Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận lý luận về dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.35 KB, 33 trang )

’’’’’’’’’’’’’’’’’’
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ

KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

TUYÊN TRUYỀN

KHOA HỌC

======

TÊN TÁC GIẢ

LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

TIỂU LUẬN MÔN

Hà Nội– năm 2020


’’’’’’’’’’’’’’’’’’
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ

KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

TUYÊN TRUYỀN

KHOA HỌC

======



TÊN TÁC GIẢ

LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

Lớp:…………………………….
Mã số sinh viên:……………….
Tiểu luận môn:

Hà Nội – năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Đề tài: “Lý luận về dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” được hoàn
thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của TS……………….,
Nhân đây cho phép em được tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS……………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian qua, em cũng xin
chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét quý báu của các
thầy cô giáo giúp em hoàn thành bài tiểu luận của mình.


DANH MỤC VIẾT TẮT

DC

Dân chủ

NDC

Nền dân chủ


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CCVS

Chuyên chính vô sản


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người, là một
nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời, dân
chủ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển
của dân chủ ghi nhận nấc thang tiến bộ của xã hội loài người.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành chính quyền đã đánh dấu sự ra đời nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa (XHCN).
Khác với các nền dân chủ đã tồn tại trước đó trong lịch sử, nền dân
chủ XHCN không thể ra đời, phát triển một cách tự phát. Nó không thể tự nhiên
xuất hiện và hoàn thiện ngay sau sự kiện giai cấp công nhân và nhân dân lao
động giành được chính quyền. Xây dựng nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ lịch
sử mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những thăng trầm của chủ nghĩa xã hội (CNXH)
hiện thực ở các nước trên thế giới trong gần 100 năm qua đã cho thấy rõ tính
dích dắc, phức tạp của tiến trình xây dựng nền dân chủ XHCN. Kinh nghiệm
lịch sử cho thấy, sức sống thực tế của dân chủ XHCN trước hết phụ thuộc vào
nhận thức và hành động của đảng cộng sản cầm quyền.
Ở nước ta, từ năm 1986, bằng việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thể hiện rõ trí tuệ, bản lĩnh và trách

nhiệm của của mình trước những vấn đề hệ trọng của Tổ quốc, nhân dân. Việc
xây dựng nền dân chủ XHCN trở thành một trong những mối quan tâm thường
trực trong nhận thức và hành động của Đảng. Theo đó, dân chủ hóa các lĩnh vực
đời sống xã hội luôn được Đảng ta khẳng định là một trong những mục tiêu,


nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của công cuộc đổi mới. Tư duy, nhận thức mới của
Đảng về dân chủ XHCN chỉ đạo quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội; và thực
tiễn dân chủ hóa lại là căn cứ, cơ sở để kiểm nghiệm, bổ sung nhận thức về dân
chủ XHCN và nhận thức về xây dựng nền dân chủ XHCN.
Thực tiễn thế giới và Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy, vấn
đề dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN đã và đang tạo động lực thúc đẩy,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng,
xa rời nhân dân của một bộ phận cán bộ; đóng góp tích cực vào việc cải cách
hành chính, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Điều đó không chỉ được
khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được bảo đảm thực
hiện bằng pháp luật trên thực tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, cần thẳng thắn chỉ ra trong xây
dựng và phát huy dân chủ vẫn còn những tồn tại. Đáng chú ý là tình trạng chưa
gương mẫu trong thực hiện Quy chế dân chủ, thiếu tôn trọng dân chủ, còn biểu
hiện quan cách, gia trưởng, độc đoán, thậm chí có những cá nhân và tập thể trù
dập, ức hiếp quần chúng. Do nhận thức chưa đầy đủ, không rõ ràng nên một bộ
phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không
đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù
địch lợi dụng, kích động, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người,
gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật....
Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu về dân chủ và nền dân chủ
XHCN, để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm bổ sung, phát triển nhận thức mới về
dân chủ và dân XHCN trở thành vấn đề có nghĩa cấp thiết. Đó cũng là lý để em

quyết định em chọn đề tài: “Lý luận về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa”


2. Những công trình nghiên cứu có liên quan
2.1.

Các công trình nghiên cứu trên thế giới

Bài Chủ nghĩa xã hội và dân chủ của Alecxei Prigarin trong Những tranh
luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội [12] phân tích nguyên nhân
thất bại của dân chủ XHCN ở Liên Xô; khẳng định dân chủ XHCN vẫn là con
đường phát triển tất yếu của nhân loại. Xây dựng dân chủ XHCN là xây dựng
các điều kiện bảo đảm để quần chúng được biết tất cả, được thông tin đầy đủ về
các lĩnh vực đời sống xã hội; điều kiện bảo đảm để từng cá nhân và tổ chức xã
hội có thể bày tỏ công khai và tự do ý kiến của mình về mọi việc; điều kiện để
mọi người có khả năng tác động đến đời sống của tập thể lao động của họ cũng
như đời sống của địa phương và đất nước [12, tr.26]
N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina trong cuốn Chế độ dân chủ, nhà
nước và xã hội [6] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó có nêu, phân tích
các quan niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế
dân chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ XHCN theo
mô hình Xôviết chỉ là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá trị dân chủ
nên nó đã thành quá khứ của nước Nga. Tác phẩm Dân chủ trực tiếp: sổ tay
IDEA quốc tế [20] của Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử trình bày tổng
quan về việc vận dụng dân chủ trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công
dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên
thế giới. Ở đây, dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ
chức quyền lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân
chủ trực tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của



công dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội
đang phát triển
2.2.

Các công trình nghiên cứu trong nước

Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo trong cuốn Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa [13], đã phân tích những quan điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát triển, thực trạng, bản chất, khuyết
tật của dân chủ tư sản (DCTS); bản chất, sự hình thành và những thách thức
của dân chủ XHCN. Ở đây, dân chủ XHCN được tiếp cận toàn diện, hệ thống
với 5 khía cạnh: hình thức tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều
kiện để hình thành nhân cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo,
quản lý xã hội (tập trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của CNXH.
Cuốn Dân chủ với phát triển cộng đồng của Trần Quang Nhiếp trình bày,
phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở: tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân chủ đối với phát triển cộng
đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp phát huy quyền làm chủ của
nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới
Bài Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu của Hoàng Chí Bảo;
Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ của Nguyễn Đăng Quang bàn về dân chủ
với những phương pháp tiếp cận khác nhau. Tiếp cận từ những cơ sở hình
thành dân chủ có: cơ sở kinh tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở
chính trị của dân chủ và dân chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân
chủ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân
chủ: theo nội dung chính trị, dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung



văn minh, dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân
chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại...
Bài Di chúc Hồ Chí Minh - vấn đề dân chủ và “thực hành dân chủ rộng
rãi” với bối cảnh hiện nay và Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của
chủ nghĩa xã hội của Hồ Bá Thâm khẳng định giá trị tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh thể hiện trong Di chúc; khẳng định dân chủ là vấn đề trung tâm, cốt
tử của CNXH; nêu lên nhiều vấn đề gai góc, phức tạp đặt ra cần giải quyết về
dân chủ ở Việt Nam cả trên phương diện thực tiễn và lý luận.
Bài Dân chủ và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta và bài Dân chủ là
bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Kiên định mục tiêu và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta [5] của Phạm Ngọc Quang bàn về dân
chủ XHCN. Từ việc phân tích thành tựu dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã
hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới tác giả khẳng định: dân chủ là bản chất của
CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên, “bản chất của sự vật nói chung, của một chế độ
xã hội nói riêng, không phải nhất thành bất biến, có sự phát triển chín muồi
ngay khi chế độ đó mới ra đời. Trái lại, bản chất của sự vật luôn trải qua một
quá trình phát triển, nó được chín muồi dần dần tùy thuộc vào sự phát triển và
hoàn thiện của các bộ phận cấu trành, các nhân tố thúc đẩy” [5, tr.343]. Ở Việt
Nam, đến nay, dân chủ XHCN mới đang đi những bước đầu trên con đường tạo
lập nó [4, tr.476].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Đè tài tập trung phân tích cơ sở lý luận về dân chủ và dân chủ XHCN, qua
đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển
nhận thức về dân chủ XHCN hiện nay.



3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, tiểu luận có nhiệm vụ:
- Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về dân
chủ, dân chủ XHCN
- Phân tích cơ sở lý luận về dân chủ và dân chủ XHCN
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp tiếp tục bổ sung, phát triển nhận
thức về dân chủ và dân XHCN hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những nhận thức về dân chủ và nền dân chủ XHCN
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về dân chủ và nền dân chủ XHCN
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ XHCN của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà
nước về dân chủ, về hệ thống chính trị… Đồng thời, tiểu luận cũng kế thừa có
chọn lọc các công trình và các bài viết có liên quan của các tác giả khác đã được
công bố ở trong và ngoài nước về dân chủ và dân chủ XHCN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
và hệ thống hóa…


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài (không bắt buộc)

Ý nghĩa lý luận: đề tài giải quyết được vấn đề lý luận về dân chủ,
nền dân chủ, dân chủ XHCN, xây dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân
chủ XHCN
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ và
hệ thống chính trị trong Chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành
khoa học khác.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
03 chương


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA

1.1. Quan niệm chung về dân chủ, nền dân chủ
1.1.1 Quan niệm chung về dân chủ
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của đời sống con người. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, con
người đã biết hợp lực để sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và đã tổ chức ra những
hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người đứng đầu
để thực thi những quy định, điều hành hoạt động chung. Đồng thời, cộng đồng
sẽ phế bỏ những người đó, nếu họ không thực hiện những quy định chung theo
lợi ích và ý nguyện của mọi người. Đây là một trong những quyền vốn có đương
nhiên của mọi thành viên trong cộng đồng. Quyền lực ấy là ngang nhau đối với
mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc. Đến thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn ngữ,
chữ viết và trình độ tư duy của con người đạt tới mức có khả năng khái quát hóa,
trừu tượng hóa, người ta diễn đạt hiện thực ấy bằng thuật ngữ dân chủ
(Demokratia). Thuật ngữ này được ghép bởi Demos là dân, nhân dân và Kratos

là quyền lực hay chính quyền. Theo đó, nghĩa gốc của dân chủ (Demokratia)
cũng là nghĩa cơ bản của khái niệm được hiểu là quyền lực của nhân dân.
Từ nghĩa gốc của khái niệm (dân chủ là quyền lực của nhân dân), trong
những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động biến đổi của
thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được nhận thức cũng đa dạng.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý trong hoạt
động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc tán thành
cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động; dân chủ là
quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân).
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dân chủ
thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không có “dân chủ chung chung, phi
giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn
với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Lịch sử nhân loại đã
chứng minh rõ có các kiểu dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư
sản, chế độ dân chủ vô sản (hay dân chủ xã hội chủ nghĩa). Riêng chế độ phong
kiến là chế độ quân chủ, (rồi “quân chủ lập hiến”) không phải là chế độ dân chủ,
nhưng những nhu cầu dân chủ, những biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong
xã hội, thậm chí ngay cả trong một số triều đình phong kiến... của xã hội phong
kiến vẫn có.
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách một
phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn với ý nghĩa là một
hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên nhà
nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nhà nước đó
“quyền lực thuộc về nhân dân” (còn dân là những ai thì do bản chất giai cấp
thống trị xã hội quy định), gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp
thống trị xã hội.

Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai
cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy tính


giai cấp thống trị cũng gắn liền với và chi phối tính dân tộc, tính chất của chế độ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... ở mỗi quốc gia dân tộc cụ thể.
Như vậy, với nghĩa rộng nhất của khái niệm, dân chủ được hiểu là phương
thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã hội, giữa các thiết
chế xã hội, giữa các con người trong tất cả mọi cấp độ tồn tại khác nhau của nó;
là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của
mỗi thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực [10, tr.31].
1.1.2 Quan niệm về nền dân chủ
Nền dân chủ là khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận
hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ nhằm thực thi quyền
lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Biện chứng của lịch sử dân chủ
trên phạm vi toàn nhân loại đã, đang và sẽ đi từ nền dân chủ tự quản cộng sản
nguyên thủy đến dân chủ chủ nô, DCTS và tiến tới dân chủ tự quản văn minh
trong xã hội cộng sản văn minh, mà bước quá độ lên hình thức dân chủ này là
nền dân chủ XHCN. Theo đó, nền dân chủ XHCN được hiểu là chỉnh thể xã hội
được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ
nhằm thực thi quyền lực, bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Tất nhiên, nền dân chủ (kể cả nền dân chủ XHCN) được thiết lập ở
mỗi quốc gia, dân tộc trong mỗi thời đại lịch sử vừa có tính chất, đặc điểm
chung, phổ biến, đồng thời có những đặc điểm riêng, đặc thù do điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể quy định.
Trong điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước, nền dân chủ ở mỗi quốc
gia, dân tộc được thiết lập với mức độ, tính chất như thế nào, điều đó lệ thuộc
vào tính chất, trạng thái của thể chế chính trị; trình độ phát triển kinh tế; trình độ
học vấn, ý thức, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân; năng lực, phẩm chất



của giới cầm quyền; truyền thống văn hóa chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc và
cả những nhân tố khách quan của thời đại.
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Từ việc nắm vững và phân tích thực tế lịch sử đã diễn ra trong sự phát
triển dân chủ của nhân loại, nhất là qua những quy luật của chế độ dân chủ chủ
nô, chế độ dân chủ tư sản..., các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã dự
báo khoa học – qua nhiều luận điểm cơ bản – về tính tất yếu xảy ra và thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn liền với
tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Chính những luận điểm khoa học đó đã được nhận
thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo để dẫn dắt nhân dân lao động trong thực
tiễn cách mạng, làm nên thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga (1917), từ đó hình thành và từng bước phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước Nga, sau đó là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế
giới... Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì: chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa về căn bản là thống nhất. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta thống nhất gọi chuyên chính vô sản là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa (vẫn thực hiện nội dung cơ bản của chuyên chính vô sản).
Có thể khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ XHCN theo các nội dung cơ bản sau:
1.2.1 Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, nhà
nước chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa
C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng, với tính cách là chế độ chính
trị, chế độ nhà nước, dân chủ XHCN có thể có sự đa dạng về hình thức nhưng
bản chất của nó là chuyên chính vô sản (CCVS). V.I.Lênin viết: “Bước chuyển
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại
rất nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy


tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là: chuyên chính vô sản” [15, tr.44]. Hệ thống CCVS

được V.I.Lênin hình dung như một hệ thống những bánh xe răng cưa của cỗ
máy, phức tạp và có quan hệ chặt chẽ với nhau bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà
nước Xôviết (hay nhà nước CCVS) và công đoàn “ở giữa Đảng và chính quyền
nhà nước” [19, tr.250], trong đó, mỗi “bánh xe răng” có vị trí và vai trò xác định.
V.I.Lênin khẳng định: CCVS “là một nhà nước thuộc một kiểu khác, nhà nước
vô sản, một bộ máy để giai cấp vô sản trấn áp giai cấp tư sản”; “là chế độ dân
chủ cho những người bị bóc lột và phải trấn áp bọn bóc lột” [16, tr.122, 316].
Dân chủ vô sản là CCVS và CCVS chính là nhà nước của giai cấp vô sản.
Từ mô hình lịch sử kiểu dân chủ cộng hòa của Công xã Pari và Xôviết Nga,
C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn
đạt về CCVS. Đó là: dân chủ vô sản, CCVS, dân chủ Xôviết, nhà nước Xôviết,
nhà nước CCVS, hệ thống CCVS, nhà nước kiểu mới, nhà nước nửa nhà nước,
nhà nước tự tiêu vong... V.I.Lênin còn viết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất
cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền
Xôviết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu
lần” [15, tr.312-313].
1.2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp
công nhân và tính nhân dân rộng rãi
Với nghĩa là quyền làm chủ hay bản chất giai cấp thống trị của dân chủ,
nền dân chủ XHCN thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân. Trong Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), trả lời câu hỏi rằng cuộc cách mạng
vô sản sẽ diễn biến như thế nào, Ph.Ăngghen viết: Trước hết, nó tạo ra một chế
độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị
của giai cấp vô sản [2, tr.469- 470].


Theo tinh thần đó, dân chủ vô sản, dân chủ XHCN trước hết là sự thống
trị, làm chủ của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, là sản phẩm của cách mạng
XHCN - cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân dân nên trong
nền dân chủ XHCN sự thống trị, làm chủ của giai cấp công nhân đồng thời cũng

là sự thống trị, làm chủ của đông đảo nhân dân lao động vốn là những người
nghèo khổ và bị áp bức trước kia. V.I.Lênin viết: “dân chủ vô sản là sự thống trị
của đa số đối với thiểu số” [14, tr.164]; “chuyên chính vô sản là một hình thức
đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những
người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu
tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức...)” [18, tr.452].
1.2.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản
Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cuộc đấu
tranh này khác hẳn những cuộc đấu tranh giai cấp trước kia: không phải do thiểu
số thực hiện, hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số; phong trào vô sản là của khối
đại đa số, mưu cầu lợi ích cho khối đại đa số. C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định,
cuộc đấu tranh này trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ, tạo ra quyền thống trị
chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhưng đó mới là mục tiêu
trước mắt, là điều kiện bước đầu của tiến trình cách mạng. Tiếp đó, để chế độ
dân chủ không trở nên hoàn toàn vô ích, giai cấp vô sản và nhân dân lao động
phải sử dụng chế độ dân chủ ấy tiến hành hàng loạt các biện pháp cách mạng
nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực đời sống để thiết
lập một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người [2, tr.628].


1.2.4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa sử dụng tập trung dân chủ hay dân
chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt cơ bản của các cộng đồng và
các tổ chức chính trị, xã hội
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến dân
chủ XHCN từ phương diện nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các cộng đồng và
các tổ chức chính trị, xã hội trên cơ sở sự tự do, bình đẳng giữa các thành viên;

thiểu số phục tùng đa số; đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu số.
Bản chất của tập trung dân chủ là kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa sự thống
nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo, tính nhất quán về mục tiêu với tính phong phú, đa
dạng về hình thức, phương thức, bước đi để thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo thống
nhất và nhằm thực hiện những mục tiêu chung. Trong nền dân chủ XHCN, nội
dung của tập trung dân chủ được xây dựng thành hệ thống các thiết chế, thể chế,
chế độ cụ thể (điều lệ, quy định, pháp luật) và được áp dụng trong tổ chức, lãnh
đạo, quản lý xã hội nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp giữa cá nhân và tập
thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương, giữa bộ phận với
hệ thống…Theo đó, nội dung củatập trung dân chủ không chỉ là thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức; không chỉ là
chế độ liên bang, chế độ tự trị, tự quản; không chỉ là chế độ báo cáo, công khai,
giám sát, kiểm kê, kiểm soát, tự phê bình và phê bình; mà còn là tự do thảo luận,
thống nhất hành động; thảo thuận thì chung, trách nhiệm thì riêng…Tuy nhiên,
V.I.Lênin lưu ý, từ trong bản chất, chế độ tập trung dân chủ, vừa khác xa chế độ
tập trung quan liêu vừa khác xa chủ nghĩa vô chính phủ [17, tr.185]
1.2.5. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết tinh các giá trị xã hội, giá trị
nhân văn, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người
một cách toàn diện và triệt để trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa


Từ luận chứng tính tất yếu như nhau về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản
(CNTB), của nền DCTS và sự thắng lợi của CNXH, của nền dân chủ XHCN,
C.Mác và Ph.Ănghen dự báo rằng, trong tiến trình cách mạng XHCN, dân chủ
XHCN mà nội hàm cơ bản là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân
thực sự là người chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội không những sẽ kết
tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử mà
còn tạo ra những giá trị dân chủ mới về chất. Trong quá trình cách mạng XHCN,
dân chủ dần trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ xã

hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra ngày càng đầy đủ các điều kiện
cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người để “sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người


Chương 2
NHẬN THỨC MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG NHẬN
THỨC VỀ DÂN VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN NAY

2.1. Nhận thức mới về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều biến đổi
nhanh chóng, phức tạp và sâu sắc trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, quân
sự, và khoa học - công nghệ, trong đó, có những đặc điểm, xu hướng nổi bật và
có cả những chấn động bất ngờ, biến hóa khôn lường, đầy kịch tính.
Ở Việt Nam, qua 30 năm đổi mới, với những sự kiện lịch sử, những đặc
điểm, xu hướng vận động của thế giới đã tác động, ảnh hưởng đến công cuộc đổi
mới của nước ta. Theo đó, tư duy, nhận thức của Đảng ta về dân chủ XHCN và
xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam cũng chịu tác động của những yếu tố
thời đại. Trong đó, đáng chú ý là những tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và đặc biệt là tác động từ tính phức
tạp của quá trình dân chủ hóa ở các nước trên thế giới.
Thứ nhất, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là sự thay đổi căn bản trong
bản thân các lĩnh vực khoa học, công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng


xã hội của nó khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các LLXS cũng thay
đổi. Đó là sự biến đổi về chất của LLXS, biến khoa học - công nghệ thành nhân
tố chủ đạo của phát triển nền sản xuất xã hội; thành LLSX trực tiếp, dẫn đến sự

biến đổi cách mạng trong cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, trong tính chất và
phân công lao động xã hội. Sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại
không chỉ tác động đến kinh tế, đến LLSX, quan hệ sản xuất; không chỉ tác động
đến văn hóa, xã hội, đạo đức, giáo dục, mà còn tác động đến tâm lý, hành vi của
công dân, đến quan hệ giữa nhà nước với công dân và doanh nghiệp, giữa các
giai cấp, thành phần xã hội và giữa các quốc gia, dân tộc, đến cách thức tổ chức,
cơ chế vận hành và tính chất của thể chế chính trị, thể chế dân chủ... Cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là khoa học - công nghệ về thông tin tác
động đến đời sống chính trị, đến dân chủ cũng ngày càng sâu sắc, trực tiếp.
Những khái niệm như: dân chủ điện tử, cộng đồng mạng, xã hội thông tin, công
dân toàn cầu, bầu cử điện tử, hội nghị trực tuyến, chính phủ điện tử, nghị viện
điện tử, hành chính điện tử... đã phản ánh những thay đổi chưa từng có trong đời
sống chính trị - xã hội của nhân loại dưới tác động của khoa học - công nghệ
hiện đại nói chung và công nghệ thông tin nói riêng.
Theo đó, cùng với việc tiếp tục đưa nền sản xuất công nghiệp lên quy mô,
trình độ mới, khoa học - công nghệ hiện đại tiếp tục làm cho các chức năng của
nhà nước ngày càng trở nên đơn giản hóa đến mức tất cả những người biết chữ
(biết công nghệ thông tin) đều có thể thực hiện được với số “tiền lương của công
nhân” thông thường như chủ nghĩa Mác-Lênin từng luận chứng.
Mặc dù cho đến nay, hầu hết những thành tựu cách mạng khoa học - công
nghệ của nhân loại đều do các tập đoàn tư bản lớn và các nước tư bản phát triển
chi phối, nó chủ yếu được sử dụng để củng cố địa vị thống trị và lợi ích của
CNTB, trong đó có không ít thành tựu được dùng làm phương tiện để hủy diệt
cuộc sống, đe dọa an ninh, hòa bình thế giới, xâm phạm tự do, dân chủ và độc


lập của các dân tộc, nhưng là lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ hiện đại
vận động khách quan bất chấp ý muốn chủ quan, hẹp hòi của CNTB. Với tư
cách đó, nó đem đến cho nhân loại nói chung, các quốc gia, dân tộc nói riêng,
trong đó có Việt Nam nhiều thời cơ, vận hội phát triển nhưng cũng tạo ra không

ít những thách thức, nguy cơ khó lường. Tất nhiên, tiêu cực có thể chuyển thành
tích cực và ngược lại; thời cơ chứa đựng thách thức, thách thức bao hàm nguy
cơ; thời cơ bị bỏ qua lại biến thành thách thức và thách thức được giải quyết lại
tạo nên thời cơ mới. Do đó, thời cơ, vận hội, hay nguy cơ, thách thức đối với
mỗi quốc gia, dân tộc là khác nhau, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh khách quan và
chủ quan của mỗi nước.
Thứ hai, kinh tế tri thức
Nhờ những bước tiến mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
từ cuối thế kỷ XX đến nay, kinh tế tri thức đã trở thành hiện thực ở nhiều quốc
gia, dân tộc. Đó là nền kinh tế có hiệu quả cao, tiêu hao vật chất giảm thiểu, phát
triển nhanh và bền vững; là kết quả của việc sử dụng có hiệu quả tri thức mới
của toàn nhân loại và phát huy vai trò của con người trong mọi lĩnh vực. Sự ra
đời, phát triển của kinh tế tri thức đã tạo ra những điều kiện thực tế phong phú,
sinh động cả bề rộng và chiều sâu để hiện thực hóa các giá trị dân chủ.
Khi tri thức trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu và việc khai thác tri thức, trí
tuệ của người lao động trở thành vấn đề sống còn của phát triển sản xuất thì vị
trí và giá trị của người lao động trí tuệ được khẳng định cao hơn. Người lao
động sáng tạo với trình độ cao trở thành nguồn lực cơ bản của phát triển hiện
đại. Họ mang trong mình, họ nắm giữ, họ làm chủ một tư liệu sản xuất đặc biệt
đó là tri thức và công nghệ. Mỗi người lao động là một nhà quản lý, trước hết là
tự quản lý bản thân và phân công, phối hợp cùng quản lý đa chiều trong mạng
thông tin điện tử để bảo đảm tự chủ, tự do sáng tạo hiệu quả.


Kinh tế tri thức tạo ra điều kiện của dân chủ, thúc đẩy dân chủ hóa mạnh
mẽ nhưng nó cũng đặt các giá trị dân chủ, các thể chế dân chủ đứng trước những
thử thách gay gắt. Thực tế cho thấy, ngay tại những quốc gia có kinh tế tri thức
phát triển, phân hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, khủng hoảng kinh tế, bất ổn
chính trị, xã hội vẫn là vấn đề nan giải. Việc thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử
dụng tri thức trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội, trong nhiều

trường hợp đã xâm phạm nghiêm trọng đến các giá trị tự do, nhân quyền, dân
chủ; thậm chí, trong điều kiện toàn cầu hóa, nó còn đe dọa đến an ninh, hòa bình
thế giới, đến cả sự tồn vong của các thể chế chính trị, dân chủ và cả các nền văn
hóa.
Thứ ba, toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa làm cho dân chủ trở thành vấn đề của hàng tỷ người trên
hành tinh chứ không chỉ là công việc của hàng triệu người ở các quốc gia, dân
tộc. Toàn cầu hóa các lĩnh vực đời sống xã hội đòi hỏi nguồn lực phải được phân
bổ công bằng, hợp lý để cải thiện đời sống, việc làm, chỗ ở, môi trường, sức
khỏe, giáo dục, các quyền tự do, dân chủ; bảo đảm lợi ích và quyền phát triển
của tất cả mọi người, bất kể chủng tộc, màu da, quan điểm, dân tộc, tôn giáo,
quốc tịch, giai cấp hay giới tính, lứa tuổi… Muốn thế, phải có những thể chế,
thiết chế, cơ chế, cách thức để bảo đảm cho mọi công dân trên thế giới tham gia
bình đẳng vào việc ra các quyết định ở cấp độ địa phương, quốc gia, khu vực
cũng như cấp độ toàn cầu. Bởi vậy, toàn cầu hóa làm xuất hiện các quá trình
quản lý toàn cầu, mở rộng phạm vi, đối tượng và các chủ thể quản lý trên phạm
vi quốc tế. Toàn cầu hóa làm đa dạng hóa các chủ thể nắm giữ, thực thi quyền
lực và cũng làm đa dạng hóa các cơ chế, hình thức quản lý xã hội trên phạm vi
quốc gia và quốc tế. Toàn cầu hóa đòi hỏi và thúc đẩy các nhà nước, các tổ chức
kinh tế và chính trị quốc tế, khu vực, châu lục, các phong trào xã hội, các tổ


chức phi chính phủ phải thay đổi về mô hình tổ chức, nội dung và cơ chế hoạt
động theo hướng công khai, minh bạch và dân chủ hơn.
2.2. Vấn đề đặt ra hiện nay
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nấc thang, một trình độ cao trong lịch sử
phát triển dân chủ của nhân loại và cho đến nay, nó vẫn đang trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện ở một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế,
có thể nói, dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn
đề mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu. Theo chúng tôi, dân chủ xã hội chủ

nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị
nhân loại về dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Đây là một vấn đề rất quan
trọng, vì con đường phát triển của nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng tức là bỏ qua chế độ dân chủ tư sản. Song, cần
phải khẳng định sự khác nhau về bản chất giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân
chủ tư sản, đó là sự khác nhau căn bản giữa dân chủ cho đa số nhân dân lao
động và dân chủ cho thiểu số bóc lột. Do đó, trong quá trình phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cần phải tham khảo thành quả dân chủ của nhân loại, nhất là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Đó là những thành tựu, kinh nghiệm
của các nước phát triển về quản lý nhà nước, về thiết kế bộ máy tổ chức chính
trị, bộ máy quản lý nhà nước, về xây dựng nền hành chính công, về trách nhiệm
xã hội của cá nhân... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không nên áp dụng một
cách máy móc các hình thức dân chủ của nước ngoài vào nước ta; phải dựa trên
điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và chế độ xã hội.
Thứ hai, dân chủ là một quá trình phát triển lâu dài, đồng thời là kết quả
của sự phát triển ý thức dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân.
Do đó, cần phải căn cứ và tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước, không thể


nóng vội, chủ quan. Phải thực hiện dân chủ ở tất cả các cấp độ, từ cơ quan lãnh
đạo cao nhất đến cơ sở, đặc biệt quan trọng là dân chủ ở cơ sở. Phải thường
xuyên tổng kết thực tiễn, tìm tòi và hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ,
cả dân chủ đại diện lẫn dân chủ trực tiếp. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu
hiện lệch lạc, như dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ đề gây
rối, làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân và Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh phê
phán, bác bỏ các luận điệu sai trái về dân chủ, nhân quyền
Thứ ba, coi trọng thực hiện đồng thời các hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do sự phát triển của công
nghệ thông tin cũng như trình độ dân trí được nâng cao đáng kể, cần quan tâm

nhiều hơn đến việc thực hiện dân chủ trực tiếp.
Thứ tư, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, được Hiến pháp ghi nhận
và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần. Để
quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện một cách đích thực, không mang
tính hình thức hoặc không bị lợi dụng, vấn đề quan trọng là phải bảo đảm
những điều kiện đủ. Rõ ràng, muốn thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa một
cách đích thực và ngày càng rộng rãi trong xã hội, còn cần đến rất nhiều yếu tố.
Ngoài ý thức và năng lực thực hiện dân chủ của các chủ thể, còn cần có cơ chế
thực hiện dân chủ phù hợp, hiệu quả. Theo đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực hiện dân chủ nhằm xây
dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Thứ năm, Đảng phải nêu gương trong việc thực hiện dân chủ. Tại Đại hội
XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Để thực hiện dân chủ trong xã
hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát
huy dân chủ trong xã hội”


×