Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

hình tượng người phụ nữ mới trong một số tác phẩm tiêu biểu của tự lực văn đoàn và văn học hàn quốc thời nhật thuộc tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.16 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

-----------o0o----------

BANG JEONG YUN

H×NH T¦îNG NG¦êI PHô N÷ MíI
TRONG MéT Sè T¸C PHÈM TI£U BIÓU CñA Tù LùC
V¡N §OµN
Vµ V¡N HäC HµN QUèC THêI NHËT THUéC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2020


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN VĂN TOÀN
PGS.TS LÊ HẢI ANH

Phản biện 1: GS.TS TRẦN NHO THÌN
Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS HỎA DIỆU THÚY
Trường Đại học Hồng Đức
Phản biện 3: PGS.TS ĐẶNG THU THỦY
Trường Đai học Sư phạm Hà Nội



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường
họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào ….. giờ......, ngày…. tháng….. năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Việt Nam dưới thời đô hộ của thực dân Pháp và Hàn Quốc
trong những năm bị Nhật chiếm đóng có rất nhiều nét tương đồng về
bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội. Mặc dù chịu sự xâm chiếm và
đàn áp của thực dân, nhưng cả hai quốc gia đồng thời cũng tiếp thu
và chịu ảnh hưởng của văn hóa hiện đại, và vì thế người phụ nữ có
nhiều cơ hội mới để tham dự vào đời sống xã hội. Chịu ảnh hưởng
của văn hóa hiện đại, người phụ nữ đã có ý thức hơn về bản thân, có
khát khao bình đẳng, tự lập, muốn được giải phóng bản thân và
khẳng định mình. Tất cả những biến đổi trên đã khiến người phụ nữ
trở thành một trong những hình tượng nghệ thuật trung tâm trong các
sáng tác văn học của những tác giả tiêu biểu thời bấy giờ.
1.2. Việc tìm hiểu những sự tương đồng và khác biệt về hình
tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam và Hàn Quốc đầu thế kỷ
XX không chỉ giúp xác định những thuộc tính của nền văn học khu
vực trong một thời kỳ chia sẻ nhiều đặc điểm chung (chịu ảnh hưởng
của Nho giáo, bối cảnh thuộc địa, xu thế hiện đại hóa…), mà còn

giúp hiểu sâu sắc hơn những đặc trưng, cả thành tựu lẫn hạn chế,
trong văn học và văn hoá của hai quốc gia. Đây cũng là một xu thế
nghiên cứu văn học ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai.
1.3. Là nghiên cứu sinh người Hàn Quốc, tôi hiện đang làm
việc tại Đại sứ quán Hàn Quốc ở Việt Nam được 6 năm. Trong thời
gian đó (với công việc chính là đăng ký hộ tịch và quốc tịch cho các
gia đình đa văn hóa, đặc biệt là đăng ký kết hôn cũng như ly hôn cho
các cô dâu Việt ở Hàn Quốc) tôi nhận thấy có nhiều vấn đề tiêu cực
nảy sinh do sự thiếu hiểu biết về văn hóa, con người giữa hai quốc
gia. Vì thế, tôi có mong muốn làm rõ các đặc điểm văn hoá của
người phụ nữ Việt Nam và Hàn Quốc, hiểu hơn về tâm hồn và thói
quen sinh hoạt, ứng xử của người phụ nữ ở hai quốc gia, góp phần
giúp họ có điều kiện để hoà nhập tốt hơn với môi trường sống trên
đất nước mới của mình.
Đó là những lý do để chúng tôi thực hiện một nghiên cứu so


2

sánh về hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Tự Lực văn
đoàn và người phụ nữ trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc.
2. Mục đích nghiên cứu
- Thấy được quy luật của sự tiếp biến, cách tân văn học mỗi
dân tộc trước những ảnh hưởng từ phương Tây.
- Hiểu sâu hơn các đặc điểm văn học, văn hóa của hai quốc gia.
- Hiểu hơn về đặc điểm văn hoá của người phụ nữ Việt Nam
và Hàn Quốc, từ đó, góp phần thúc đẩy sự giao lưu, hoà nhập của
công dân hai nước, đặc biệt là với những người phụ nữ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi xác định là hình tượng các
nhân vật phụ nữ mới trong mốt số sáng tác tiêu biểu của Tự Lực văn
đoàn và trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc. Trong đó, thuật
ngữ “người phụ nữ mới” chủ yếu gắn với nội hàm là sự hình thành
một hệ chuẩn phụ nữ mới dưới những ảnh hưởng từ phương Tây với
hai nét nghĩa chính: chống lại lễ giáo (Nho giáo); có ý thức về cái tôi,
ý thức về quyền sống.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Tự Lực văn đoàn: tập trung khảo sát các tiểu thuyết Đoạn
tuyệt (1934), Nửa chừng xuân (1934), Lạnh Lùng (1935).
- Văn học Hàn Quốc: tập trung khảo sát các tác phẩm Mẹ và
con gái (1931), Đêm giao thừa (1931), Lễ tổ tiên trên núi (1938),
Chức nữ (1938) và Hoàng hôn đỏ rực (1939).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát những tác phẩm tiêu biểu về người phụ nữ trong Tự
Lực văn đoàn và trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc.
- Tiến hành so sánh để tìm ra những điểm tương đồng khác
biệt về hình tượng người phụ nữ trong Tự Lực văn đoàn và trong văn
học Hàn Quốc thời Nhật thuộc.
- Tìm hiểu những đặc điểm văn hoá – xã hội để lý giải cho
những khác biệt và tương đồng của hình tượng người phụ nữ trong


3

Tự Lực văn đoàn và trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp khảo sát thống kê.

- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp liên ngành.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án của chúng tôi là công trình đầu tiên đưa hai đối tượng
trên vào so sánh nhằm chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt, từ
đó giúp cho không chỉ nhìn nhận sâu hơn những thành tựu của từng
nhóm, từng nền văn học, mà còn cho phép khái quát đặc điểm sáng
tác văn học ở phạm vi khu vực trong một bối cảnh lịch sử cụ thể.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề.
- Chương 2: Bối cảnh xã hội - văn hoá cho sự xuất hiện hình
tượng người phụ nữ mới trong sáng tác của Tự Lực văn đoàn và
trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc.
- Chương 3: Hình tượng người phụ nữ mới trong sáng tác của
Tự Lực văn đoàn và trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc –
những tương đồng.
- Chương 4: Hình tượng người phụ nữ mới trong sáng tác của
Tự Lực văn đoàn và trong văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc –
những khác biệt.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Văn học so sánh và sự vận dụng đối với nền văn học
Việt Nam và Hàn Quốc đầu thế kỷ XX
Văn học so sánh đã xuất hiện từ lâu, từng bước phát triển và
đến ngày nay, nó được xác định là “một bộ môn khoa học nghiên cứu

mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc”. Đối tượng cơ bản của
văn học so sánh là các hiện tượng văn học thuộc các nền văn học
khác nhau của các dân tộc khác nhau. Hồ Á Mẫn xác định văn học so
sánh là một bộ môn có tính quốc tế: “Tinh thần cơ bản của nó là coi
văn học toàn thế giới là một chỉnh thể, đặt văn học các nước vào một
kết cấu chỉnh thể để nhận thức và so sánh (…) qua đó vạch ra và nắm
vững quy luật và mối liên hệ của văn học”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, văn học so sánh bao
gồm 3 bộ phận: (1) nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học có
ảnh hưởng lẫn nhau; (2) nghiên cứu sự tương đồng giữa các nền văn
học không có ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau (sự tương đồng do điều
kiện lịch sử quy định); (3) nghiên cứu sự khác biệt giữa các nền văn
học để chỉ ra tính đặc thù của văn học từng dân tộc. Các bình diện
được đưa vào so sánh gồm: thể loại, đề tài, tư tưởng, phong cách,
trào lưu, trường phái.
Nói tóm lại, văn học so sánh là một bộ môn khoa học nhằm
chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt giữa các hiện tượng văn
học thuộc các nền văn học khác nhau. Do đó, việc soi chiếu hai nền
văn học Việt Nam và Hàn Quốc hiện đại thời kỳ đầu thế kỷ XX, đặc
biệt là thông qua một mô típ chung là hình tượng người phụ nữ mới
dưới góc nhìn của lý thuyết văn học so sánh là phù hợp và hữu ích.
1.2. Lịch sử nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong
sáng tác của Tự Lực văn đoàn
1.2.1. Về nội dung tư tưởng
Phần đông các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao sáng tác của
Tự Lực văn đoàn trước hết là ở tính luận đề mạnh mẽ thông qua hình


5


tượng người phụ nữ: “Đó là lời kết án gay gắt ném vào lễ giáo, đạo
đức, tập quán gia đình phong kiến, nêu cao khẩu hiệu giải phóng phụ
nữ, giải phóng cá nhân”. Trương Chính từ năm 1935 đã sớm chỉ ra
cái ý đồ ngầm ẩn đằng sau câu chuyện ái tình, hôn nhân ở Đoạn
tuyệt: “Chủ ý của ông Nhất Linh viết Đoạn tuyệt là làm cho người
đọc yêu mới và ghét cũ. Nếu đọc xong Đoạn tuyệt mà ta ghét cũ, yêu
mới, rồi tìm cách để bỏ cũ và theo mới là tác giả nó đã thành công”.
Các tác giả Trần Đăng Suyền, Lê Quang Hưng cho rằng tính luận đề
này còn xuyên suốt và chi phối cả nội dung sáng tác: “Nét riêng tiểu
thuyết tình yêu của Tự Lực văn đoàn là ở chỗ, đó không phải là
những truyện tình thuần túy, không chỉ nói về tình yêu với những
quy luật tình cảm riêng của nó, với những niềm vui, hạnh phúc và
khổ đau mà nó đem lại cho các cặp tình nhân. Khái Hưng, Nhất
Linh, Hoàng Đạo bao giờ cũng có ý thức lồng vào trong các câu
chuyện tình của mình một ý tưởng cải cách xã hội nào đó”.
Đề cập đến vấn đề người phụ nữ, không thể không nhắc tới
hình tượng các nhân vật nữ trong sáng tác của Tự Lực văn đoàn. Thế
giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn là một kiểu nhân
vật riêng mà các nhà nghiên cứu gọi bằng cái tên “gái mới”. Các tác
giả Trần Đăng Suyền, Lê Quang Hưng nhận định: “Đó là những nhân
vật được gọi là thanh niên tân thời (nam), là gái mới (nữ), thương
mang một cái tên chung là “chàng” và “nàng”. (...) Những con người
này chịu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa, văn minh và lối sống sinh
hoạt của phương Tây hiện đại. Họ chống lễ giáo phong kiến, đấu
tranh cho chủ nghĩa cá nhân, cho tình yêu và hôn nhân tự do, cổ vũ
cho phong trào Âu hóa từ tư tưởng văn chương nghệ thuật đến y
phục và cách hưởng thụ đời sống vật chất”.
1.2.2. Về nghệ thuật biểu hiện
Giá trị nghệ thuật được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và
chỉ ra, trong đó liên quan trực tiếp đến các nhân vật nữ ở hai khía

cạnh: vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp nội tâm.
Về ngoại hình, Trịnh Hồ Khoa nhấn mạnh đến ý thức miêu
tả ngoại hình nhân vật: “Bắt đầu từ Tự Lực văn đoàn, vẻ đẹp thể


6

chất mới được xem là tiêu chuẩn để đánh giá con người hoàn
chỉnh. Điều này thể hiện một quan điểm thẩm mỹ mới có tính thời
đại (...)”. Lê Thị Dục Tú cũng cùng quan điểm: “Các nhân vật
hiện ra dần dần mang đến cho người đọc sự thưởng thức từ từ ở
những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức”. Về nội
tâm, Trương Chính cho rằng: “Đoạn tuyệt không chỉ có một giá trị
xã hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được. Ông
Nhất Linh đã dùng một cách quan sát rất tinh vi để tả những trạng
thái phiền phức trong tâm hồn riêng của nhân vật trong truyện và
để đi sâu vào đời bên trong của họ”.
1.3. Lịch sử nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong
văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc
1.3.1. Về nội dung tư tưởng
Các tác phẩm nhìn chung đều được đánh giá cao ở ý nghĩa
giải phóng người phụ nữ. Kim Mi Huyn đã nhận định về tác phẩm
Mẹ và con gái như sau: "Mẹ và con gái của Kang Kyung Ae đã
được ra đời vào tháng 8 năm 1931 do biên tập viên tạp chí Hye
Sung tiến cử, nên có thể gọi là tác phẩm đầu tiên của tác giả. Thông
qua tác phẩm, tác giả cố gắng tìm ra cách giải quyết tình trạng bị áp
bức của người phụ nữ lúc bấy giờ trong những mối quan hệ khác
nhau. Vì vậy mà mối quan hệ của nhân vật chính luôn tập trung vào
vấn đề phụ nữ". Đánh giá tác phẩm Đêm giao thừa, Kim Min Jeong
cho rằng: “Tác phẩm làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ với khát

khao được tận hưởng tình yêu tự do, được làm một "chủ thể" độc
lập. Vì thế, Choi Jung-in trở thành "một người phụ nữ có khát vọng
được thực hiện quyền tự quyết của mình". Yoon Byung Lo cũng có
nhận định tương tự về Chức nữ: “Xây dựng nhân vật Lee In Sook là
tác giả đã lấy hình ảnh người vợ của mình để làm mẫu, nhân vật nữ
chính có bước chuyển từ một người phụ nữ truyền thống thành một
con người mới. Cô muốn thoát khỏi những giá trị cổ hủ, truyền
thống và muốn tìm kiếm hạnh phúc, giá trị thực sự trong cuộc sống
thông qua việc giúp đỡ người khác”.
1.3.2. Về nghệ thuật biểu hiện


7

Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc chỉ ra những đổi mới nghệ
thuật trong các sáng tác của các nhà văn Hàn Quốc. Hong Ki Sam
đánh giá cao tài năng miêu tả tâm lý người phụ nữ của Choi Jung
Hee: “Tiểu thuyết của Choi Jung Hee miêu tả rõ nét tâm lý của người
phụ nữ, khác với tình trạng miêu tả nghèo nàn trong văn học những
năm 1930, đặc biệt là miêu tả rõ về sự mâu thuẫn giữa bản năng và lý
trí”. Về tác phẩm Đêm giao thừa, Kim Yun Sik nhận định: “Nghệ
thuật xây dựng nhân vật khác biệt hoàn toàn so với các tác phẩm
cùng thời tạo nên sự độc đáo của tác phẩm, không lẫn vào đâu được.
(...) Ngoài ra cũng cần lưu ý đến cách kể chuyện, hình thức kể
chuyện bằng cách viết thư kể lại cuộc đời mình. Nó có thể mang tính
chủ quan của tác giả, nhưng lại giúp thể thể hiện trọn vẹn những gì
mà tác giả muốn gửi gắm vào nhân vật”.
1.4. Tiểu kết và định hướng của luận án
Lịch sử nghiên cứu trên đây ở cả Việt Nam và Hàn Quốc cho
thấy những sôi động, những đối thoại, và cả những khác biệt, mâu

thuẫn trong các công trình nghiên cứu về người phụ nữ trong các
sáng tác văn học đầu thế kỷ XX ở hai quốc gia. Ở Việt Nam cũng
như ở Hàn Quốc, các nhà nghiên cứu đều chỉ ra và đánh giá cao việc
các sáng tác văn học thời kỳ này đã xây dựng thành công hình ảnh
người “phụ nữ mới”, đưa người “phụ nữ mới” này trở thành một
hình tượng văn học nổi bật đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, từ góc độ văn
học so sánh, có thể thấy chưa có bất kỳ công trình nào đưa hai đối
tượng trên vào so sánh một cách kỹ lưỡng và toàn diện. Các công
trình trên đây một mặt khai thác rất sâu các đặc điểm, thành tựu của
từng nền văn học, nhưng mặt khác, lại vô hình trung không thấy
được những đặc điểm đó ở phạm vi rộng lớn hơn, vượt ra khỏi giới
hạn của biên giới quốc gia.
Đặt vấn đề so sánh hình tượng người phụ nữ trong các sáng
tác của Tự Lực văn đoàn ở Việt Nam và của các nhà văn Hàn Quốc
thời Nhật thuộc, chúng tôi một mặt tiếp tục đi sâu hơn vào những đặc
điểm đã được giới nghiên cứu ở hai nước trước đây chỉ ra, đồng thời
khắc phục điểm hạn chế trên đây của những nhà nghiên cứu đi trước.


8

Sự tương đồng trên nhiều mặt của hai quốc gia, hai nền văn học giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, từ bối cảnh xã hội, bối cảnh văn học, đến
các trào lưu tư tưởng, trào lưu văn hóa, văn học, sự chuyển mình của
đội ngũ sáng tác, hệ công chúng, cùng sự tương đồng về đề tài, chủ
đề, hình tượng nghệ thuật (trong trường hợp này là hình tượng người
phụ nữ mới) là cơ sơ để chúng tôi triển khai luận án. Một cái nhìn
đối sánh giữa hai quốc gia (đây cũng là cơ sở cho phép các công
trình sau mở rộng phạm vi với nhiều quốc gia, nhiều khu vực vừa nói
trên) không chỉ giúp chúng ta nhận diện và khái quát những điểm

tương đồng, mà còn thúc đẩy việc phát hiện những nét riêng biệt, độc
đáo ở từng quốc gia, từng tác giả văn học qua vấn đề người phụ nữ.

CHƯƠNG 2
BỐI CẢNH XÃ HỘI – VĂN HOÁ CHO SỰ XUẤT HIỆN
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CÁC SÁNG TÁC
CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ VĂN HỌC HÀN QUỐC
THỜI NHẬT THUỘC
2.1. Quan niệm truyền thống về người phụ nữ phong kiến
2.1.1. Người phụ nữ trong xã hội Việt Nam thời phong kiến
Từ thế kỷ XV, Nho giáo ở Việt Nam, đặc biệt là Tống nho đã
chiếm vị trí độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống. Vì thế những
luân lý trói buộc của Khổng giáo đối với người phụ nữ trở nên nặng
nề hơn rất nhiều. Tuy không đến mức theo đúng với đạo tam tòng,
nhưng trong gia đình người phụ nữ vẫn ở thế yếu so với đàn ông.
Trong khi người đàn ông được hưởng nhiều quyền lợi về xã
hội và giáo dục (đi học, đi thi, làm quan), thì người phụ nữ hoàn toàn
không có những cơ hội đó, thậm chí họ bị cấm đoán. Người phụ nữ
bị gắn chặt trong không gian gia đình, bị ràng buộc bởi các trách
nhiệm với nhà chồng và bị lệ thuộc vào chồng con, hôn nhân thì
thường do sự sắp đặt của cha mẹ. Từ năm 1470, nhà Lê đã ban hành
24 điều giáo huấn nhằm củng cố lễ giáo, đưa tam tòng và tứ đức trở


9

thành những chuẩn mực về đạo đức đối với người phụ nữ. Điều đó cho
thấy quan niệm nghiệt ngã của Nho giáo về vấn đề trinh tiết phụ nữ, sự
bất công, áp đặt một cách hà khắc của Nho giáo đối với phụ nữ.
2.1.2. Người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc thời phong kiến

Trong thời đại Joseon (1392-1910), Nho giáo chính thức trở
thành hệ tư tưởng độc tôn với những quy tắc “nghiêm ngặt và cứng
nhắc, siết chặt tam cương, ngũ thường”.
Người phụ nữ Hàn Quốc truyền thống cũng bị trói buộc trong
những giáo điều luân lý khắt khe và phi nhân đạo: “Không có trường
dạy tiếng bản địa cho phụ nữ, và mặc dù phụ nữ ở tầng lớp trên được
học chữ viết dân tộc, nhưng ước tính trong 1000 người chỉ có 2 phụ
nữ Hàn Quốc biết đọc. Một nền triết học du nhập từ Trung Quốc,
những quan niệm mê tín, nền giáo dục cho nam giới, nạn mù chữ,
lượng quyền lợi tối thiểu, và những tập quán cứng nhắc, đã liên kết
với nhau để đẩy người phụ nữ Hàn Quốc vào một địa vị thấp kém
nhất trong những dân tộc lạc hậu trên thế giới”.
Như vậy, Nho giáo đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến xã
hội Việt Nam và Hàn Quốc cuối thế kỷ XIX, ở đó người phụ nữ hầu
như không có địa vị, không có tiếng nói, họ bị biến thành nạn nhân
của những lề lối, những tập tục bảo thủ, nghiệt ngã của lễ giáo phong
kiến đang ràng buộc lấy họ trong phạm vi gia đình và trong những
khuôn khổ đạo đức phi nhân bản.
2.2. Phương Tây và sự hình thành quan niệm mới về người
phụ nữ
2.2.1. Công cuộc hiện đại hóa xã hội Việt Nam
2.2.1.1. Sự hình thành các đô thị mới và tầng lớp thị dân
Nhằm đáp ứng các nhu cầu chính trị, văn hóa, và đặc biệt là về
kinh tế, chính quyền thực dân đã tiến hành hàng loạt các chính sách
nhằm xây dựng và phát triển các thành phố lớn trên cả nước, trong số
các thành thị đó, chiếm số lượng đông đảo và có ý nghĩa đáng kể đến
bộ mặt đô thị Việt Nam là tầng lớp tiểu tư sản, gồm: công chức, tiểu
thương, trí thức và học sinh, sinh viên. Các đô thị mới này dưới ảnh
hưởng của phương Tây đã mang trong nó màu sắc mới, điều này đã



10

làm đời sống đô thị trở nên năng động và có khả năng hấp thụ cái
mới hơn rất nhiều.
2.2.1.2. Sự xuất hiện các trường Tây học kiểu mới và chính
sách giáo dục dành cho phụ nữ
Đến đầu thế kỷ XX nền giáo dục Nho học về cơ bản bị thay thế
hoàn toàn bởi nền giáo dục và hệ thống các trường Tây học kiểu mới.
Về chương trình học, việc dạy chữ Nho cũng như các nội dung Hán
học bị giới hạn và bị kiểm soát chặt chẽ, thay vào đó tiếng Pháp và các
môn học mới (như toán, lý, hóa, sinh lý, lịch sử, luân lý,...) được dạy
học rộng rãi. Nội dung học tập cũng ngày càng mở rộng với các kiến
thức hiện đại phương Tây. Nói cách khác, nền giáo dục không ngừng
được cải cách theo hướng hiện đại hóa, Âu hóa. Đối với giáo dục phụ
nữ, đã có các trường học chuyên biệt dành cho nữ giới.
2.2.1.3. Sự nở rộ của báo chí và các hoạt động xuất bản
truyền bá văn hóa mới
Báo chí thời kỳ này đã có đóng góp hai vai trò to lớn: truyền
bá văn hóa tư tưởng Âu Tây vào Việt Nam; đả phá các thói tệ hủ lậu,
bảo thủ của nền Nho giáo phong kiến và của làng xã chốn thôn quê.
Sự lớn mạnh của báo chí nói chung và báo chí phụ nữ nói riêng đã có
nhiều tác động quan trọng đến nhận thức về người phụ nữ. Các nhà
báo, nhà văn nói trên, trong khi truyền bá tư tưởng Âu Tây và đả phá
lễ giáo phong kiến, một cách hết sức tự nhiên và tất yếu, họ lên tiếng
bênh vực cho quyền lợi người phụ nữ.
2.2.1.4. Sự ảnh hưởng từ các tư tưởng mới của phương Tây về
con người nói chung và về người phụ nữ nói riêng
Gồm 2 trào lưu lớn: sự du nhập, truyền bá tư tưởng khai phóng
về con người và xã hội và trào lưu nữ quyền ở phương Tây. Các

phong trào này nhanh chóng lan sang Việt Nam và đem đến một
quan niệm mới vẻ về người phụ nữ.
2.2.2. Công cuộc hiện đại hóa xã hội Hàn Quốc
2.2.2.1. Phương Tây và vai trò của Nhật Bản trong việc hiện
đại hóa xã hội Hàn Quốc
Nhật Bản đã chính thức thuộc địa hoá bán đảo Hàn vào năm
1910, nhưng từ trước đó, Nhật Bản đã áp dụng một loạt biện pháp để


11

bước đầu cải cách bán đảo Hàn truyền thống về cả kinh tế và xã hội.
Điều đó đã góp phần thúc đẩy quan niệm về con người có những sự
thay đổi và phát triển, đặc biệt là quan niệm về người phụ nữ vốn có
địa vị xã hội thấp lúc bấy giờ.
2.2.2.2. Đô thị và sự tiếp nhận phương Tây hiện đại
Quá trình đô thị hóa cùng với sự ảnh hưởng của Nhật Bản và
phương Tây đã mở ra một đời sống với những trải nghiệm mới cho
người phụ nữ, như việc đi xem chiếu phim, đi cafe, dạo bước trên
những phố xá nhộn nhịp, hay đến các hiệu mua sắm. Đời sống đô thị
đã tạo nên hình ảnh mới về người phụ nữ khác xa với chính họ trong
những dáng vẻ và trang phục truyền thống.
2.2.2.3. Nền giáo dục mới dành cho phụ nữ
Cần phải nói rằng, giáo dục Hàn Quốc thời kỳ này có những
thay đổi rất đáng kể. Mặc dù vẫn bị hạn chế hơn rất nhiều so với nam
giới, nhưng phụ nữ Hàn Quốc bắt đầu được hưởng nền giáo dục mới
mẻ và tương đối rộng rãi trong thời kỳ thực dân Nhật cai trị. Có thể
nói, nền giáo dục mới mang tính hiện đại hóa và phổ thông mà chính
quyền Nhật Bản áp dụng ở Hàn Quốc đã đem đến những đổi thay
tích cực, trong đó có sự ra đời một bộ phận phụ nữ ngày một đông

đảo được gọi là “phụ nữ tân thời”, “gái mới” (new women).
2.2.2.4. Sự ra đời của “sin yosong” trên báo chí và ý thức mới
về người phụ nữ
Từ đầu thế kỷ XX, người phụ nữ Hàn Quốc hiện diện dưới
một tên gọi mới: “phụ nữ tân thời”.
Sin yosong, dịch sang tiếng Việt nghĩa là “người phụ nữ mới”,
nhưng, một cách phổ biến hơn trong báo chí và văn học Việt Nam
đầu thế kỷ XX, là tên gọi “phụ nữ tân thời”, hay “gái mới”. Điểm
chung của nhóm “phụ nữ tân thời” này là họ đều có học vấn (còn
được gọi là các nữ sinh – yohaksaeng), đôi khi còn để chỉ nhóm phụ
nữ tinh hoa có các hoạt động văn chương, giáo dục, báo chí hay
chính trị,... Năm 1924, có một định nghĩa về người phụ nữ mới như
sau: “Người phụ nữ mới có hiểu biết và nhận thức được về quyền
bình đẳng, và khác với người phụ nữ truyền thống, họ quyết tâm thực
hiện những ước mơ của mình”.


12

2.2.2.5. Vấn đề gia đình và hiện tượng ly hôn ngày một phổ biến
Trong những năm 1920 và 1930, gia đình kiểu phong kiến bắt
đầu bị phá vỡ và mang những nét mới của gia đình hiện đại. Tư
tưởng phản đối các quan niệm Nho giáo truyền thống đã mang lại
những vấn đề mới của gia đình như vấn đề ly thân, độc thân, ly hôn –
điều vốn không thể có và không được phép trong xã hội phong kiến.
2.3. Nền văn học được hiện đại hóa và vấn đề phụ nữ
2.3.1. Hiện đại hóa văn học và quan niệm của Tự Lực văn
đoàn về vấn đề phụ nữ
Với tất cả các yếu tố đã phân tích trên trong bối cảnh xã hội
Việt Nam đầu thế kỷ XX, nền văn học Việt Nam bước vào quá trình

hiện đại hóa. Tự Lực văn đoàn với tư cách một nhóm văn học tuyên bố
thành lập năm 1933 với 7 thành viên ban đầu, lấy báo Phong hóa là cơ
quan ngôn luận. Điểm đáng chú ý của Tự Lực văn đoàn, là bên cạnh là
một tổ chức văn học, đây còn là một tổ chức văn hóa xã hội, các tác
giả thông qua sáng tác văn học là một cách thức lên tiếng nhằm cải tạo
xã hội, trong đó có vấn đề con người cá nhân và người phụ nữ.
2.3.2. Hiện đại hóa văn học và cuộc đấu tranh giải phóng
phụ nữ của các nhà văn Hàn Quốc thời Nhật thuộc
Từ thập niên 1920, với sự phát triển các hoạt động văn hóa do
trí thức Hàn Quốc thực hiện nhằm cải cách xã hội Hàn Quốc, các tạp
chí văn học, kéo theo đó là các nhà văn và các nhóm văn học ra đời.
Dưới chính sách Văn hóa mới, các nhà văn Hàn Quốc gần như ngay
lập tức thúc đẩy các hoạt động văn chương nhằm cải cách nền văn học
truyền thống. Cùng nằm trong quá trình hiện đại hóa đất nước Hàn
Quốc, nền văn học mới có những đổi thay tích cực dưới những ảnh
hưởng của văn hóa, văn học phương Tây trong sự đối lập với văn học
thời phong kiến. Kim Dongin, một nhà văn nổi bật đầu thế kỷ XX cho
rằng: “Cách đơn giản nhất là học theo phong cách phương Tây”.
Bước sang thế kỷ XX, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng
sáng tác văn học là các nhà văn nữ trở nên đông đảo và mạnh mẽ hơn
một cách nhanh chóng. Thay vì tham gia trực tiếp vào phong trào giải
phóng dân tộc (mà trước đó vẫn bị xã hội, thậm chí là cả các nhà yêu
nước nam giới, khinh thường, đánh giá thấp), họ tập trung vào giải


13

phóng phụ nữ, cải cách các tập quán truyền thống áp đặt người phụ nữ
vào vị trí thứ yếu. Lợi dụng các chính sách văn hóa mới của chính
quyền thực dân, người phụ nữ biến ngòi bút của mình thành vũ khí.

2.4. Một số điểm tương đồng và khác biệt trong xã hội Việt
Nam và Hàn Quốc đầu thế kỷ XX
2.4.1. Các điểm tương đồng
- Chịu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa Trung Hoa.
- Tình trạng thuộc địa và vấn đề đấu tranh giành độc lập, ý thức
giữ gìn bản sắc dân tộc trở thành nhu cầu bức thiết và rộng khắp.
- Tiếp thu tư tưởng mới phương Tây và hiện đại hóa trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội dẫn đến sự ra đời của nền văn học mới,
và một quan niệm mới về người phụ nữ. Vấn đề phụ nữ trở thành
trọng tâm trong đời sống xã hội thời kỳ này.
2.4.2. Các điểm khác biệt
- Tương quan về lịch sử, văn hóa giữa chủ thể thực dân và chủ
thể thuộc địa ở Việt Nam và Hàn Quốc là khác nhau (Pháp-Việt,
Nhật-Hàn), kéo theo các chính sách văn hóa khác nhau.
-Về lực lượng sáng tác, ở Hàn Quốc có một lực lượng tác giả
nữ tương đối mạnh mẽ. Họ có sáng tác văn học, có tham gia vào các
hoạt động chính trị, xã hội cũng như các hoạt động thúc đẩy nữ
quyền ở Hàn Quốc. Văn học Việt Nam hầu như không có nhà văn
nữ, ngoại trừ một số ít nhà báo, nhà hoạt động xã hội và nhà thơ nữ.
Riêng với nhóm Tự Lực văn đoàn, tất cả những nhà văn viết về phụ
nữ đều là nam giới.
CHƯƠNG 3
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CÁC SÁNG TÁC
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRONG VĂN HỌC HÀN QUỐC
THỜI NHẬT THUỘC - NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG
3.1. Người phụ nữ “mới” – nạn nhân của nền luân lý cũ và
chế độ gia trưởng
3.1.1. Không được quyền tự chủ trong tình yêu và bị cưỡng
ép hôn nhân
Tất cả các nhân vật trong các truyện được lựa chọn của luận



14

văn này đều theo cách này hay cách khác bị cưỡng ép vào một cuộc
hôn nhân mà họ không mong muốn, phải lấy một người chồng họ
không yêu, thậm chí là không biết mặt. Loan (Đoạn tuyệt), Nhung
(Lạnh lùng), Mai (Nửa chừng xuân), Zzocan (Lễ tổ tiên trên núi), In
Sook (Chức nữ), hai mẹ con Yepun và Yoki (Mẹ và con gái), Choi
Jung In (Đêm giao thừa), Sun Hee (Hoàng hôn đỏ rực) đều như vậy.
Tất cả họ đều là hay đã từng là những cô gái trẻ, đều có ước
mơ về hạnh phúc gia đình (Mai, Yoki, Choi Jung In), có những ao
ước về một người chồng lý tưởng (Zzocan), hay thậm chí là đang
dành tình cảm cho một người con trai nào đó (Loan, Sun Hee),
nhưng rốt cuộc họ không thể đến với người mình yêu, không thể
hành động theo những dự định mà họ mơ ước. Sau những xô đẩy của
cuộc đời, những ép buộc của bố mẹ, họ buộc phải từ bỏ tình cảm thật
của mình và chấp nhận một cuộc hôn nhân đã được sắp đặt.
3.1.2. Bị chồng và gia đình chồng đối xử tệ bạc
Người phụ nữ thường phải chịu sự đối xử khắc nghiệt, bất
công từ phía nhà chồng. Điều này xuất phát từ tình trạng bất bình
đẳng giữa nhà chồng và nàng dâu, ở đó người phụ nữ không có
quyền lên tiếng để tự bảo vệ mình, tự bênh vực cho quyền lợi và
nhân cách của mình. Trong mối quan hệ nàng dâu – nhà chồng, các
nhà văn hiện đại Việt Nam và Hàn Quốc tiếp tục khai thác sự bất
bình đẳng này, đặt ra vấn đề mang tính xã hội khi xây dựng mô hình
phổ biến: nhà chồng, đặc biệt là người chồng và bà mẹ chồng, là đại
diện cho những tư tưởng lễ giáo nghiệt ngã, còn người phụ nữ (trong
vai nàng dâu) là đại diện cho những tư tưởng mới, cho khát vọng đổi
mới, tự do và tiến bộ.

Trong các xã hội Á Đông như Việt Nam và Hàn Quốc, cho đến
đầu thế kỷ XX, người phụ nữ vẫn chịu tình trạng bất bình đẳng rất
nặng nề trong không gian gia đình. Trong quan hệ với chồng và với
nhà chồng, những người phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của lễ giáo
phong kiến khi mà nhà chồng luôn áp đặt lên họ những lối sống quá
ư khắc nghiệt, vô nhân tính. Nhờ cơ hội được học tập, tiếp xúc với


15

những tư tưởng hết sức mới mẻ, trái ngược với các quan điểm lễ giáo
truyền thống, mà họ vẫn luôn mơ ước, khát vọng sống tự do, có ý
thức về quyền sống và quyền hạnh phúc của mình. Xã hội bắt họ
phục tùng trong khi tâm trí họ muốn thoát ly, thay đổi. Càng ý thức
được về cuộc sống cá nhân, họ càng vùng vẫy muốn thoát ra. Và
chính điều này gây nên bi kịch cuộc đời cho tất thảy các cô gái mới.
3.2. Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ mới
3.2.1. Nét đẹp truyền thống ở người phụ nữ mới
Khát khao được yêu, khát khao hạnh phúc là một điểm mới
trong tư tưởng tiến bộ của người phụ nữ trong văn học đầu thế kỷ
XX, nhưng ngay cả như thế thì họ vẫn nổi bật với lựa chọn dũng cảm
là hy sinh hạnh phúc của bản thân để gây dựng hạnh phúc cho người
thân. Sự hy sinh này đã được không ít nhà nghiên cứu đặt ra với
những quan niệm trái ngược nhau, hoặc xem đó là một vẻ đẹp phẩm
chất ở người phụ nữ, hoặc coi đó là sự đầu hàng trước lễ giáo phong
kiến (đồng thời với đó là phê phán các nhà văn đã giải quyết không
triệt để tinh thần chống lễ giáo mà họ đề ra). Chúng tôi cho rằng, cần
thấy được tính chất hai mặt của đặc điểm này. Một mặt, sự hy sinh
của người phụ nữ được các nhà văn sử dụng nhằm biểu hiện một nét
đặc trưng thuộc về khía cạnh nữ tính được kết tinh qua truyền thống

lâu đời của người phụ nữ Á Đông. Hy sinh được xem là một bản
dạng nữ tính, một bản sắc riêng có ở người phụ nữ. Nhưng mặt khác,
nó cũng cho thấy những giằng co giữa hai lực lượng cũ và mới, giữa
quan niệm lễ giáo lạc hậu và tinh thần hiện đại cởi mở, mà ở đó là
câu hỏi dai dẳng về sự lựa chọn của người phụ nữ, quy thuận hay
phản kháng, chấp nhận hy sinh trong vòng cương tỏa của những
quan niệm lễ giáo hay hành động theo tiếng gọi của con tim. Nhưng
dù câu trả lời là gì thì sự hy sinh của các nhân vật nữ trên đều đáng
được trân trọng, ngợi ca.
3.2.2. Người phụ nữ với những tư tưởng tiến bộ của thời đại
Tư tưởng tiến bộ, hiện đại của người phụ nữ đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam và Hàn Quốc có thể nói không thể xuất hiện nội sinh trong


16

môi trường phong kiến Nho giáo, mà chỉ khi có sự xuất hiện của
những yếu tố mới (xem chương 2 luận án này) mới tạo nên nhận thức
mới về người phụ nữ. Trong đó đáng kể hơn cả và có tính quyết định
là yếu tố môi trường giáo dục và học vấn. Có thể thấy, hầu hết các
nhân vật “gái mới” đều là các cô nữ sinh, được đi học trên ghế nhà
trường Tây học và chịu ảnh hưởng từ nền giáo dục phương Tây.
Chính từ đây, các tư tưởng mới về quyền sống, về cá nhân, tình yêu
và hôn nhân đã được truyền bá, lan tỏa.
Người phụ nữ đã có ý thức sâu sắc về quyền cá nhân: quyền
được tự do và tự quyết định hạnh phúc. Ý thức mình là một cá nhân
có đầy đủ quyền sống của một con người, quyền được tự do và mưu
cầu hạnh phúc, người phụ nữ đã cất lên tiếng nói đòi được sống cho
mình, vì mình, đòi quyền tự do hành động, tự quyết định cuộc sống,
số phận của mình.

Từ ý thức cao độ về quyền sống, người phụ nữ đã có tinh thần
phản kháng lại những lề thói luân lý để bảo vệ tình yêu, bảo vệ
quyền sống và hạnh phúc cá nhân. Tinh thần phản kháng là rõ rệt,
thậm chí có những hành động cực đoan, nông nổi, nhưng tất cả đều
cho thấy thái độ không chấp nhận thực tại trói buộc của người phụ
nữ. Nhìn chung ở các nhân vật này đều diễn ra một quá trình thay đổi
về nhận thức và hành động, từ sự chịu đựng để có được hạnh phúc
nhưng bình lặng một cách giả tạo, đến những hành động đấu tranh
quyết liệt để tự giành lấy hạnh phúc cho chính mình.
3.3. Một vài điểm tương đồng trên phương diện nghệ thuật
3.3.1. Miêu tả trực quan ngoại hình nhân vật
Đề cập đến các nhân vật nữ trong sáng tác của Tự Lực văn
đoàn và của các nhà văn Hàn Quốc thời Nhật thuộc, có một điểm
chung, như đã nói, họ đều là những cô gái mới, và trong quan điểm
sáng tác của các nhà văn, họ là đại diện cho những tư tưởng tiến bộ,
hợp thời, là biểu tượng cho tinh thần chống lễ giáo phong kiến lỗi
thời. Vì lý do đó mà các nhân vật nữ này có một điểm chung: họ là
những cô gái đẹp. Vẻ đẹp của họ là hiện thân cho lý tưởng, cho khát


17

vọng hạnh phúc, cho sự trẻ trung và tươi mới, đối lập với chế độ cũ
già nua, kệch cỡm. Nói cách khác, sự hấp dẫn trong tư tưởng mới
của họ trước hết đến từ sự hấp dẫn ở hình thức, ở sắc đẹp ngoại hình.
3.3.2. Độc thoại nội tâm và sự đi sâu miêu tả tâm lý nhân vật
Đến Tự Lực văn đoàn ở Việt Nam và các nhà văn sáng tác
trong khoảng thập niên 30 ở Hàn Quốc, văn học đã chuyển mình
mạnh mẽ với những miêu tả hết sức sâu sắc, chi tiết đời sống nội tâm
nhân vật. Tâm trạng nhân vật dường như được phơi bày hoàn toàn

trước mắt người đọc. Và quan trọng hơn, thế giới nội tâm đó giờ đây
được ngoại hiện hóa qua một hình thức rất mới, đó là độc thoại nội
tâm. Độc thoại nội tâm, tức là nhân vật đối diện với chính mình để
bộc lộ cảm xúc, để suy nghĩ, thậm chí là để đối thoại với chính mình.
Nó là hình thức phản ánh chân thực nhất tâm hồn con người. Việc
khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật và vận dụng ở một tần suất cao
thủ pháp độc thoại nội tâm trong các sáng tác của Tự Lực văn đoàn
và của các nhà văn Hàn Quốc thời Nhật thuộc đã đem lại hiệu quả
lớn trong việc khắc họa hình tượng người phụ nữ.


18

CHƯƠNG 4
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG SÁNG TÁC
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRONG VĂN HỌC HÀN QUỐC
THỜI NHẬT THUỘC - NHỮNG KHÁC BIỆT
4.1. Bi kịch bị áp bức của người phụ nữ và những vấn đề
của xã hội Việt Nam, Hàn Quốc đầu thế kỷ XX
Mặc dù bi kịch chung của những nhân vật phụ nữ mới đều là
bị ép buộc kết hôn ngoài ý muốn và bị gia đình nhà chồng đối xử tệ
bạc, nhưng ở Việt Nam, nó gắn liền với quan niệm về môn đăng hộ
đối, còn ở Hàn Quốc, người phụ nữ trở thành nạn nhân của cưỡng ép
hôn nhân là do sự bất bình đẳng về địa vị kinh tế. Hai điểm này có vẻ
như đối ngược nhau: trong các sáng tác của Tự Lực văn đoàn, hôn
nhân được xem là hợp thức theo quan niệm lễ giáo là khi có sự tương
xứng về địa vị, về kinh tế, về giá trị, thì ở Hàn Quốc, hôn nhân lại là
kết quả từ sự bất bình đẳng, là cơ hội để những gia đình nghèo nàn,
địa vị thấp có thể thoát khỏi cái đói, duy trì công việc bằng cách để
con gái đi làm dâu cho nhà chồng.

Các nhà văn Tự Lực văn đoàn chủ yếu khai thác những nhân
vật thuộc tầng lớp trung lưu thị dân nhằm phản ánh những quan niệm
lễ giáo khắc nghiệt còn duy trì ở tầng lớp này, thì các nhà văn Hàn
Quốc lại hướng đến phản ánh tình trạng bất công của những người
phụ nữ dưới đáy xã hội, nơi mà người phụ nữ trở thành những nạn
nhân của sự bất bình đẳng.
4.2. Các xung đột và tư tưởng nghệ thuật được biểu hiện
qua hình tượng người phụ nữ
4.2.1. Các xung đột và việc xây dựng hệ thống nhân vật
Trong các sáng tác của Tự Lực văn đoàn, mối xung đột nổi bật
nhất được đặt trong mối quan hệ giữa các nhân vật nữ, là sự xung đột
giữa các thế hệ phụ nữ khác nhau, giữa thế hệ trước và thế hệ sau,
trong đó được cụ thể hóa thành mối quan hệ giữa mẹ chồng và con
dâu (cộng thêm sự tương ứng từ các kiểu quan hệ khác: mẹ đẻ và con
gái, bà cô và cháu gái...). Không chỉ vậy, để nhấn mạnh mối xung đột
này, các nhân vật nam giới trong truyện cũng bị phân hóa thành


19

những thế hệ đối lập nhau, trong đó nhân vật nam trẻ sẽ ủng hộ các
nhân vật nữ trẻ (con dâu), còn nhân vật nam già “cùng phe” với các
nhân vật nữ già (mẹ chồng). Sự phân hóa hầu như dựa trên sự khác
biệt về tuổi tác, thế hệ, kéo theo đó là sự khác biệt trong nhận thức,
quan niệm. Trong khi đó, trong các sáng tác của các nhà văn Hàn
Quốc thời Nhật thuộc, hầu như không có sự xung đột giữa mẹ chồng
và con dâu (thậm chí đó còn là mối quan hệ đồng dạng, đồng cảm),
mà thay vào đó là sự xung đột giữa phụ nữ và đàn ông, cụ thể là giữa
vợ và chồng (cộng thêm sự tương ứng như mối quan hệ giữa con gái
và bố). Ở trường hợp này, những người phụ nữ dường như “cùng

phe” với nhau, họ đều là nạn nhân của đàn ông và ở thế đối đầu trực
tiếp với đàn ông. Nói cách khác, thay vì nhấn mạnh vào sự khác biệt
về thế hệ, các nhà văn Hàn Quốc nhấn mạnh vào trật tự giới (giữa
nam và nữ).
4.2.2. Quan hệ xung đột giữa các hệ thống nhân vật và tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn
Một yếu tố có tác động đến việc sáng tạo hình tượng nhân vật
là vấn đề giới tính của người sáng tác. Trong khi toàn bộ các nhà văn
Tự Lực văn đoàn đều là nam giới, thì ở Hàn Quốc có lực lượng nhà
văn nữ giới khá đông đảo, trong đó năm tác phẩm Hàn Quốc được
lựa chọn trong luận án, có đến ba tác phẩm của các nhà văn nữ. Sự
khác biệt này ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức, mục đích khác
nhau, và kiến tạo những luận đề khác nhau về người phụ nữ.
Trong các sáng tác của Tự Lực văn đoàn, mâu thuẫn được tập
trung vào mối quan hệ giữa thế hệ cũ và thế hệ mới. Điều đó không
chỉ đặt trọng tâm mâu thuẫn vào quan hệ giữa những người phụ nữ,
mà nó còn cho phép xây dựng các nhân vật nam trong vai trò là
người bênh vực, dẫn dắt phụ nữ. Đặc điểm này là rất rõ trong Đoạn
tuyệt của Nhất Linh, qua cặp nhân vật Dũng – Loan. Như thế, các tác
giả nam trong Tự Lực văn đoàn trong khi thiết đặt một luận đề về sự
giải phóng phụ nữ, đã tìm cách tự định vị giới mình (người đàn ông)
trong công cuộc hiện đại hóa dân tộc: ở đó, người đàn ông nắm vai
trò dẫn dắt, lĩnh xướng. Trái lại, các nhà văn Hàn Quốc lại tạo một


20

xung đột trong quan hệ giới tính giữa đàn ông và phụ nữ. Trong xã
hội Hàn Quốc nửa đầu thế kỷ XX, các nhà văn nữ thường có trong
vai trò kép: vừa là người sáng tạo nghệ thuật, vừa là nhà hoạt động

xã hội, có ý hướng cải tạo xã hội. Như vậy, dưới góc nhìn của các
nhà văn nữ, người phụ nữ giờ đây không còn cần đến sự thừa nhận
của đàn ông, trái lại, họ cần phải tự tạo dựng một cuộc sống độc lập,
thậm chí là chống lại sự can thiệp của những người đàn ông.
4.2.3. Giải quyết xung đột và sự lựa chọn hành động của các
nhân vật nữ
Các nhân vật trong Tự Lực văn đoàn có khát vọng tự do và
kiếm tìm hạnh phúc cá nhân, tuy nhiên chưa có một hành động phản
kháng quyết liệt thực sự. Về cơ bản, sự phản kháng ở đây diễn ra
trong tư tưởng của các nhân vật.
Các tác phẩm Hàn Quốc thời Nhật thuộc dường như đặt ra
cách lựa chọn và giải quyết vấn đề của những người phụ nữ có phần
quyết liệt hơn rất nhiều. Từ những quan điểm yêu đương tự do táo
bạo, các nhân vật phụ nữ Hàn Quốc thường tìm đến những hành
động đấu tranh mạnh mẽ, ở đó cho thấy cả một quá trình chuyển
mình thật sự triệt để.
4.3. Một số khác biệt trên phương diện nghệ thuật
4.3.1. Nghệ thuật tạo dựng các tình huống kịch tính
Các sáng tác của Tự Lực Văn đoàn có sử dụng yếu tố kịch
trong việc thể hiện các nhân vật nữ. Thông qua yếu tố kịch, các xung
đột được đẩy đến cao trào và nhờ thế nhân vật nữ hiện lên sinh động
hơn. Chúng tôi nhận thấy rằng đặc điểm này lại khá ít xuất hiện trong
các tác phẩm văn học Hàn Quốc. Ở đây, khi xem xét yếu tố tính kịch,
chúng tôi chỉ đề cập đến một phương diện nổi bật và dễ nhận diện
nhất, đó là việc xây dựng các tình huống kịch. Tình huống kịch được
hiểu là việc tổ chức các tình huống mà ở đó có sự va chạm giữa các
nhân vật thông qua đối thoại (giống như dàn dựng một cảnh kịch),
trong đó có sự dồn nét cao với các bước tiến triển của một vở kịch
gồm thắt nút – cao trào – cởi nút. Những “màn kịch” ngắn như vậy
thường là điểm nhấn để nhà văn làm bộc lộ một nét tính cách tiểu



21

biểu của nhân vật, có thể kể đến các tình huống sau đây có tính kịch
cao độ: đối thoại giữa Loan với bà Phán, giữa bộ ba Loan - bà Phán –
Thân, hoặc bộ ba Loan – Thảo – Dũng, đối thoại trong phiên tòa xét
xử Loan (Đoạn tuyệt); đối thoại giữa Mai với bà Án, giữa bộ ba Mai
– Lộc – Huy; đối thoại giữa Nhung với bà Án…
4.3.2. Lựa chọn điểm nhìn và nghệ thuật phân tích tâm lý
nhân vật
Trong số các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn, không có tác
phẩm nào được tường thuật từ điểm nhìn ngôi thứ nhất, tất cả đều
được kể lại từ người kể chuyện bên ngoài. Trong khi đó, trong số các
sáng tác văn học Hàn Quốc, có đến hai tác phẩm gây ấn tượng khá
mạnh mẽ khi tường thuật lại câu chuyện từ điểm nhìn ngôi thứ nhất,
nhân vật xưng tôi. Đó là tác phẩm Hoàng hôn đỏ rực và Đêm giao
thừa. Ở Hoàng hôn đỏ rực, câu chuyện tình yêu của Sun Hee được
chính cô kể lại, lồng trong câu chuyện của nhân vật tôi – người kể
chuyện. Tương tự như vậy, Đêm giao thừa là lời kể của chính nhân
vật tôi – người kể chuyện, tức Choi Jung In. Trong tác phẩm này,
nhân vật tôi liên tục lặp đi lặp lại “em nghĩ”, “em cảm thấy”, “em có
ý thức”, “đó là quan niệm của em”,… Hình thức này giúp cho toàn
bộ câu chuyện lẫn trong mạch kể các sự kiện là chồng chất những
suy nghĩ, những tâm trạng, những cảm xúc của nhân vật.
4.3.3. Nghệ thuật xây dựng tình huống gây hấn
Trong số các tác phẩm được lựa chọn trong luận án này, có hai
tác phẩm Hàn Quốc có khả năng gây hấn khá mạnh mẽ với người
đọc, khi nó mở ra trước mắt người đọc những hiện tượng, những
trạng thái vốn bị xem là cấm kỵ của xã hội.

Trong Hoàng hôn đỏ rực, tình huống truyện độc đáo được sử
dụng làm điểm nhấn cho toàn bộ câu chuyện, và cũng chính đây là
chỗ gây hấn nhiều nhất: một quả phụ 30 tuổi yêu một cậu bé thiếu
niên chỉ tầm tuổi con trai mình. Xét ở góc độ nào đó, có thể coi đây
là một hiện tượng của sự vô luân, nhất là khi tác phẩm ra đời trong
bối cảnh 100 năm trước với những thiết chế rất khắt khe của luân lý.
Trong khi đó, trong tác phẩm Đêm giao thừa, lời bộc bạch đến gan


22

ruột của một người chuẩn bị tìm đến cái chết lại cho thấy suy tư,
những cảm nhận lạ lùng của một cô gái. Choi Jung In trong Đêm
giao thừa gần như tỏ rõ một thái độ thách thức lại xã hội, muốn đẩy
sự tự do lên một giới hạn mới. Quan niệm về tự do ở đây không còn
là sự giải phóng khỏi những ràng buộc của luân lý và chế độ gia
trưởng, hơn thế, nó đòi hỏi được đứng cao hơn và khuất phục trở lại
luân lý cũng như sự gia trưởng.
Tính chất gây hấn có thể xem là một bước sự phát triển của
việc phân tích tâm lý nhân vật, đẩy tâm lý nhân vật đến những vùng
xa hơn, trong những kích thước ngoại hạng mà cái nhìn thông
thường của xã hội không thấy được. Điều này là rất mới và cần được
ghi nhận như một thành công bước đầu của các nhà văn Hàn Quốc
thời Nhật thuộc.
KẾT LUẬN
1. Trong văn học Việt Nam và Hàn Quốc đầu thế kỷ XX, đồng
thời xuất hiện các sáng tác viết về người phụ nữ với tinh thần khai
phóng, đấu tranh cho quyền lợi người phụ nữ và chống lại các thiết
chế khắt khe của lễ giáo phong kiến và chế độ gia trưởng vốn là hệ
quả nối dài từ thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc ở

hai quốc gia. Trong số đó, tiêu biểu nhất ở Việt Nam là nhóm Tự Lực
văn đoàn và ở Hàn Quốc là các nhà văn sáng tác trong khoảng thập
niên 1930 thời kỳ Nhật thuộc. Các nhà văn và các sáng tác văn học
này được xem là những cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại
hóa văn học ở Việt Nam và Hàn Quốc, trên cả hai phương diện nội
dung tư tưởng lẫn nghệ thuật biểu hiện.
2. Sở dĩ có sự tương đồng trên đây trong văn học do có sự
tương đồng về bối cảnh văn hóa xã hội ở Việt Nam và Hàn Quốc nửa
đầu thế kỷ XX. Trong khi Việt Nam chịu sự xâm lược của thực dân
Pháp từ cuối thế kỷ XIX và thực sự chịu ảnh hưởng đáng kể từ các
cuộc khai thác thuộc địa vào đầu thế kỷ XX, thì cùng thời gian đó,
Hàn Quốc cũng chính thức bị Nhật Bản đô hộ từ năm 1910, kéo theo
đó là những biến đổi của xã hội thuộc địa do các chính sách cai trị


23

gây ra. Trong quá trình hiện đại hóa, bằng cả cưỡng bức của chính
quyền thực dân lẫn sự chủ động từ các trí thức thuộc địa, người phụ
nữ nhanh chóng trở thành một trung tâm điểm trong các luận bàn, và
nhờ thế nhận thức mới về phụ nữ được tạo lập, trở thành cơ sở cho
cuộc đấu tranh đòi quyền sống cho họ, cải thiện vị thế của người phụ
nữ. Chính ở đây, các sáng tác văn học của Tự Lực văn đoàn và các
nhà văn Hàn Quốc thời Nhật thuộc đã gặp gỡ và chia sẻ với nhau
những tư tưởng khá tương đồng.
Từ đây, có thể đặt ra những gợi ý mới về cả lý luận lẫn ứng
dụng trong nghiên cứu văn học. Khu vực Đông Á, với những nét
tương đồng về bối cảnh lịch sử, nên được xem xét một cách toàn
diện và bao quát hơn. Văn học Việt Nam và Hàn Quốc thay vì chỉ
được nghiên cứu trong phạm vi quốc gia, cần được tìm hiểu như là

những hiện tượng của văn học khu vực. Từ đó, có thể rút ra những
đặc điểm có tính quy luật của các nền văn học trong khu vực.
3. Tuy chia sẻ những điểm chung về nhiều mặt, nhưng không
vì thế mỗi nền văn học không có những điểm nhấn và đặc sắc riêng.
Sự khác biệt về bối cảnh văn hóa, về lực lượng sáng, về những vấn
đề thực tiễn mà đời sống xã hội đặt ra ở hai quốc gia đã kéo theo
những sự khác biệt về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác văn
học. Trong khía cạnh nội dung tư tưởng, một điểm nhấn quan trọng
là sự khác biệt trong việc xây dựng xung đột, khi mà ở Việt Nam
nhấn vào yếu tố thế hệ, thì ở Hàn Quốc lại đặt trọng tâm vào yếu tố
giới. Chính những sự quan tâm khác nhau này mà sáng tác văn học ở
mỗi quốc gia lại hướng đến mục đích khác nhau kiếm tìm những
phương thức biểu hiện khác nhau.
4. Trên cơ sở của những tương đồng và khác biệt giữa sáng tác
văn học của Việt Nam và Hàn Quốc trong một giai đoạn cụ thể, ở
những nhóm tác giả, tác phẩm cụ thể, chúng ta hoàn toàn có thể mở
rộng vấn đề bằng việc so sánh các giai đoạn sáng tác khác, các tác
giả, tác phẩm khác ở hai quốc gia, hoặc lựa chọn sáng tác ở các quốc
gia khác có những nét tương đồng. Việc mở rộng nghiên cứu sẽ góp
phần không chỉ nhận diện những điểm chung giữa các nền văn học gần


×