Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Nghiên cứu và đánh giá tác động của chính sách giáo dục và đào tạo trong thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị để hoàn thiện chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.74 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
BỘ MÔN: QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC XÃ HỘI

LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển
kinh tế - xã hội của một đất nước. Nói đến nguồn nhân lực, người ta thường quan
tâm đồng thời đến cả hai yếu tố chất lượng và số lượng, trong đó đặc biệt quan tâm
đến chất lượng nguồn nhân lực.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, người lao động còn phải biết chủ
động hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành động chủ
quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài để tăng
cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận
cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng không hòa tan, vẫn bảo tồn bản
sắc văn hóa dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều
kiện như vậy, người lao động, ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc
cao, còn cần có trình độ trí tuệ ngang tầm.
Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì, tất cả những
gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ. Sự yếu kém về
trí tuệ sẽ là lực cản dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người.
Cách duy nhất để cải thiện vốn tri thức, cũng như chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam chính là thông qua con đường giáo dục và đào tạo. Với mong muốn học hỏi,
tìm hiểu và biết thêm về vấn đề này, nhóm 1 bọn em cùng với sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo phụ trách bộ môn Bùi Thị Kim Thoa và thầy giáo Phạm Công Đoàn,
bọn em xin phép được trình bày những nghiên cứu của nhóm em về đề tài:
1


“Nghiên cứu và đánh giá tác động của chính sách giáo dục và đào tạo trong
thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam và đưa ra
những khuyến nghị để hoàn thiện chính sách.”.



2


Phần I: Khái quát về chính sách GD-ĐT
1.1. Khái niệm:
- Khái niệm chính sách: Chính sách là một hệ thống nguyên tắc có chủ ý hướng
dẫn các quyết định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên
bố về ý định, và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách
thường được cơ quan quản trị thông qua trong một tổ chức. Chính sách có thể
hỗ trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan.
- Khái niệm chính sách giáo dục- đào tạo: Là những chủ trương, biện pháp của
Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng, phát triển các phẩm chất và trí lực của
người lao động.
 Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người
bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới, thích hợp hơn
trong tương lai.
 Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng): được hiểu là các hoạt động học
tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức
năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập để người lao động
nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng
cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có
hiệu quả hơn.
1.2. Vai trò của chính sách GD-ĐT trong việc thực hiện mục tiêu phát triển
nguồn nhân lực xã hội:
- Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc
bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm
giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ
sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội
nhập quốc tế và toàn cầu.

- Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học
cơ sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn
khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh
tế tri thức. Giáo dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu”
rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng
định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
điều kiện phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp.
- Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan
3


trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử
dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược
phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người”,
tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP
cho giáo dục.
 Đối với doanh nghiệp:
- Nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện công việc.
- Nâng cao chất lượng thực hiện công việc.
- Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
- Duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật và quản lý vào doanh nghiệp.
- Giảm bớt sự giám sát vì người lao động được đào tạo là người có khả năng tự
giám sát.
- Tạo ra được lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.

 Đối với người lao động:
- Tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao động.
- Tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng như tương
lai.
- Tạo cho người lao động có cách nhìn, cách tư duy mới trong công việc của họ,
là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao động trong công việc.
- Đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động.
- Tạo được sự gắn bó giữa người lao động với công ty.
1.3. Phân loại nhóm chính sách GD-ĐT:
- Chính sách coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Chính sách nâng cao trình độ văn hóa, dân trí: phổ cập giáo dục tiểu học, xóa
mù chữ và tái mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, vùng xa.
- Chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao (cao đẳng, đại học, trên đại học).
- Chính sách đào tạo nghề.
- Chính sách phát triển hệ thống các trường ĐH, cao đẳng, trường nghề.
- Chính sách ưu đãi đối với lực lượng trong ngành giáo dục, đào tạo.
- Chính sách học phí, học bổng.
- Chính sách tuyển dụng, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài…
Phần 2: Thực trạng chính sách chiến lược và tác động của nó đến chiến lược
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
2.1.1. Chính sách nâng cao trình độ văn hóa, dân trí
4


Đảng và Nhà nước luôn khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, vì vậy, để
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã
ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2014/NĐ-CP, về thực hiện chính sách
phổ cập giáo dục, xóa mù chữ trên địa bàn cả nước nhằm tiếp tục đẩy mạnh công
tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Quy định rõ về điều kiện bảo đảm, trách nhiệm

của các cơ quan; tiêu chuẩn, thẩm quyền và hồ sơ công nhận đạt chuẩn phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục
trung học cơ sở và xóa mù chữ. Thực hiện Nghị định của Chính phủ, các tỉnh đều
thành lập Ban Chỉ đạo phổ cập giáo dục, xóa mù chữ ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã),
trong đó có thành phần tham gia của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Về phổ cập giáo dục, báo cáo của Chính phủ nêu rõ: Hiến pháp 2013 xác định:
"Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo
giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu
học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học", giáo dục mầm non và các cấp giáo
dục phổ cập cần phải bảo đảm cho học sinh học gần nhà, học sinh được học cả
ngày ở trường và có thời gian nghỉ phù hợp.
Luật Giáo dục (sửa đổi) cần quy định bảo đảm về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo,
đầu tư tài chính và xã hội hoá giáo dục để thực hiện được yêu cầu trên.
Ban soạn thảo đã bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của địa phương,
gia đình, người giám hộ trong việc tạo điều kiện cho học sinh trong độ tuổi quy
định được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập bắt buộc; đảm bảo cơ sở vật
chất, đội ngũ nhà giáo, đầu tư tài chính, xã hội hóa giáo dục để học sinh được học
2 buổi/ ngày (Điều 12, Điều 13, Chương VI).
Đối với đề nghị quy định Nhà nước tăng cường và bảo đảm các điều kiện để thực
hiện phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi và chăm lo giáo dục mầm non nói chung,
Ban soạn thảo đã bổ sung Điều 26 quy định chính sách phát triển giáo dục mầm
non.
Đối với việc mở rộng đối tượng không thu học phí là trẻ em dưới 5 tuổi, Ban soạn
thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên chính sách này ở các nước được đưa vào
chính sách an sinh xã hội, mặt khác đối với trẻ em dưới 5 tuổi, trách nhiệm xã hội
và gia đình là chủ yếu.
Liên quan đến chính sách giáo dục hòa nhập, báo cáo của Chính phủ cho biết: Để
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, trong đó Nhà nước tập trung chăm lo cho
các đối tượng học sinh đặc biệt, bao gồm các đối tượng học sinh yếu thế như học
5



sinh khuyết tật, học sinh người dân tộc thiểu số trên nguyên tắc hỗ trợ về ăn, ở,
điều kiện học tập, được học chung với các đối tượng học sinh khác.
Ban soạn thảo đã bổ sung 1 điều vào Chương quy định chung (Điều 14) về giáo
dục hòa nhập cho đối tượng yếu thế ở giáo dục mầm non, phổ thông, dân tộc ít
người để nâng cao chất lượng giáo dục.
Theo đó, giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu và khả
năng của các đối tượng người học khác nhau; đảm bảo quyền học tập bình đẳng,
chất lượng, phù hợp với đặc điểm và khả năng của người học; tôn trọng sự đa
dạng, những khác biệt về nhu cầu, đặc điểm của người học và không phân biệt, đối
xử.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ người học có hoàn cảnh đặc biệt, người học thuộc
hộ nghèo, hộ cận nghèo, người học dân tộc thiểu số, người học đang sinh sống tại
các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn được tiếp cận giáo dục hòa nhập. Sửa đổi quy định về đầu tư cho cơ sở
giáo dục ở những vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (Điều 94).
2.1.2. Chính sách đào tạo nghề, nhân lực trình độ cao
Trong tiến trình phát triển của xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao luôn đóng
một vai trò hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực này là một bộ phận cấu thành nên
nguồn nhân lực xã hội. Họ làm việc ở những vị trí lãnh đạo, chuyên môn kĩ thuật
bậc cao và chuyên môn kĩ thuật bậc trung, những vị trí có liên quan mật thiết tới sự
ra đời, phát triển, truyền bá và ứng dụng tri thức.
Chính vì vậy, một trong những mục tiêu mà Nghị quyết 29/NQ-TW của Hội nghị
Trung ương 8 khóa IX (năm 2013) về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT (viết tắt
là Nghị quyết 29) đặt ra cho ngành GD-ĐT là phải tạo ra một đội ngũ nhân lực chất
lượng cao, đủ đức, đủ tài để phục vụ sự phát triển chung của đất nước. Cụ thể:
“Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân
tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của
người học”. Thực hiện cụ thể qua các việc làm sau:

Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu
tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây
dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua
công trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm
của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ
chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư
6


phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng
các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh
viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng
nâng cao trình độ.
Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân
luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng
lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo,
cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng,
miền và địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở
bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực
tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ
năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học,
cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương
thức đào tạo. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây
dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục tiêu,
nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết

quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt
chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các
trường sư phạm trên phạm vi cả nước.
2.1.3. Chính sách phát triển hệ thống cơ sở đào tạo
2.1.3.1. Chính sách của Nhà nước:
- Luật Giáo dục số: 43/2019/QH14 tại chương II quy định về hệ thống giáo dục
quốc dân gồm:
Hệ thống giáo dục quốc dân

Các cấp học và trình độ đào tạo

Giáo dục thường xuyên

7


Giáo dục
mầm non

Giáo dục
phổ thông

Giáo dục
đại học

Giáo dục
nghề nghiệp


- Trong đó, chính sách của nhà nước tại quyết định số 37/2013/QĐ-TTg quy định
về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn
2006 - 2020 như sau:
 Tại điều 1, khoản 1 quy định về quan điểm quy hoạch:
Mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước;
thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn công tác
đào tạo với nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. Tập trung đầu tư xây
dựng các trường đẳng cấp quốc tế, các trường trọng điểm, các trường ở vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các lĩnh vực then chốt; khuyến khích phát triển
các trường tư thục nhằm huy động ngày càng nhiều hơn nguồn lực xã hội đầu tư
cho giáo dục đại học, trên cơ sở bảo đảm chất lượng, công bằng xã hội, gắn với
phát triển nhân tài.
 Tại điều 1, khoản 2 quy định về mục tiêu quy hoạch:
a) Đến năm 2020 đạt khoảng 256 sinh viên/1 vạn dân; khoảng 70% - 80% sinh
viên đại học được đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng và
khoảng 30% - 20% sinh viên được đào tạo theo các chương trình nghiên cứu;
b) Đến năm 2020 đạt bình quân từ 17 đến 26 sinh viên đại học và cao đẳng/1
giảng viên; số giảng viên có trình độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên đại học
khoảng 21% và số giảng viên có trình độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên cao
đẳng dự kiến đạt khoảng 4%;
8


c) Sau năm 2020 diện tích đất đai và diện tích xây dựng của các trường đạt
chuẩn định mức quy định về diện tích tính bình quân trên 1 sinh viên; hình
thành các khu đại học dành cho các trường đại học nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam;
2.1.3.2. Thực trạng

Bảng 1: Số lượng trường học và học sinh trong hệ thống giáo dục phổ thông
(2014-2018)
Năm
MẦM NON
Trường
Học sinh
TIỂU HỌC
Trường
Học sinh
THCS
Trường
Học sinh
THPT
Trường
Học sinh
-

2014-2015

2015-2016 2016-2017

2017-2018

2018-2019

14.203
4.416.852

14,532
4,627,316


14.881
5.085.635

15.256
5.306.536

5.360.000

15.277
7.543.632

15.254
7.790.009

15.052
7.801.560

14.937
8.041.842

8.359.000

10.878
5.098.830

10.909
5.138.646

10.928

151.669

10.939
5.373.312

5.603.000

2.767
2.439.919

2.788
2,811
2.834
2.425.130 2.477.175 2.508.564 2.578.000
Nguồn: Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo

Sự phát triển của hệ thống giáo dục Đại học nước ta hiện nay:
 Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện tại có 237 trường đại học, học viện
(bao gồm 172 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có
100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ
đào tạo trình độ tiến sĩ, 31 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp
sư phạm.
 Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến ngày 30/6/2019 cả
nước đã có 121 cơ sở giáo dục đại học và 03 trường cao đẳng sư phạm
đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục

9


đại học của Việt Nam, chiếm khoảng 51% tổng số các trường đại học, học

viện trong cả nước.
 Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Năm học 2018-2019, cả nước
có hơn 23,5 triệu học sinh, sinh viên, tăng hơn một triệu về số lượng so với
năm học trước.

Nguồn: Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhìn chung, số lượng về trường lớp và học sinh, sinh viên đều tăng theo mỗi năm.
Một trong những nhiệm vụ chính được ngành giáo dục đề ra là sẽ tiếp tục rà soát,
quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước. Trong đó,
để đáp ứng quy mô phát triển về số lượng học sinh, ngành giáo dục sẽ nghiên cứu,
đề xuất và trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển trường lớp mầm non ở
khu công nghiệp, khu chế xuất và hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện.
2.1.4. Chính sách ưu đãi với giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
2.1.4.1. Chính sách
10


- Luật Giáo dục 2019 được ban hành với nhiều quy định đáng chú ý, trong
đó có đề cập đến nhiều chính sách ưu đãi dành cho giáo viên kể từ ngày
01/7/2020.
- Nhằm nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho đội ngũ nhà giáo, giáo viên,
Luật Giáo dục 2019 đã có những quy định về chính sách đãi ngộ như sau:
 Nhà giáo được xếp lương phù hợp với vị trí việc làm và lao động nghề
nghiệp; được ưu tiên hưởng phụ cấp đặc thù nghề theo quy định của Chính
phủ.
 Nhà nước có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, bảo đảm các điều
kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và nhiệm
vụ của mình.
 Nhà giáo công tác tại trường chuyên, trường năng khiếu, trường phổ thông
dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học,

trường, lớp dành cho người khuyết tật, trường giáo dưỡng hoặc trường
chuyên biệt khác, nhà giáo thực hiện giáo dục hòa nhập được hưởng chế độ
phụ cấp và chính sách ưu đãi.
 Nhà nước có chính sách khuyến khích, ưu đãi về chế độ phụ cấp và các
chính sách khác đối với nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn.
 Đối với những nhà giáo có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú.
2.1.4.2. Thực trạng
 Đến năm 2019, mức lương của giáo viên vẫn được tính theo công thức:
Lương cơ sở x Hệ số lương hiện hưởng

11


- Trong khi hệ số lương được giữ cố định từ năm 2004 đến nay, thì mức lương cơ
sở được điều chỉnh tăng dần theo từng năm. Mức lương cơ sở tính từ ngày
01/7/2019 là 1.490.000 đồng/tháng.
- Căn cứ Nghị định 204/2004/NĐ-CP và Nghị định 38/2019/NĐ-CP, mức lương
của giáo viên hiện nay như sau:
 Giáo viên trung học cao cấp: Hệ số lương từ 4,0 đến 6,38 => Tương ứng
mức lương từ 5.960.000 đồng đến 9.506.200 đồng.
 Giáo viên trung học; Giáo viên tiểu học cao cấp; Giáo viên mầm non cao
cấp; Giáo viên trung học cơ sở chính: Hệ số lương từ 2,34 đến 4,98
=> Tương ứng mức lương từ 3.486.600 đồng đến 7.420.200 đồng.
 Giáo viên trung học cơ sở: Hệ số lương từ 2,10 đến 4,89 => Tương ứng mức
lương từ 3.129.000 đồng đến 7.286.100 đồng.
 Giáo viên tiểu học; Giáo viên mầm non: Hệ số lương từ 1,86 đến 4,06
=> Tương ứng mức lương từ 2.771.400 đồng đến 6.049.400 đồng.
- Đến năm 2020, dự kiến mức lương cơ sở sẽ tiếp tục tăng. Theo đó, mức lương

của giáo viên cũng sẽ tăng theo.
- Tuy nhiên, từ năm 2021, mức lương cơ sở và hệ số lương sẽ được bãi bỏ.
Lương của cán bộ, công chức, viên chức nói chung và giáo viên nói riêng sẽ
được tính bằng số tiền cụ thể.
 Ngoài ra, giáo viên còn được hưởng nhiều phụ cấp, chế độ khác như:
- Theo Thông tư liên tịch 01/2006/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC quy định về phụ
cấp ưu đãi theo nghề
- Theo Nghị định 54/2011/NĐ-CP quy định về phụ cấp thâm niên
- Phụ cấp thu hút
2.1.5 Nhà nước đã có những chính sách về Học phí:

12


Những đối tượng không phải đóng học phí, được miễn, giảm học phí, được hỗ trợ
chi phí học tập
(Nghị định 86/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 145/2018/NĐ-CP và
Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện
Nghị định 86/2015/NĐ-CP)

Theo đó:
 Những đối tượng không phải đóng học phí bao gồm:
- Học sinh tiểu học trường công lập;
- Học sinh, sinh viên ngành sư phạm hệ chính quy đang theo học tại các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập, theo chỉ tiêu đào tạo của
Nhà nước;
- Người theo học các ngành chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục đại học.
 Những đối tượng được miễn học phí bao gồm:
- Người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng

theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng được hợp nhất tại văn bản
số 01/VBHN-VPQH ngày 30 tháng 7 năm 2012 của Văn phòng Quốc hội. Cụ
thể:
- Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên bị tàn tật, khuyết tật thuộc diện hộ
nghèo hoặc hộ cận nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, vv…
13


- Học sinh, sinh viên hệ cử tuyển (kể cả học sinh cử tuyển học nghề nội trú với
thời gian đào tạo từ 3 tháng trở lên);
- Sinh viên cao đẳng, đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh học các chuyên
ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử;
- Người tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp (bao gồm cả
học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp nghề và trung
cấp chuyên nghiệp);
- Người học các trình độ trung cấp, cao đẳng, đối với các ngành, nghề khó tuyển
sinh nhưng xã hội có nhu cầu theo danh Mục do Thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở trung ương quy định;
- Người học các ngành, nghề chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục nghề
nghiệp. Các ngành chuyên môn đặc thù do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành;

14


- Trẻ em học lớp mẫu giáo 05 tuổi ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn có cha mẹ hoặc có cha hoặc có mẹ hoặc có người chăm sóc trẻ em
hoặc trẻ em thường trú ở xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và
miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo theo quy

định của Thủ tướng Chính phủ và cấp có thẩm quyền.
 Những đối tượng được giảm học phí bao gồm:
- Các đối tượng được giảm 70% học phí gồm:
 Học sinh, sinh viên học các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong
các trường văn hóa - nghệ thuật công lập và ngoài công lập.
 Học sinh, sinh viên các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo, tuồng, cải
lương, múa, xiếc; một số nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với
giáo dục nghề nghiệp. Danh Mục các nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định;
 Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số (không
phải là dân tộc thiểu số rất ít người) ở vùng có Điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
- Các đối tượng được giảm 50% học phí gồm:
 Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên là con cán bộ, công nhân, viên
chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được
hưởng trợ cấp thường xuyên;
 Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc hộ cận nghèo
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
 Những Chính sách về học bổng:
Theo dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục, đối tượng
được xét cấp học bổng chính sách gồm:
- Sinh viên hệ cử tuyển;
- Học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú;
- Học viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp dành cho thương binh, người khuyết
tật.
Cụ thể:
- Đối với học viên học hệ cử tuyển, học sinh các trường dự bị đại học, trường
phổ thông dân tộc nội trú; học viên học trong các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp dành cho thương binh, người khuyết tật: Mức học bổng bằng 80%
mức lương cơ sở/tháng;

15


- Đối với học viên là thương binh thuộc hộ nghèo học trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp dành cho thương binh, người khuyết tật: Mức học bổng
bằng 100% mức lương cơ sở/tháng.
- Mỗi học sinh, sinh viên chỉ được hỗ trợ 1 lần khi học trình độ đại học hoặc
trình độ cao đẳng hoặc trình độ trung cấp theo quy định. Trường hợp học
sinh, sinh viên thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách cùng lúc thì
chỉ được hưởng 1 chính sách cao nhất hoặc học đồng thời nhiều ngành,
nhiều cơ sở giáo dục thì chỉ được hưởng chính sách ở 1 ngành tại 1 cơ sở
giáo dục.
- Học sinh, sinh viên là đối tượng được hưởng chính sách theo quy định tại
Điều này là các đối tượng được hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi, trợ cấp xã
hội, học bổng khuyến khích học tập thì vẫn được hưởng các chính sách trợ
cấp ưu đãi, trợ cấp xã hội, học bổng khuyến khích học tập theo quy định;
- Học sinh, sinh viên bị kỷ luật buộc thôi học hoặc bị đình chỉ học tập thì
không được hưởng các chính sách quy định tại Điều này kể từ thời điểm
quyết định kỷ luật có hiệu lực hoặc trong thời gian bị đình chỉ;
- Học bổng chính sách được cấp đủ 12 tháng/năm, số năm học được hưởng
chính sách không được vượt quá số năm hoặc số học kỳ tối đa để hoàn thành
chương trình đào tạo tương ứng với các ngành học theo quy định. Riêng đối
với năm học cuối, học sinh, sinh viên được hưởng theo số tháng thực học.
- Đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học
nếu bị lưu ban thì năm học lưu ban đầu tiên vẫn được hưởng học bổng chính
sách theo quy định;
- Đối với các chương trình đào tạo theo phương thức tích lũy mô-đun, tín chỉ
thì học bổng chính sách được cấp theo thời gian đào tạo quy đổi nhưng
không vượt quá thời gian đào tạo của ngành, nghề và trình độ đào tạo tương
đương đối với chương trình đào tạo theo niên chế.

- Không áp dụng học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên học văn
bằng hai, đào tạo theo địa chỉ, hình thức đào tạo từ xa, liên kết đào tạo và
vừa làm vừa học

16


2.1.6 Chính sách bồi dưỡng và sử dụng nhân tài:
 Chính sách đãi ngộ bồi dưỡng:
- Bảo đảm tiền lương và thu nhập tương xứng; ngoài tiền lương, người có tài
năng còn được hỗ trợ một khoản kinh phí theo quy định của Nhà nước.
- Người có tài năng được xét nâng lương trước thời hạn, nâng lương vượt bậc
theo quy định của Nhà nước; được ưu tiên mua nhà ở theo chính sách về nhà ở
đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; được trang bị các phương tiện,
thiết bị làm việc; được giải quyết việc làm cho vợ (hoặc chồng) để hợp lý hóa
gia đình; được vay vốn Quỹ hỗ trợ và phát triển tài năng để ổn định cuộc sống
và được hỗ trợ khó khăn trong 10 năm đầu công tác; được tôn vinh thông qua
việc trao tặng các danh hiệu, ….

17


 Chính sách sử dụng nhân tài
- Theo nghệ thuật dùng nhân tài của Bác Hồ: “tùy tài mà dùng người”, phải
dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực sở trường của họ.
- Điều quan trọng, khi đã trọng dụng người tài thì nên giao trách nhiệm cho
họ, và đặc biệt đã dùng thì phải tin tưởng tuyệt đối, tránh nghi ngờ.
- Để cho người tài đảm nhận các công việc khó hơn trình độ của bản thân họ.
- Dùng người phải nhìn vào sự việc thực tế, xem cách họ làm chứ không chỉ
nhìn vào văn bằng họ đạt được.

- Có nhiều chính sách đãi ngộ riêng cho họ, tăng lương, thường, thời giờ làm
việc nghỉ ngơi hợp lý

18


2.2. Thực hiện chương trình GD-ĐT và kết quả đạt được
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, tác động tới mọi mặt đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Thực tế này đòi hỏi nguồn nhân lực giáo dục
Việt Nam phải có sự thay đổi căn bản về tầm nhìn, nội dung cũng như cách tiếp
cận trước sự đổi mới không ngừng của xã hội
Trên thực tế, trong những năm qua và hiện nay mặc dù NNL GD- ĐT đã tăng cả về
số lượng, chất lượng và sự thay đổi về cơ cấu v.v…Tuy nhiên với yêu cầu cao của
phát triển kinh tế và quá trình hội nhập đang đặt ra thì NNL trong GD -ĐT còn
nhiều bất cập: chất lượng NNL GD - ĐT còn chưa cao so với đòi hỏi của phát triển
kinh tế – xã hội, cơ cấu NNL GD - ĐT còn thiếu cân đối giữa các bậc học giữa các
vùng/miền; cơ chế, chính sách sử dụng, sắp xếp, bố trí NNL GD- ĐT (nhất là sử
dụng nhân tài trong lĩnh vực này) còn chưa phù hợp, chưa thoả đáng, việc đầu tư
cho NNL GD-ĐT còn thấp, chưa xứng đáng với vai trò và vị thế của đội ngũ.
Chính vì vậy, việc PTNNL trong GD - ĐT đang đặt ra là hết sức quan trọng, và cần
thiết. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã định hướng cho PTNNL Việt Nam
“Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được
đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn với một nền
khoa học- công nghệ và hiện đại’’. Như vậy, việc PTNNL trong lĩnh vực GD - ĐT
phải đặt trong chiến lược phát triển, kinh tế - xã hội, phải đặt ở vị trí trung tâm,
chiến lược của mọi chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Chiến lược phát triển
NNL GD-ĐT của nước ta phải đặt trên cơ sở phân tích thế mạnh và những yếu
điểm của nó, để từ đó có chính sách khuyến khích, phát huy thế mạnh ấy, đồng thời
cần có những giải pháp tích cực, hạn chế những mặt yếu kém trong việc PTNNL
trong GD - ĐT. Có như vậy chúng ta mới có được nguồn nhân lực có chất lượng

đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
2.3 Đánh giá tác dộng của chính sách GD-ĐT đên phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam:
2.3.1 Tích cực
C/S đào tạo nghề, nhân lực trình độ cao
Sự thay đổi mang tính hiện đại của nền giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số
cũng đòi hỏi đội ngũ giảng viên, giáo viên phải thay đổi để bắt kịp xu thế, nếu
không thay đổi sẽ bị tụt hậu và có nguy cơ thất nghiệp. Với kỷ nguyên số, người
19


học sẽ thay đổi, sinh viên và học viên các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp có quyền nhiều hơn trong chia sẻ thông tin cá nhân trên mạng xã
hội, người học cảm nhận được cuộc sống nhanh hơn, liên tưởng nhanh hơn giữa
kiến thức hàn lâm với thực tiễn cuộc sống. Không những thế, người học cũng dễ
dàng truy cập vào kho dữ liệu khổng lồ, các thông tin được mở rộng, có cơ hội
tương tác, kết nối không chỉ với giảng viên mà còn tương tác với các chuyên gia
trong và ngoài nước, việc người học tiếp cận với các học giả nổi tiếng ngày càng
dễ dàng hơn thông qua một cái nhấp chuột trên mạng xã hội.
2.3.2 Hạn chế
 C/S phát triển hệ thống cơ sở đào tạo
Công tác quản lý nhà nước, quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển nguồn nhân
lực của các ngành, nhất là nguồn nhân lực giáo dục hiện nay vẫn còn rời rạc, manh
mún và thiếu đồng bộ. Công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát
triển kinh tế - xã hội cũng hạn chế; cơ cấu đào tạo theo ngành, nghề, trình độ đào
tạo không được quy hoạch lâu dài. Các cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung cầu lao động nên việc xây dựng ngành, nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hàng năm
không sát thực tế. Bên cạnh đó, việc sử dụng lao động chưa thực hiện theo nguyên
tắc đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn. Trong khi đó, chế độ đãi ngộ lao
động, nhất là lao động trình độ cao hiện nay cũng chưa tương xứng với tay nghề và

sức sáng tạo của họ.
 Chính sách phổ cập GD tiểu học, xoá mù chữ và tái mù chữ cho dân tộc
thiểu số, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Việc phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo ở vùng
dân tộc thiểu số, miền núi hiện rầt được chú trọng. Song song với việc ban hành
nhiều chính sách ưu tiên cho người dạy và người học là việc tăng cường đầu tư,
xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục vùng DTTS, miền núi.
Trong đó, phải kể đến là sự phát triển về quy mô, số lượng và chất lượng giáo dục
của hệ thống các trường phổ thông dân tộc bán trú, phổ thông dân tộc nội trú và dự
bị đại học dân tộc. Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể nhưng nguồn nhân lực ở
vùng DTTS, miền núi vẫn được đánh giá là: còn thiếu về số lượng, yếu về chất
20


lượng ở cả ba mặt thể lực, trí lực và tâm lực vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của
phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt thể lực, đa số đồng bào DTTS có chiều cao, cân nặng nhỏ bé hơn mức
trung bình của cả nước kém xa mức trung bình về thể chất của người dân trên thế
giới. Nguyên nhân là do những thiếu thốn trong chế độ dinh dưỡng, hậu quả của
những thủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân cận huyết... và đặc điểm trong lao
động sản xuất: trẻ em người dân tộc thiểu số phải phụ giúp công việc gia đình từ
sớm, gùi, vác nặng...
Về mặt trí lực, nguồn nhân lực ở vùng DTTS, miền núi đã từng bước được cải
thiện do các chính sách ưu đãi trong giáo dục để thu hút trẻ em tới trường và theo
học các cấp, bậc học cao hơn. Song chất lượng giáo dục ở vùng DTTS, miền núi
nhìn chung còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước, tình trạng lưu ban, bỏ học
tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn. Nguyên nhân một phần là do chương trình,
sách giáo khoa chưa phù hợp với học sinh dân tộc, một phần không nhỏ khác là do
trường, lớp ở xa nhà, đi lại khó khăn; thời tiết khắc nghiệt; hoàn cảnh gia đình

nghèo túng; trẻ em phải giúp việc gia đình từ khá sớm; ảnh hưởng của một số luật
tục như tảo hôn, lễ hội, du canh, du cư ... đã tác động tới quá trình theo học liên tục
của các em.
Về mặt tâm lực, do đặc điểm địa hình xa xôi, cách trở; điều kiện sống ít giao thiệp
với bên ngoài và khó khăn về mặt ngôn ngữ nên phần đa trẻ em DTTS, miền núi
chưa có nhiều kỹ năng sống trong môi trường hiện đại cần hợp tác, trao đổi...
Thực trạng này thể hiện rõ trình độ dân trí còn thấp và đang trở thành rào cản rất
lớn trong việc nâng cao năng suất lao động, thu hẹp cơ hội chuyển đổi hoặc tìm
kiếm việc làm. Rộng hơn nữa, nó sẽ gây khó khăn trong việc chuyển giao khoa học
kỹ thuật, dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Về mặt xã hội, nguồn nhân lực với trình độ
thấp sẽ kéo theo tình trạng nghèo đói, bệnh tật và tiềm ẩn các nguy cơ về tệ nạn xã
hội.
 C/S bồi dưỡng, sử dụng nhân tài.
- Mục tiêu bồi dưỡng nhân tài về việc thay đổi việc khuyến khích học sinh giỏi
bằng chính sách tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển ĐH như hiện nay còn nhiều bất
cập:

21


 Có tình trạng tuyển chọn vào đội tuyển và luyện thi để đoạt giải một cách
không chính xác. Những năm gần đây học sinh có giải trong hội thi khoa
học kỹ thuật quốc gia và quốc tế cũng được ưu tiên xét tuyển, tuyển thẳng.
Thế nên cũng có chuyện học sinh đăng ký sản phẩm dự thi nhưng nhờ vả
người khác làm.
 Việc dự tuyển ĐH phải để các trường ĐH quyết định tuyển chọn theo các
tiêu chí phù hợp với đặc thù ngành nghề. Vì có những học sinh được tuyển
thẳng nhưng môn học mà học sinh đó có năng khiếu không phù hợp với lĩnh
vực đào tạo của ngành mà các em đó được tuyển thẳng.
- Có thể nói Việt Nam ta tuy có nhân tài nhưng vẫn còn thiếu trong nhiều lĩnh

vực. Điều rất đáng tiếc là tuy còn ít nhưng việc bồi dưỡng, sử dụng còn rất
nhiều hạn chế. Chính vì thế mà nhiều người tài Việt Nam vẫn chưa phát huy
được. Các doanh nghiệp ở Việt Nam đặc biệt là khối các Ngân hàng thương mại
cổ phần dù đã rất tích cực liên kết với các nhà trường để phát hiện những sinh
viên ưu tú, có thành tích học tập tôt. Tổ chức các buổi ngoại khóa cũng như
tham gia các hoạt động giao lưu hòng tìm kiếm nguồn nhân lực cho đơn vị
mình, tuy nhiên công việc này vẫn còn nhiều hạn chế, số lượng sinh viên được
tuyển dụng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Mục đích của các Doanh nghiệp này chủ yếu
vẫn là để quảng bá thương hiệu, quảng cáo giới thiệu. Doanh nghiệp mình đến
với công chúng trẻ. Trong cơ chế, quy trình đánh giá, tuyển chọn và sử dụng
cán bộ cũng còn những mặt yếu, chưa phát huy đầy đủ dân chủ, còn hạn chế về
tính khách quan, công khai, minh bạch. Hoàn toàn dùng thước đo “học hàm học
vị” để xác định nhân tài. Vì thế, không ít người tài đã không được phát hiện,
trọng dụng hoặc bố trí vào vị trí thích hợp. Chính sách đãi ngộ đối với nhân tài
trong điều kiện mới cũng chưa được nghiên cứu thực thi đầy đủ nên chưa phát
huy được tác dụng, chưa thu hút được nhiều người có tài
- Phát hiện ra nhân tài đã khó nhưng việc bồi dưỡng phát triển năng lực nhân tài
còn khó khăn hơn. Đặc biệt là nền giáo dục của Việt Nam ta vẫn chủ yếu nặng
nề về lý thuyết, ít có cơ hội cho sinh viên được thực hành lý thuyết và áp dụng
vào trong thực tế. Rất nhiều doanh nghiệp kêu ca rằng họ phải đào tạo lại các
sinh viên ngành công nghệ thì mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Điều đó
cho thấy có một khoảng cách rất lớn giữa đào tạo và nhu cầu thực tế. Một số
nhân tài giỏi dù được phát hiện nhưng chưa được bồi dưỡng đầy đủ về môi
trường làm việc công tác, không được huấn luyện và tạo điều kiện thích ứng với
những phát triển khoa học và công nghệ không được chăm lo đến đời sống vật
22


chất, lương bổng khiến cho bản thân họ không muốn gắn kết với doanh nghiệp
hiện tại gây chán nản và tìm kiếm các công việc mới tại các Doanh nghiệp

khác. Với các doanh nghiệp ở Việt Nam ta, chưa có những chính sách cụ thể để
phát huy hết khả năng của từng nhân lực và tài lực phù hợp với yêu cầu công
việc tại đơn vị mình, chưa kết hợp sâu sắc với nhà trường để xây dựng những
chuyên nghành học phù hợp, tránh tình trạng mất cân đối nhân lực ngành.
Phần III: Những kiến nghị để hoàn thiện chính sách GD_ĐT
- Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước vào giáo dục để hiện đại hóa có trọng
tâm, trọng điểm cho hệ thống đào tạo nhân lực, xây dựng kế hoạch phân bổ
ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các nhiệm vụ,
chương trình, dự án đào tạo nhân lực.
- Nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp, đặc biệt là đối với hệ trung cấp, cao
đẳng và đại học, tránh trường hợp sinh viên ra trường không có việc làm, làm
việc không đúng chuyên môn.
- Công tác quản lý nhà nước cần phải thống nhất, đồng bộ, đẩy mạnh công tác dự
báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế- xã hội.
- Các trường đào tạo nâng cao giảng dạy các ngành nghề có tiểm năng, dạy đúng
chuyên môn, đúng ngành nghề và tạo điều kiện cho học viên đi thực tập.
- Nâng cao chất lượng giáo dục ở đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục,
thường xuyên theo dõi, cập nhật thị trường lao động để đào tạo có hiệu quả.
- Đẩy mạnh phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại, phát huy khả năng sáng
tạo, tích cực chủ động của sinh viên.
- Các cơ sở đào tạo cũng nâng cao thể lực cho học sinh, sinh viên qua các giờ học
thể chất, ngoại khóa…
- Nâng cao trí tuệ của con người để áp dụng những thành tựu khoa học một cách
tiên tiến và nhạy bén.
23


- Bồi dưỡng và phát triển nhân tài để phát triển giáo dục. Phát hiện ra các nhân
tài từ cấp dưới để đào tạo theo cơ chế riêng, tạo điều kiện tốt nhất để phát triển
và đóng góp cho nguồn nhân lực Việt Nam.

 Đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng cao
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục dân tộc, nâng cao ý
thức tự học của mọi tầng lớp nhân dân. Triển khai và nâng cao các hoạt động
tuyên truyền, vận động đổi mới trong toàn xã hội về vai trò của giáo dục dân tộc
đối với công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao tri thức, nâng cao chất lượng
cuộc sống trong vùng đồng bào dân tộc, thúc đẩy sự phát triển bền vững.
- Rà soát các chính sách phát triển giáo dục dân tộc; điều chỉnh, bổ sung cho phù
hợp với yêu cầu thực tiễn. Rà soát lại các chính sách hiện hành, trên cơ sở đó đề
xuất, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ,
ngành liên quan sửa đổi, bổ sung, ban hành các chính sách phát triển giáo dục
và đào tạo vùng DTTS giai đoạn mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn,
chú ý đến những chính sách đặc thù cho giáo dục DTTS.
- Nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho đồng bào DTTS. ưu tiên giải quyết
đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm,
xuất khẩu lao động; thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng
DTTS quản lý để phát triển trồng, chăm sóc, bảo vệ và khai thác rừng hiệu quả;
hỗ trợ phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, kết nối thị trường tiêu thụ;
hỗ trợ đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới hồ chứa, công trình thủy lợi, hỗ trợ
khai hoang mở rộng diện tích đất sản xuất… để góp phần nâng cao chất lượng
đời sống đồng bào DTTS Tây Nguyên

24


- Có những chính sách hỗ trợ xóa nạn mù chữ cho dân tộc thiểu số, vùng cao,
vùng sâu, vùng xa. Khuyến khích các giảng viên lên vùng cao dạy chữ cho con
em thiểu số.
- Phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số, vùng núi, tạo điều kiện cho người dân
có công việc ổn định, tăng thêm thu nhập để có điều kiện cho con em đi học.
- Tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục

vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, miền núi.
KẾT LUẬN
Và đó là tất cả phần nghiên cứu cũng như đánh giá của nhóm 1 chúng em về đề tài
được giao.
Đầu tiên, bọn em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo phụ trách bộ môn Bùi
Thị Kim Thoa và thầy giáo Phạm Công Đoàn trong quá trình học tập, tìm hiểu bộ
môn và phân tích đề tài đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ chúng em rất nhiều.
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu và đánh giá tác động của
chính sách giáo dục và đào tạo trong thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị để hoàn thiện chính
sách.”, nhóm em xin được rút ra một vài nhận xét ngắn gọn.
Mặc dù Việt Nam đang có rất nhiều lợi thế về “lượng” nguồn nhân lực do đang ở
trong thời kỳ dân số vàng, tuy nhiên, về “chất” thì nguồn nhân lực Việt Nam hiện
nay vẫn còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu dề tàu trên đã giúp chúng em tích lũy được
thêm nhiều kiến thức hơn nữa và giúp chúng em có một cái nhìn sâu sắc và hoàn
thiện hơn về nguồn nhân lực xã hội Việt Nam trong thời điểm hiện tại. Rằng chúng
ta vẫn đang còn tồn tại rất nhiều vấn dề cần phải giải quyết ở khía cạnh nguồn nhân
lực. Với việc nguồn lực con người luôn là vấn đề quan trọng quyết định sức mạnh
của một đất nước đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng như cách mạng công
nghiệp 4.0 như hiện nay và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt thì đất
25


×