốt công tác này có tác dụng tích cực trong việc đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu
về số lượng, chất lượng vật tư về bảo quản chính là, bảo vệ nguyên vẹn những giá trị
và giá trị sử dụng của vật tư hàng hoá. Nó góp phần tiết kiệm lao động xã hội, giảm
chi phí kho và nâng cao hiệu quả lao động kho.
Nhiệm vụ của công tác bảo quản:
Bảo quản tốt về số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá, không ngừng phấn đấu
giảm hao hụt tự nhiên.
Sử dụng hợp lý và tiết kiệm diện tích, dung tích nhà kho và thiết bị chứa đựng.
Nội dung của nghiệp vụ bảo quản:
Đầu tiên, quy hoạch kho: dựa vào đặc điểm xây dựng và mặt bằng khu vực kho,
đặc điểm của từng loại vật tư hàng hoá, để chia kho thành những khu vực nhà kho,
gian kho, ngăn, ô, để chứa đựng các loại vật tư hàng hoá khác nhau.
Thứ hai, định vị định lượng vật tư hàng hoá: xác định vị trí tượng đói ổn định của
một loại vật tư nào đó, theo sơ đồ chi tiết của quy hoạch kho bằng các ký hiệu riêng và
bảo quản tính thống nhất trong toàn bộ kho.Xác định khối lượng vật tư trong mỗi đơn
vị đã được định vị.
Thứ ba, Kê lót chất xếp vật tư hàng hoá trong một đơn vị đã được định vị,làm tốt
công tác này bảo đảm được nguyên tắc dễ thấy, dễ lấy, hàng nhập trước xuất trước,
hàng nhập sau xuất sau, thuận tiện cho công tác bảo quản.

15



Thứ tư, điều hoà nhiệt độ, độ ẩm, hạn chế ảnh hưởng của môi trường đến vật tư
hàng hoá.
Thứ năm, chống côn trùng và vật gặm nhấm.
Thứ sáu, thường xuyên chăm sóc và kiểm tra chất lượng vật tư, xây dựng chế độ
kiểm tra, trách nhiệm bảo quản nhằm phát hiện và sử lý những hư hỏng, hao hụt từ đó
đề ra các biện pháp nhằm khắc phục kịp thời.
Thứ bảy, phòng chống cháy nổ, bão lụt, phòng gian bảo mật.
5.2 Tổ chức cấp phát vật tư cho nhu cầu sản xuất.
Tổ chức cấp phát vật tư đến nơi sản xuất ở doanh nghiệp là một trong những biện
pháp có hiệu quả, nhằm tiết kiệm vật tư ở doanh nghiệp. Làm tốt công tác này sẽ đảm
bảo cung ứng các điều kiện vật chất đầy đủ, đúng chất lượng tạo điều kiện trong quá
trình sản xuất tiến hành được nhịp nhàng.
Đảm bảo tính đồng bộ của vật tư góp phần thúc đẩy cải tiến quy trình công nghệ
rút ngắn thời gian chuẩn bị vật tư cho sản xuất, tạo điều kiện nâng cao năng xuất lao
động, sử dụng hợp lý và tiết kiệm vật tư, tiền vốn giảm lực lượng dự trữ ảnh hưởng
đến tài chính của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của công tác cấp phát vật tư cho nhu cầu sản suất là:
Thứ nhất, xuất vật tư đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng hạn mức, đúng
nguyên tắc.
Thứ hai, Cấp phát nhanh gọn bảo đảm an toàn vật tư.
Nội dung của công tác cấp phát vật tư.
Giai đoạn 1: Chuẩn bị cấp phát.
Vật tư trước khi đưa vào tiêu dùng cần được chuẩn bị tốt về số lượng, chất lượng,
quy cách chủng loại và thòi gian cấp phát.
Chuẩn bị lượng vật tư về số lượng chất lượng về sổ sách theo dõi chứng tư xuất
kho.
Chuẩn bị phương tiện cân, đong, đo, đếm, phương tiện kiểm tra, kiểm nghiệm,
chuẩn bị về lao động.

Chuẩn bị ở ngoài doanh nghiệp: Mục đích là giảm lượng dự trữ ở trong kho ở
doanh nghiệp,tiết kiệm được chi phí bảo quản,đáp ứng được nhu cầu sản xuất, cần đến

16


loại vật tư nào thì có ngay loại vật tư đó mà không cần phải dự trữ trước. Để làm tốt
khâu này cán bộ vật tư phải theo dõi để nắm vững nguồn hàng, nguồn cung ứng
phương tiện vận chuyển, bốc xếp...Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vật tư về
kho của doanh nghiệp, chuẩn bị kế hoạch điều độ, cấp phát, chuẩn bị tài liệu để thực
hiện.
Chuẩn bị tại kho của doanh nghiệp: Chuẩn bị bảo đảm cấp phát vật tư cho tiêu
dùng trực tiếp, phân loại đánh giá tình trạng vật tư hiện có, kiểm tra tính đồng bộ, tính
thống nhất. Xây dựng phương án cấp phát đảm bảo tính hiệu quả, bố trí nhân lực phù
hợp, cấp phát đảm bảo tính hiệu quả.
Giai đoạn 2: Cấp phát vật tư cho yêu cầu sản xuất, cơ sở của công tác này là dựa
vào hạn mức cấp phát, được xác định bằng hệ thống định mức, kinh tế kỹ thuật cho
từng loại vật tư với số lượng sản phẩp sản xuất ra trong kỳ kế hoạch việc cấp phát trật
tự theo hạn mức nâng cao trách nhiệm của các bộ phận tổ đội sản xuất trong việc sử
dụng số lượng vật tư thực lĩnh một cách hợp lý và tiết kiệm. Nâng cao trách nhiệm của
phòng kinh doanh trong việc thực hiện kế hoạch vật tư, nâng cao trách nhiệm của
người làm công tác kế hoạch góp phần sử dụng hợp lý kho tàng, đơn giản hoá công
tác nghi chép bán đều cho công tác hạch toán
Hạn mức được xác định theo công thức:
H = Nsx  Ndd + D - 0
H: Hạn mức cấp phát vật tư
Nsx: Nhu cầu vật tư để sản xuất sản phẩm
Ndd: Nhu cầu vật tư cho sản phẩm dở dang
D: Nhu cầu vật tư cho dự chữ phân xưởng
O: Tồn kho thực tế đầu kỳ

Trên cơ sở hạn mức được xác định, phòng kinh doanh lập phiếu lĩnh vật tư theo
hạn mức cho phân xưởng. Theo phiếu này thủ kho tiến hành cấp phát vật tư. Thủ kho
phải chuẩn bị các điều kiện cấp phát đảm bảo xuất nhanh gọn, an toàn kinh tế nhất.
Để giao vật tư cho các phân xưởng, tổ đội sản xuất người ta tiến hành theo hai
phương pháp sau:

17


Một là, giao vật tư tại kho của doanh nghiệp là phương thức giao trong đó phân
xưởng, tổ đội căn cứ vào chứng từ cấp phát của người mang phương tiện đến để nhập
vật tư từ kho của doanh nghiệp. Sử dụng phương pháp nàythì phân xưởng, tổ đội phải
có bộ phận tiếp liệu và phương tiện vận chuyển do đó sử dụng không hợp lý lao động
và phương tiện vận chuyển trong doanh nghiệp, thủ kho nhiều khi bị động nên khó
tránh khỏi sai sót khi xuất. Vì vậy phương pháp này chỉ thích hợp với việc cấp phát
vật tư với số lượng ít và không ổn định.
Hai là, Giao vật tư tại nơi làm việc. Đây là phương thức giao nhận vật tư căn cứ
vào lịch cấp phát vật tư, tự tổ chức chuyển đưa vật tư đến nơi làm việc bằng phương
tiện và nhân lực do phân xưởng quản lý. Áp dụng phương pháp này phải có bộ phận
cấp phát thuộc phòng cung tiêu thực hiện và quyết toán.
5.3 Kiểm tra tình hình sử dụng vật tư và thanh quyết toán.
a. Kiểm tra tình hình sử dụng vật tư.
Kiểm tra sử dụng vật tư phải căn cứ vào các tài liệu hạn mức cấp phát số liệu
hạch toán xuất kho của doanh nghiệp cho các đơn vị sử dụng, báo cáo của các đơn vị
sử dụng về tình hình sử dụng vật tư và số lượng sản phẩm làm ra. Mặt khác phải tiế
hành kiểm tra thực tế việc tiêu dùng ở tổ, đội sản xuất và người sử dụng.
Về mặt nguyên tắc, lượng vật tư xuất kho của doanh nghiệp phải khớp với hạn
mức, với các phiếu lĩnh vật tư. Nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp xuất ít hơn
hoặc nhiều hơn so với các chứng từ trên vì nhiều trường hợp có lệnh xuất kho mà
không có hoặc không đầy đủ, có vật liệu phải xuất nhiều hơn lệnh xuất vì vật liệu đó

không thể chia nhỏ để bớt lại, hoặc do nhiều nguyên nhân khác.
Lượng vật tư thực tế cấp ra cùng ngày có thể không khớp với hạn mức cấp phát
đã duyệt , vì quá trình sản xuất cần xin thêm vật tư hay vì thay đổi loại vật tư khác.
Khi có yêu cầu cấp thêm hay phiếu yêu cầu thay thế vật tư riêng, và phải được hạch
toán riêng.
Phiếu yêu cầu cấp thêm vật tư do phân xưởng (tổ, đội sản xuất) đề nghị trưởng
phòng kế hoạch và trưởng phòng vật tư ký. Trong phiếu yêu cầu nêu rõ nguyên nhân
xin cấp thêm. Nguyên nhân cấp thêm trong thực tế, có thể do hoàn thành vượt mức kế
hoạch sản xuất và có thể do sử dụng không đúng mục đích, do có nhiều phế phẩm, do

18


không tuân thủ mục tiêu dùng vật tư. Người quyết định cấp thêm cho phân xưởng là
giám đốc hay phó giám đốc doanh nghiệp.
Một căn cứ quan trọng nữa để kiểm tra, phân tích tình hình sử dụng vật tư là các
báo cáo của phân xưởng trưởng, thủ trưởng các bộ phận trong kỳ qua (thường là một
tháng). Trong báo cáo nêu rõ lượng vật tư tồn kho đầu kỳ, lượng vật tư đã nhận trong
kỳ, lượng vật tư sử dụng để thực hiện kế hoạch sản xuất (kể cả trường hợp vượt kế
hoạch) lượng phế phẩm và tồn kho cuối kỳ.
Mặt khác phòng vật tư cần phải tiến hành kiểm tra quan sát ở nơi trực tiếp tiêu
dùng vật tư. Chỉ có kiểm tra thực tế sử dụng mức xác định được sử dụng đúng đắn của
các tài liệu báo cáo và mới hiểu được rõ ràng tình hình qua báo cáo.
Sau khi đã có tình hình và số liệu được xác định và tính toán chính xác, để xác
minh được phân xưởng tiêu dùng vật liệu có hợp lý và tiết kiệm không, trước hết cần
phải đối chiếu số lượng các loại vật tư mà phân xưởng thực tế nhận trong kỳ với số
lượng các loại vật tư quy định trong các phiếu hạn mức.
b. Quyết toán vật tư.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất đòi hỏi các doanh
nghiệp phải định kì quyết toán vật tư sử dụng. Việc quyết toán vật tư là nhằm tính toán

lượng vật tư thực chi có sử dụng đúng mục đích không? Việc sử dụng các yếu tố vật
chất có tuân thủ các định mức tiêu dùng không? Lượng vật tư tiết kiệm hoặc bội chi?
Nguyên nhân gây lãng phí trong sủ dụng vật tư ở doanh nghiêp ... Ở các doanh nghiệp,
có thể áp dụng các phương pháp sau để quyết toán vật tư sau.
* Phương pháp kiểm kê: trên cơ sở số liệu kiểm kê thực tế tồn kho tại phân
xưởng đầu kỳ và cuối kỳ báo cáo và có số liệu về lượng vật tư xuất trong kỳ để xác
định thực tế vật tư chi phí cho sản xuất sản phẩm:
C = Ođk + X - Ock
C: Lượng vật tư thực tế chi phí
Ođk: Số tồn kho đầu kỳ theo kiểm kê
Ock: Lượng vật tư tồn kho cuối kỳ.
X: Lượng vật tư thực xuất tại kho của doanh nghiệp cho phân xưởng.

19


Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ cung ứng với số lượng vật tư thực chi bằng
số lượng thành phẩm trong kỳ trừ đi số lượng sản phẩm dở dang đầu kỳ cộng với số
lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Mức tiết kiệm hay bội chi được xác định theo công thức sau:
E=Q.M-C
E: Mức tiết kiệm hay bội chi
Q: Số lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ
M: Mức tiêu dùng nguyên vật liệu
Kết quả của phép tính nếu là số dương k(+) thì tiết kiệm nếu là số (-) thì bội
chi.
* Phương pháp nghiên cứu hiện trường: Phương pháp này chủ yếu thu thập thông
tin từ trực quan và các quan hệ giao tiếp với thương nhân và người tiêu dùng. Phương
pháp này đòi hỏi chi phí cao và có tính chất phức tạp. Do đó người ta thường sử dụng
phương pháp này sau khi có kết quả của phương pháp nghiên cứu tài liệu.

* Phương pháp đơn hàng: So sánh với mức quy định trong hợp đồng.
* Phương pháp quyết toán theo lô hàng cấp ra: Tính cụ thể cho từng lô vật tư cấp
phát trực tiếp tiêu dùng đến tận từng tổ, từng công nhân nếu sử dụng không hết sẽ thu
hồi nhập kho.

20


CHƯƠNG II : THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP Ở
CÔNG TY CỔ PHẦN LAM SƠN
1.Giới thiệu chung về công ty
Công ty với tiền thân ban đầu là cơ sở kinh doanh thóc gạo của một huyện thuần
nông .Với kinh nghiệm buôn bán công ty dần đó phát triển thành công ty trách nhiệm
hữu hạn chuyên kinh doanh mặt hàng gạo cho các tỉnh miền bắc.Sau khi cơ chế mở
cửa được thông thoáng nhận thấy kinh doanh sản phẩn về gạo thì sẽ mất rất nhiều năm
mới phát triển được công ty.Vì thế mà doanh nghiệp đã mạnh dạn chuyển hướng kinh
doanh sang mặt hàng thức ăn gia súc.Với sự hợp tác chỉ bảo của tổng công ty mẹ
.Công ty đi vào hoạt động với đội ngũ quản lý chủ yếu là người trong nhà họ
hàng.Được đào tạo từ bậc trung cấp đến đại học . Với đội ngũ quản lý đã tạo ra một
sức mạnh tập thể với sự đoàn kết giữa các cá nhân.Mọi người đã tạo ra một không khí
làm việc rất thoải mái .Họ có thể trao đổi rất thẳng thắn với nhau cùng nhau góp ý kiến
để tìm giải pháp tốt nhất cho một vấn đề.
Và với sự nỗ lực như vậy công ty đẵ ngày càng đi lên với số vốn tăng đáng kể
ban đầu chỉ với vài tỷ đồng ngày nay con số đó thật đáng nể đã ngần 200 tỷ đồng.
Gìơ đây,là một công ty nằm trên khu đất công nghiệp của huyện Đông Hưng,Thải
Bình.Với vị trí thuận lợi tiện đường giao thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty
phát triển.
2.Khái quát về hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần Lam Sơn
Làm việc đúng giờ là nguyên tắc đầu tiên của công ty đưa ra.Với những quy định
và bảng phân công việc làm rõ ràng chi tiết đã tạo điều kiện cho công nhân viên ý

thức,kiểm soát được thời gian làm việc của mình.Với khẩu hiệu “đi làm đúng giờ,tuân
thủ đúng nguyên tắc”.
Với đặc thù là sản xuất và chế biến thức ăn chăn nuôi. Các công đoạn của quá
trình sản xuất phải thật chính xác, tỷ lệ pha trộn theo đúng quy định, vừa đảm bảo
chất lượng thức ăn, vừa tuân thủ theo đúng quy định của cục đo lường chất lượng. Với
mong muốn vừa làm cho bà con chăn nuôi phát huy được hiệu quả kinh doanh, tạo

21


nhiều công ăn việc làm cho công nhân thì cái mà doanh nghiệp hướng tới là đưa quê
hương mình thành một khu công nghiệp phát triển.
Ban đầu công ty cần thu gom nguyên vật liệu từ người dân, sản phẩm từ nông
nghiệp đặc biệt là ngô. Công ty đã đi đến từng xã, từng làng triển khai mô hình trồng
ngô rộng khắp đến bà con. Công việc ban đầu gặp khó khăn, nhưng sau khi phân tích
cho bà con thấy được lợi ích từ việc trồng ngô, bởi vì từ xưa nông dân vùng đồng bằng
Bắc bộ quen trồng một năm hai vụ lúa, trồng ngô chỉ là xen canh. Nay chuyển hầu hết
sang trông ngô, bà con lo lắng sợ rằng không đủ ăn. Công ty đã công bố là đưa các
giống ngô tốt để bà con trồng thử, mà trồng ngô lại nhàn, không tốn công chăm sóc,
không sâu bệnh. Qua nhiều đợt trồng thử ngô đã cho năng suất tốt và lợi nhuận thu về
lớn hơn trồng lúa. Vì vậy, công ty đã thu mua được nguồn nguyên liệu ngô có chất
lượng cao.
Sau khi ngô được đưa về, công ty tiến hành kiểm tra, loại bỏ những nguyên liệu
không đủ chất lượng, tiến hành làm sạch đưa qua máy sấy làm khô để đảm bảo chất
lượng, không mối mọt. Với hoạt động sản xuất là liên tục không theo mùa vụ, do đó
sản phẩm phải được bảo quản tốt. Vì thế quá trình thu gom nguyên liệu của công ty
phải đảm bảo đủ cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục.
Ngô được sấy khô sẽ qua khâu chế biến và trải qua các bước sau:
Bước 1: Ngô được nghiền ra
Bước 2: Qua sàng lọc cho ra hai loại: ngô ở dạng nát và ngô dạng vỡ

Bước 3: Đây là khâu quan trọng nhất. Dạng nát được trộn với một số thành phần
khác. VD: các dạng của cua, ốc, hến… sau khi qua chế biến.
Đóng bao gói và chuyển cho các đại lý, các cơ sở được uỷ quyền để đưa vào lưu
thông. Với mục tiêu làm cho dân giàu nước mạnh thì công ty có thể nói là đã đi theo
đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng đề ra. Giờ đây với khoảng hơn 200 công nhân viên,
công ty đã dần làm thay đổi bộ mặt của địa phương và cải thiện đời sống của người
dân. Hàng năm, công ty mở đại hội khách hàng, luôn tuyên dương và khen thưởng cho
những đại lý có hiệu quả tiêu thụ tốt, động viên cá nhân có thành tích tốt trong công
việc với những phần thưởng có giá trị như: tivi, tủ lạnh … Và hàng năm công ty được

22


các cấp huyện, tỉnh tuyên dương là lá cờ đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển
quê hương.
3. Thực trạng công tác quản trị vật tư của Công ty Cổ phần Lam Sơn
3.1 Công tác xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư.
Với đặc điểm vật tư đưa vào sản xuất là khó bảo quản, khối lượng lớn. Vì vậy, kế
hoạch mua sắm vật tư là một trong những khâu quan trọng trong công tác quản trị vật
tư tại công ty.
Kế hoạch cung ứng vật tư tại Công ty Cổ phần Lam Sơn do phòng kế hoạch vật
tư đảm nhiệm. Phòng này có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình sản xuất thực tế năm
trước do phòng kế toán gửi xuống rồi thông qua đó lập kế hoạch sản xuất từng
kỳ( tháng, quý, năm). Ngoài ra phòng kế hoạch còn phải thực hiện các việc liên quan
đến vấn đề ký kết hợp đồng kinh tế với các đơn vị khác: marketing, quảng cáo sản
phẩm, đưa các kế hoạch tham dự hội trợ. Phòng kế hoạch phải tạo mối liên hệ chặt chẽ
với khách hàng, sẵn sàng cung ứng đủ số lượng sản phẩm cần thiết cho khách hàng, và
đảm bảo cung ứng nguồn vật tư cần thiết cho sản xuất, sửa chữa. Phải tính toán chi tiết
lượng vật tư dự trữ, bảo hiểm cần thiết cho cả giai đoạn sản xuất trong kỳ, phải lập kế
hoạch chiến lược sản xuât và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới. Tính toán chi phí

sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Xác định giá thành sản phẩm một cách tối
ưu. Phòng kế hoạch vật tư định mức tiêu hao vật tư do phòng kỹ thuật đưa ra và căn cứ
vào số lượng sản phẩm kỳ kế hoạch. Lượng phế phẩm thu hồi trong kỳ trước, lượng
phế phẩm phát sinh cho phép, rồi lập kế hoạch cung ứng vật tư cho từng đối tượng sản
phẩm trong kỳ. Sau khi lập kế hoạch cung ứng vật tư trong kỳ, phòng kế hoạch vật tư
trình lên ban giám đốc. Nếu được phê chuẩn, phòng kế hoạch vật tư tiến hành thực
hiện công tác cung ứng vật tư cho quá trình sản xuất trong toàn công ty sao cho quá
trình sản xuất diễn ra liên tục và đảm bảo tiến độ sản xuất.
Tại công ty việc sản xuất mặt hàng thức ăn chăn nuôi gia súc cung ứng với số
lượng lớn, phù hợp với kế hoạch và chỉ tiêu của công ty đề ra nên đôi khi gặp khó
khăn trong vấn để thu mua vật tư. Phòng kế hoạch vật tư thông qua các chỉ tiêu đó tổ
chức công tác tiếp nhận vật tư rồi điều hành quá trình sản xuất các mặt hàng sao cho
kịp tiến độ được giao.

23


Với việc xác định rõ ràng nhà cung ứng vật tư có ý nghĩa tích cực trong việc sản
xuất. Công ty đã đề nghị với bà con nông dân trong một làng, một xã nên có hai đến ba
người đứng lên làm đại diện làm nhà cung ứng vật tư cho công ty. Nó đảm bảo việc
sản xuất, xem xét vấn đề giá cả, chất lượng, thời gian, địa điểm giao hàng.
Do đặc thù sản xuất và vấn đề tiết kiệm chi phi đi lại, vận chuyển, lại không quá
khan hiểm nên việc thu mua vật tư cho từng thời kỳ sản xuất không gặp nhiều khó
khăn. Tuy vậy, trong thời gian gần đây giá trên thị trường tăng cao đột biến phần nào
đã gây nhiều bất lợi cho công ty. Công ty đã tăng cường, chú trọng hơn nữa đến công
tác giá trị vật tư nhằm giải quyết những khó khăn trong tình hình điều kiện thị trường
có nhiều biến động như vậy.
3.2 Công tác xây dựng và quản lý định mức tiêu dùng vật tư.
Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu là lượng tiêu dùng lớn nhất cho phép để sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc để hoàn thành một công việc nào đó trong những

điều kiện tổ chức và kỹ thuật nhất định của kỳ kế hoạch.
Vì vậy mà công tác xây dựng và quản lý định mức tiêu dùng vật tư ở Công ty Cổ
phần Lam Sơn rất được chú trọng. Để đảm bảo vật tư một cách tốt nhất cho sản xuất
thì không thể không coi trọng việc nâng cao chất lượng của công tác định mức.
Xây dựng hệ thống định mức tiêu dùng nguyên vật liệu là công việc rất phức tạp
vì khối lượng xây dựng định mức lớn. Vì thế công ty chú trọng cả công tác xây dựng
và quản lý định mức vật tư cho các loại vật liệu chính lẫn công tác xây dựng và quản
lý định mức vật tư cho các sản phẩm chính mà cần thực hiện rất nghiêm túc công tác
xây dựng và quản lý định mức vật tư sản phẩm phụ nhằm quản lý được toàn bộ chi phí
nguyên vật liệu đã và sẽ tiêu dùng trong kỳ, từ đó tìm biện pháp hạn chế được lượng
tiêu dùng nguyên vật liệu không cần thiết giúp cho việc sử dụng vật tư vào sản xuất có
hiệu quả nhất mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Công việc này thuộc về phòng kỹ
thuật, phòng này luôn kết hợp giữa việc tính toán về kinh tế và kỹ thuật với việc phân
tích toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiêu dùng vật tư cho kỳ kế hoạch. Việc
tiến hành công tác xây dựng và quản lý định mức từng vật tư còn có thể dựa vào trình
độ và kinh nghiệm của người lao động. Phòng kỹ thuật luôn chú ý đến việc xây dựng
hệ thống định mức sao cho phù hợp với thực tế sản xuất để tiến hành quản lý một cách

24


chặt chẽ và không ngừng hạ thấp định mức từng vật tư nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả sử dụng vật tư cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thông qua hàng loạt những hợp đồng cũng như kinh nghiệm sản xuất lâu năm,
phòng kỹ thuật luôn cố gắng đưa ra một hệ thống định mức vật tư cho từng loại sản
phẩm một cách thực tế nhất.

25



×