Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất” ở công ty cổ phần Lam Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.68 KB, 30 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Phi thương bất phú” đây là câu truyền miệng đã có từ lâu đời nghĩa là:không
buôn bán không giàu có được,vì thế mà từ thời phong kiến và trước đó con người ta đã
trao đổi hàng hoá để đổi được những thứ cần thiết.Và khi đồng tiền được ra đời đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ trao đổi buôn bán.Ngày nay, trong thời
buổi kinh tế thị trường nơi mà khó khăn chồng chất khó khăn,con người thì ngày càng
tinh khôn,xảo quyệt hơn trong buôn bán.Hay chúng ta có thể nói rằng là chúng ta đang
sống trong một bối cảnh người khôn của cũng khôn.
Vì vậy, mà vấn đề cần đặt ra cho mỗi doanh nghiệp và mỗi cá nhân là phải làm như
thế nào để có thể tồn tại trong bối cảnh này. Để trở thành một thành một doanh nghiệp
tốt, hùng hậu thì ngay từ ban đầu hãy chuẩn bị tốt nhất những yếu tốt đầu vào để từ đó
có thể phát huy được lợi thế của mình. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Hoạt động đảm
bảo vật tư cho sản xuất” ở công ty cổ phần Lam Sơn để viết đề án môn học kinh tế
thương mại.
“Lam Sơn” là công ty cổ phần chuyên sản xuất và cung ứng trên thị trường sản
phẩm thức ăn chăn nuôi gia súc với mục tiêu nghiên cứu chính là:
Thứ nhất là bảo đảm số lượng,chủng loại,chất lượng sản phẩm và dịch vụ
Thứ hai là bảo đảm đúng về thời gian
Thứ ba là chi phí sản xuất thấp nhất
Thứ tư là bảo đảm tính linh hoạt trong tổ chức
Với phạm vi của tề tài chỉ nằm trong hoạt động bảo đảm vật tư của công ty cổ
phần Lam Sơn trong thời gian gần đây với thời kì hội nhập
1 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO VẬT TƯ Ở DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT KINH DOANH HÀNG MỸ NGHỆ.
I. Bản chất và vai trò của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX.
1. Đảm bảo vật tư cho sản xuất là điều kiện tất yếu của quá trình sản xuất.
1.1 Khái niệm về vật tư.
Vật tư là sản phẩm của lao động được dùng để sản xuất hoặc cho sản xuất. Đó là
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, bán thành phẩm, điện năng, máy móc, thiết bị, dụng cụ


và phụ tùng.
Vật tư được chia làm hai nhóm lớn là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao
động và những vật tư dùng làm tư liệu lao động. Những loại vật tư thuộc nhóm thứ nhất
có đặc điểm là trong quá trình sử dụng chúng được dùng trong một lần và giá trị chuyển
hết sang giá trị thành phẩm. Còn những vật tư thuộc nhóm thứ hai, ngược lại, được sử
dụng nhiều lần và chuyển dần giá trị sang giá trị thành phẩm.
1.2 Phân biệt vật tư với tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng.
Mọi vật tư đều là tư liệu sản xuất. Nhưng không phải mọi tư liệu sản xuất cũng đều
là vật tư. Vật tư là tư liệu sản xuất theo nghĩa hẹp.
Vật tư giống vật phẩm tiêu dùng vì đều là sản phẩm của lao động. Vật tư khác vật
phẩm tiêu dùng ở mục đích sử dụng. vật tư dùng cho sản xuất còn vật phẩm tiêu dùng
để tiêu dùng.
1.3 Đảm bảo vật tư cho sản xuất là tất yếu.
Vì, quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động
vào đối tượng lao động nhằm làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý, hoá của
đối tượng lao động, nhằm tạo ra các giá trị sử dụng khác nhau. Vật tư là bộ phận chính
cấu thành lên sản phẩm. Để có vật tư cho sản xuất thì phải thông qua vấn đề tổ chức quá
trình đảm bảo vật tư cho sản xuất. Do đó, quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất của
doanh nghiệp là một tất yếu khách quan của mọi nền sản xuất xã hội.

2 2
2. Vai trò của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX.
Để thực hiện quá trình sản xuất trơn chu đòi hỏi phải đảm bảo thường xuyên, liên
tục nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc thiết bị, ... Chỉ có đảm bảo đủ về số lượng, đúng
về mặt hàng, đúng về chất lượng và kịp thời các loại vật tư thì quá trình sản xuất mới
tiến hành được bình thường và sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Những vi phạm,
sai sót dù nhỏ trong quá trình đảm bảo vật tư cũng sẽ dẫn đến gián đoạn trong sản xuất,
gây ứ đọng vốn và mất đi cơ hội kinh doanh.
II. Những nội dung chủ yếu của hoạt động đảm bảo vật tư ở DNSX và hệ
thống chỉ tiêu đánh giá.

Vật tư là bộ phận chủ yếu cấu thành lên sản phẩm. Do vậy bất cứ doanh nghiệp
nào khi tiến hành sản xuất cũng đều phải tiến hành hoạt động mua sắm vật tư. Quá trình
tổ chức mua sắm và quản lý vật tư ở doanh nghiệp có thể khái quát theo sơ đồ sau. Đây
là các bước của công tác đảm bảo vật tư ở các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh nói riêng.
Phân tích đánh giá quá trình quản lý
Xây dựng kế hoạch yêu cầu vật tư
Xác định các phương thức đảm bảo vật tư
Xác định nhu cầu
Quản lý dự trữ và bảo quản
Cấp phát vật tư nội bộ
Quyết toán vật tư
Tổ chức quản lý vật tư nội bộ
Lập và tổ chức thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư
Lựa chọn người cung ứng
Thương lượng và đặt hàng
Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển vật tư
Mô hình mua sắm và quản lý vật tư ở doanh nghiệp sản xuất.
1. Xác định nhu cầu mua sắm vật tư.
3 3
1.1 Xác định nhu cầu vật tư là việc đầu tiên của công tác hậu cần vật tư (đảm bảo
vật tư cho sản xuất). Đây là bước nhằm trả lời những câu hỏi sau: Cần mua những loại
vật tư gì? Chất lượng ra sao? Khối lượng bao nhiêu? Mua lúc nào? Mua ở đâu? Bước
này mà làm tốt sẽ tạo điều kiện cho việc lạp kế hoạch mua sắm vật tư được chính xác.
1.2 Cơ sở của việc xác định nhu cầu mua sắm vật tư.
Một là, phải dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua
chiến lược kinh doanh, các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Đó là, các chỉ số như
khối lượng sản phẩm dự định sản xuất, mức tiêu dùng vật tư cho một đơn vị sản
phẩm, ...Từ đó, xác định được những loại vật tư nào là cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, số lượng cần bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu sản xuất của

doanh nghiệp.
Hai là, dự báo nhu cầu của vật tư trên thị trường. Trong tình hình hiện nay vấn đề
dự báo rất quan trọng, do thị trường trong và ngoài nước có nhiều thay đổi ảnh hưởng
đến mặt hàng kinh doanh trong quá trình thực hiện. Công ty cần nắm vững diễn biến của
thị trường về mặt hàng mà công ty sẽ kinh doanh, về giá cả, về phí lưu thông, nguồn
hàng và sự cạnh tranh của các đơn vị khác. Để từ đó củng cố thay đổi phương thức kinh
doanh của công ty. Công ty cần nghiên cứu nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từng quý tháng,
để từ đó công ty biết các vật tư mà công ty cần là bao nhiêu, chất lượng ra sao, số lượng
vật tư đó mua ở đâu. Qua dự báo này công ty có thể mở rộng thị trường và bán thêm sản
phẩm của mình kinh doanh. Khi đó lắm được tình hình tiêu thụ sắp tới của công ty cũng
biết thêm khả năng cung cấp vật tư trong nước và nước ngoài. Nguồn hàng mà bán với
số lượng giá trị ổn định, thuận tiện để bảo quản vận chuyển đến nơi đơn vị cần mua. Dự
báo nhu cầu vật tư cũng cho công ty biết được, những biến đổi của chất lượng sản phẩm
nào công ty đã mua hoặc những nguồn hàng mà công ty vừa khai thác, nắm vững được
yếu tố này sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của các bộ phận.
Những luận chứng để dự báo nhu cầu vật tư: Diễn biến của thị trường; Nhu cầu
tiêu thụ sản phẩm trong nước; Khả năng cung cấp vật tư trong nước; Những biến đổi
của cơ cấu sản phẩm.
4 4
Những điểm cần chú ý khi dự báo nhu cầu vật tư: Xác định chi phí sản xuất; Khả
năng trong nước (cung cấp và khai thác); Cơ chế kinh tế; Những đòi hỏi về nâng cao
chất lượng sản phẩm
2. Nội dung và trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
2.1 Nội dung của kế hoạch mua sắm vật tư.
Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp thực chất là sự tổng hợp những tài liệu
tính toán kế hoạch, nó là một hệ thống những bảng biểu, tổng hợp nhu cầu vật tư và một
hệ thống các bảng biểu cân đối vật tư. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là bảo đảm vật tư một
cách tốt nhất cho sản xuất. Muốn vậy kế hoạch mua sắm vật tư phải xác định, cho lượng
vật tư cần thiết có trong kỳ kế hoạch cả về số lượng, chất lượng và thời gian.
Bên cạnh việc xác định lượng vật tư cần mua, kế hoạch mua sắm vật tư còn phải

xác định rõ nguồn vật để thoả mãn các nhu cầu của doanh nghiệp. Bởi vậy kế hoạch
mua vật tư thường phản ánh hai nội dung cơ bạn sau đây:
Một là, phản ánh toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như
nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho xây dựng cơ bản, cho sửa chữa, cho dự trữ.
Hai là, phản ánh các nguồn vật tư để thoả mãn nhu cầu nói trên, bao gồm nguồn
tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp và nguồn mua ngoài.
2.2 Trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
Trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư gồm có 4 giai đoạn sau:
Thứ nhất, giai đoạn chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất
lượng và nội dung của kế hoạch vật tư, ở giai đoạn này, cán bộ thương mại doanh
nghiệp phải thực hiện các công việc sau, nghiên cứu và thu nhập các thông tin về thị
trường, các yếu tố sản xuất chuẩn bị các tài liệu về phường án sản xuất kinh doanh và kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm, mức tiêu dùng nguyên vật liệu, yêu cầu của các phân xưởng, tổ
đội sản xuất và của doanh nghiệp.
Thứ hai, Giai đoạn tính toán các loại nhu cầu của doanh nghiệp: Đối với các doanh
nghiệp sản xuất, để có được kế hoạch mua vật tư chính xác và khoa học, đòi hỏi phải
xác định đầy đủ các loại nhu cầu vật tư cho sản xuất. Đây là căn cứ quan trọng, để xác
định lượng vật tư cần mua về cho doanh nghiệp. Trong đó nền kinh tế thị trường, với cơ
5 5
chế tự trang chải và có lợi nhuận để tồn tại và phát triển, việc xác định đúng đắn các loại
nhu cầu có ý nghĩa kinh tế to lớn.
Thứ ba, Giai đoạn xác định số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp số lượng vật tư này thường được xác định theo
phương pháp "Uớc tính” và phương pháp "Định mức".
Thứ tư, Giai đoạn kết thúc của công việc lập kế hoạch mua sắm vật tư là xác định
số lượng vật tư hàng hoá cần phải mua về cho doanh nghiệp, nhu cầu này của doanh
nghiệp được xác định theo phương pháp cân đối nghĩa là:
PN
jiji
∑∑

=
,,
Trong đó:

ji
N
,
: Tổng nhu cầu về loại vật tư i dùng cho mục đích j.

ji
P
,
: Tổng nguồn về loại vật tư i đáp ứng bằng nguồn j.
3. Các phương pháp đảm bảo vật tư.
3.1 Các nguồn hàng và đặc điểm của chúng.
Nguồn hàng của doanh nghiệp là tập hợp bao gồm các bộ phận có nguồn gốc khác
nhau, tính chất và đặc điểm khác nhau, các bộ phận này có thể phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Nguồn gốc hình thành góc độ phân cấp quản lý, tính chất đặc điểm,
phương thức mua, mà hình thành nên các hệ thống phân loại khác nhau, kiểu lựa chọn
tiêu thức phân loại nào, là phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu đã giúp cho công tác tạo
nguồn linh hoạt hơn. Do đó, lấy tiêu thức phân loại theo nguồn gốc hình thành là phù
hợp nhất. Theo tiêu thức này nguồn của các doanh nghiệp bao gồm hai thành phần cơ
bản: nguồn nhập khẩu và nguồn nội địa.
Nguồn nhập khẩu: Đây là nguồn được sản xuất tại nước ngoài mà doanh nghiệp có
khẳ năng khai thác đáp ứng, phần nào nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Hoạt động ở thị trường quốc tế phải tuân theo các điều kiện thương mại chung,
luật pháp và các chính sách buôn bán ở nước bạn hàng, điều kiện về tiền tệ và thanh
toán, điều kiện vận tải và tình hình giá cước. Hiện nay đại đa số các hợp đồng mua bán
6 6
nước ngoài phải thanh toán bằng ngoại tệ, vì thế phải cân nhắc tính toán cẩn thận khi bỏ

ngoại tệ ra mua hàng.
Nguồn nội địa: Nguồn nội địa là toàn bộ khả năng vật tư hàng hoá trong nước mà
doanh nghiệp có thể khai thác được. Nguồn hàng nội địa có thể chia ra làm hai bộ phận:
nguồn từ các đơn vị sản xuất và từ các tổ chức kinh doanh khác.
Nguồn thu mua trực tiếp từ các đơn vị sản xuất trong nước có nhiều điểm tích cực
như đảm bảo chất lượng, tính chất thường xuyên và khối lượng lớn, chi phí lưu thông
thấp.
Nhưng bên cạnh đó còn nhiều nhược điểm như là vật tư kinh doanh không đồng
bộ, nhưng thường phải chấp nhận giá cao hơn ở các tổ chức kinh doanh khác.
Ngoài hai bộ phận trên nguồn nội địa còn có.
Nguồn tồn kho tại các đơn vị phụ thuộc.
Nguồn do doanh nghiệp tự sản xuất.
Nguồn do doanh nghiệp thuê gia công.
Nguồn do doanh nghiệp liên doanh liên kết.
Nguồn do doanh nghiệp bán nghuyên vật liệu mua thành phẩm.
3.2 Các phương thức tạo nguồn hàng cho nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp.
a. Mua hàng: Các tổ chức kinh doanh hàng hoá có thể áp dụng nhiều hình thức
mua hàng khác nhau. Nhưng có hai hình thức mua hàng phổ biến sau.
Mua hàng theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế: Các tổ chức kinh doanh sau khi
tìm được nguồn hàng thì lập đơn hàng gửi tới đơn vị có hàng hoá và ký kết hợp đồng
mua.
Mua đứt bán đoạn (thuận mua vừa bán): Đó là hình thức mua sau khi tìm được
nguồn hàng, các tổ chức kinh doanh vật tư tiến hành thỏa thuận với đơn vị hàng hoá, về
giá cả và các điều kiện có liên quan như vận chuyển, phương thức thanh toán, thì tiến
hành mua không cần đơn đặt hàng hay hợp đồng kinh tế.
b. Các hình thức tạo nguồn khác.
Khai thác nguồn tồn kho đầu kỳ: là toàn bộ lượng hàng hoá còn lại cuối kỳ báo cáo
mà các tổ chức kinh doanh cung ứng có khả năng cân đối cho kỳ kế hoạch. Số lượng
7 7
thực tế hàng tồn kho đầu kỳ xác định kiểm kê thông qua vào cuối tháng 12, nhưng thực

tế khi xây dựng kế hoạch số liệu tồn kho được xác định trước thời gian kiểm kê.
Vì vậy, người ta phải ước tính được lượng vật tư hàng hoá tồn kho. Kết quả ước
tính càng chính xác thì kế hoạch càng gần với tính khoa học và tính thực tế của nó.
Thông thường khi xác định lượng tồn kho đầu kỳ kế hoạch (cuối kỳ báo cáo) của
một mặt hàng nào đó ta dùng công thức.
Ođk = Ott + Nh - X
Trong đó:
Ođk : Tồn kho ước tính đầu kỳ kế hoạch.
Ott : Tồn kho thực tế tại thời điểm lập kế hoạch
Nh : Lượng hàng hoá ước nhập vào kể từ thơì điểm lập kế hoạch đến hết
năm báo cáo.
X : Lượng hàng ước xuất cũng trong thời gian đó.
Khai thác nguồn hàng ứ đọng chậm luân chuyển: Nguồn hàng này thường phát
sinh do yếu tố chủ quan của các tổ chức kinh tế. Xác định nhu cầu về khối lượng, chủng
loại và cơ cấu mặt hàng không chính xác. Cụ thể khi lập kế hoạch cung ứng và ký kết
các hợp đồng mua bán chưa tính đến nhu cầu cung ứng đồng bộ. Hàng nhập vào không
phù hợp với yêu cầu nên sinh ứ đọng. Yếu tố thứ hai là phải có vật tư hàng hoá dự trữ
cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do trình độ quản lý yếu tố đã xuất hiện một lượng
vật tư hàng hoá vượt quá mức dự trữ, hoặc không nằm trong danh mục cần cho dự trữ.
Những lượng vật tư hàng hoá đó cần nhanh chóng huy động vào lưu thông để tiêu dùng
cho sản xuất
Để có nguồn hàng cho hoạt động kinh doanh chúng ta còn nhiều nguồn khác như:
Nguồn tổ chức sản xuất: Đây là nguồn tự hình thành do các do các tổ chức lưu
thông kinh doanh vật tư tận dụng tiềm năng của mình là lao động, vật tư, tièn vốn(vật tư
ở đây là vật tư ứ đọng chậm luân chuyển, phế liệu, phế phẩm do thu mua được). Hình
thức này có tác dụng giải quyết công ăn việc làm cho lao động dư thừa và tăng vật tư
cho lao động xã hội, thực hiện được tiết kiệm.
Nguồn nhờ liên doanh liên kết:
8 8
Liên doanh là hình thức hợp tác giữa các tổ chức kinh tế cùng nhau đầu tư về vật

tư,tiền vốn lao động và cùng thống nhất với nhau về quyền lợi lâu dài giữa các bên về
lợi nhuận, cùng chia sản phẩm, liên kết cũng là quá trình hợp tác giữa hai bên hoặc
nhiều bên nhưng không chi phối nhau về sản phẩm.
Nguồn thu tái chế, sử dụng phế thải, phế liệu và phế phẩm: Đây là sản phẩm sinh
ra tất yếu trong quá trình sản xuất cùng với việc đa dạng hoá sử dụng sản xuất thì nguồn
hàng này càng trở nên phong phú và đa dạng. Nguồn này có thể tiến hành ngay đầu vào
cho một số nghành sản xuất nào đó, hoặc thông qua chế biến thành vật tư cho các
nghành sản xuất khác. Để tận dụng được nguồn này các tổ chức kinh doanh phải tìm
hiểu, liên doanh liên kết với sản xuất để thu được nguồn hàng này thông qua việc bán
đầu vào cho sản xuất, tìm hiểu và biết được đầu ra,thông qua hội chợ với khách hàng.
Nguồn do nhận làm đại lý ký gửi: Để tạo thêm nguồn hàng phục vụ tốt cho yêu
cầu của kinh doanh, các tổ chức kinh doanh hàng hoá, có thể nhận làm đại lý bán hàng
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hưởng hoa hồng theo tỷ lệ% nhất định tính
theo doanh số đại lý sự thoả thuận về giá bản quyền và nghĩa vụ của các bên giao nhận
đại lý.
4. Tổ chức thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư.
Trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và kết qủa nghiên cứu thị trường, doanh
nghiệp nên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện, bảo đảm vật tư cho sản xuất, lên đơn
hàng là quá trình cụ thể hoá, nhu cầu là việc xác định tất cả các quy cách chủng loại
hàng hoá dịch vụ cần thiết. Số lượng đặt mua từng quy cách, chủng loại và thời gian
nhập hàng, lập đơn hàng là công tác hết sức quan trọng trong quá trình mua sắm vật tư,
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4.1 Lựa chọn người cung ứng vật tư.
Thông qua các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả, khả năng kĩ thuật, sự nổi tiếng,
thời hạn giao hàng, vị trí địa lý mà doanh nghiệp lựa chọn người cung ứng. Việc đánh
giá đơn vị cung ứng có thể thực hiện theo phương pháp cho điểm theo mỗi tiêu chuẩn
của doanh nghiệp. việc đánh giá được thực hiện theo định kỳ và không hạn chế ở các
9 9
đơn hàng đầu tiên. Người cung ứng phải được đánh giá lại nhằm đảm bảo sự ổn định về
chất lượng.

4.2 Thương lượng và tổ chức ký hợp đồng mua bán vật tư.
a. Thương lượng: Là giai đoạn quan trọng của quá trình mua. Những mục tiêu cần
đạt được trong thương lượng là.
Xác định tiêu chuẩn kỹ thuật các vật tư (độ dung sai sản phẩm, độ bền) và phương
pháp kiểm tra.
Xác định lại giá cả với những điều khoản xét lại giá cả khi giao hàng theo thời hạn.
Xác định hình thức trả tiền.
Điều kiện giao hàng.
Thời hạn giao hàng và trách nhiệm khi giao hàng chậm.
b. Tổ chức kí hợp đồng mua bán vật tư.
Hợp đồng mua bán vật tư là văn bản ký kế giữa đơn vị mua và đơn vị bán. Hợp
đồng mua bán có tính chất pháp lý, người đại diện cho mỗi bên tham gia ký kết phải là
người có tư cách pháp nhân. Vì hợp đồng kinh tế là cơ sở, là căn cứ của trọng tài kinh tế
xét sử khi có những tranh chấp xẩy ra giữa hai bên ký kết hợp đồng. Hợp đồng mua bán
là cơ sở cho việc thực hiện thương mại phục vụ nhu cầu sản xuất trong những khoảng
thời gian nhất định. Hai bên mua bán có thể gặp nhau bàn bạc thoả thuận và ký kết hợp
đồng, thông qua các văn bản theo quy định của pháp luật.
Nội dung của hợp đồng mua bán phải đầy đủ các diều khoản sau.
1. Ngày, tháng, năm kí kết hợp đồng mua bán, tên, địa chỉ, số tài khoản và
ngân hàng giao dịch của các bên, họ tên người đại diện, người đứng tên đăng kí kinh
doanh.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá
trị quy ước đã thoả thuận.
3. Chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của vật tư hoặc các yêu
cầu kĩ thuật.
4. Giá cả.
5. Bảo hành.
6. Địa điểm và thời gian giao nhận.
7. Phương thức thanh toán.
10 10

8. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
9. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng kinh tế.
10. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán vật tư.
11. Các thoả thuận khác.
Trong hợp đồng kinh tế nội dung quan trọng nhất, đó là các điều khoản cam kết
giữa hai bên bao gồm ba loại.
Một là, những điều khoản chủ yếu như nội dung giao dịch mặt hàng, trọng
lượng khối lượng, số lượng quy cách kích thước mã hiệu, phẩm chất, thời gian, địa điểm
phương thức giao nhận, phương thức thanh toán.
Hai là, những điều khoản thường lệ: là các điều khoản ghi trong hợp đồng,
nhưng vẫn được hai bên công nhận.
Ba là, những điều khoản thoả thuận: là những điều khoản chưa có quy định của
nhà nước được vận dụng một các linh hoạt, vào thực tế của hai bên mà không trái với
các điều luật, của nhà nước như giá cả tỷ lệ (chiết khấu hao mòn). Đối với những hợp
đồng kinh tế mua bán với nước ngoài, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị
trường quốc tế, và có kiến thức nhất định trong quan hệ mua bán quốc tế.
4.3 Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển vật tư.
a. Tổ chức tiếp nhận vật tư:
* Nhiệm vụ của công tác tiếp nhận vật tư.
Tiếp nhận đúng về số lượng, chất lượng vật tư, thời gian đã ghi trong hợp đồng
kinh tế hoặc các chứng từ giao nhận vật tư, bảo đảm đúng chính sách chế độ.
Giải phóng nhanh phương tiện ga, cảng bến bãi, tiếp nhận đưa nhanh vật tư về kho
an toàn.
* Nội dung công tác tiếp nhận:
Công tác chuẩn bị: Chuẩn bị các thủ tục tiếp nhận (hoá đơn, hợp đồng kinh tế, thủ
tục tiếp nhận) chuẩn bị lao động, phương tiện vận chuyển, phương tiện cân đong, chứa
đựng, kiểm tra và kho tàng.
Phương tiện tiếp nhận:
Tiếp nhận về số lượng: Dùng các phương tiện cân, đong, đo, đếm để kiểm tra số
lượng vật tư nhập kho.

11 11
Tiếp nhận về chất lượng: Người nhận cùng với người giao trực tiếp xác định chất
lượng vật tư hàng hoá trên các mặt. Phẩm cấp chất lượng hàng hoá và tỷ lệ phẩm cấp
trong lô.
Xác định về cơ cấu hàng hoá (tính đồng bộ).
Mức độ hư hỏng biến chất vật tư hàng hoá.
Hình dáng kích thước mầu sắc.
Tính chất cơ lý hoá.
Việc tiếp nhận hàng hoá được tiến hành theo hai phương pháp. Phương pháp tiết
kiệm toàn bộ và phương pháp kiểm tra điển hình, quy trình tiếp nhận phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn và điều khoản trong hợp đồng mua bán cũng như các
thông lệ hiện hành.
Một số trường hợp cần sử lý khi tiếp nhận vật tư:
Hàng hoá thừa , thiếu, kém, mất phẩm chất người giao và người nhận cùng nhau
lập biên bản, hàng hoá vật tư được tiếp nhận bình thường ghi chép theo đúng biểu mẫu.
Hàng hoá đã về kho nhưng chưa có chứng từ, bộ phận nghiệp vụ tiến hành kiểm
tra toàn bộ các hợp đồng, kinh tế có liên quan để xác định, loại hàng hoá đó có
đúngtrong kế hoạch tiếp nhận hay không. Sau đó tiến hành tiếp nhận theo đúng nguyên
tắc, và ghi vào sổ theo dõi hàng chưa có hoá đơn, khi đã có hoá đơn chứng từ tiến hành
đối chiếu thực nhập với hoá đơn.
Hàng chưa về kho nhưng đã có chứng từ: Nếu đã chấp nhận thanh toán thì tiếp
nhận toàn bộ các loại hoá đơn chứng từ đó và ghi vào sổ theo dõi hàng trên đường đi.
Nếu chưa chấp nhận thanh toán thì lưu trữ hoá đơn và ghi vào sổ theo dõi chứng từ chờ
khi hàng hoá chuyển đến thì tiếp nhận bình thường.
làm tốt công tác tiếp nhận vật tư sẽ bảo đảm điều kiện, thúc đẩy quá trình tái sản
xuất phát triển giảm chi phí lưu thông, qua việc giải phóng nhanh, ga cảng, bến bãi, kho
tàng, phương tiện bốc xếp vận chuyển, giảm hao hụt mất mát, nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Làm tốt công tác tiếp nhận là điều kiện thực hiện tốt các nghiệp vụ
kho, nắm vững lực lượng vật tư, nguồn nhập là cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu về chi
phí, tổ chức lao động và hạch toán giá thành.

b. Tổ chức chuyển vật tư về kho.
12 12

×