Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận môn triết học Phân biệt chủ nghĩa duy tâm khách quan của PLANTON và HEGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.89 KB, 19 trang )

1

PHÂN BIỆT CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN CỦA PLANTON VÀ
HEGHEN
1.Khái niệm
Chủ nghĩa duy tâm khách quan là trường phái triết học cho rằng: ý thức, tinh thần
nói chung như ‘ý niệm’, ‘ý niệm tuyệt đối’, ‘tinh thần thế giới’ là cái có trước, tồn tại
khách quan bên ngoài con người. Tiêu biểu cho quan điểm này là Pla-tôn –nhà triết học
cổ đại Hy Lạp, Hê-ghen – nhà triết học cổ điển Đức.
2. Nguồn gốc ra đời
a. Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon
Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon cũng chính là nguồn
gốc ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại vốn được coi là cái nôi của nền triết học phương
Tây. Hy Lạp là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa bao gồm miền Nam bán đảo Ban
Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp
được chia làm ba khu vực Bắc , Nam và Trung bộ. Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc
và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo
Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt.
Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận
lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho
việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu
Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên
thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có
nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng
nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở
rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế. Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan
trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng
nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo


theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi.
Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát
triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan
trọng cho trao đổi, buôn
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động
chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy
một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh
nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng
thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh


2

tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự
phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông
nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây
dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do
sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh
khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen…
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với
những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền
văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú,
những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động,
lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội
của người Hy Lạp cổ đại. Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội
họa có giá trị.Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn,

vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra.
Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
Nhưng đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và
cũng là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc
trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống
trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống
nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Bên cạnh đó, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác,
hoang sơ, coi trọng vấn đề về con người mà đỉnh cao là triết gia Socrate đề cập đạo đức
con người.
Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại bao gồm: Chủ nghĩa duy vật (trong đó bao
gồm Trường phái Milet; Trường phái Héraclite; Trường phái đa nguyên; Trường phái
nguyên tử luận ) và Chủ nghĩa duy tâm (chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường
phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong
trường phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm)
b. Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon


3

Platon sống vào khoảng 427-347 TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem
là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại
cùng với Sokrates là thầy ông.
Sinh ra ở Athen, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình, ông tỏ ra
nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học, ngành học mà ông chuyên
tâm theo đuổi từ khi gặp Sokrates. Ông đã từng bị bán làm nô lệ và được giải thoát bởi

một người bạn, sau đó, ông đã trở về Athena khoảng năm 387 TCN và sáng lập ra
Akademia (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở). Đây có thể được coi là trường đại học đầu
tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa học và triết học.
Aristoteles đã theo học tại đây khi 20 tuổi và sau này lập ra một trường khác là Lyceum.
Câu nói nổi tiếng của ông là: "Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất."
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học
duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm.
Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn vì các sự
vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hoàn
thiện.
Còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân
thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm.
Nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới
khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh
ra thế giới cảm biết.
Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại".
"Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên
là cái có tính thứ nhất.
Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có
trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức
các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế giới khách
quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ.
Theo Platon tri thức được phân làm hai loại là tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri
thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri
thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí.
Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và
phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công
hài hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội.



4

c. Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Heghen
Vào thế kỷ XVIII, cả châu Âu đang sôi sục trong những ngày của thời kỳ khai
sáng. Lúc này, giai cấp tư sản đang có những thắng thế nhất định trước giai cấp phong
kiến. Ở Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ với tốc độ đáng kinh
ngạc. Ở Pháp, cuộc Cách mạng tư sản năm 1789 nổ ra, báo hiệu hồi chuông khai tử của
giai cấp phong kiến. Thế nhưng, nước Đức vẫn còn duy trì chế độ phong kiến. Nước Đức
của thế kỷ XVIII vẫn bị chia rẽ thành nhiều vương quốc khác nhau, tổng cộng là 360
chính quyền. Giai cấp tư sản Đức một mặt muốn là cách mạng như Anh và Pháp nhưng
lượng sức mình nên vẫn muốn dựa dẫm vào chế độ phong kiến. Vì thế, tuy rằng đây là
thời kỳ nở rộ của trào lưu triết học cổ điển Đức nhưng bản thân trong đó lại chứa đựng
mâu thuẫn cơ bản.
Những nhà triết học nổi tiếng của triết học cổ điển Đức bao gồm: Kant (là người
đã có định nghĩa đầy đủ về vật tự thể, một trong những khái niệm triết học nổi tiếng nhất.
Ông là một trong những người đi đầu về chủ nghĩa duy tâm, bản chất của triết học cổ
điển Đức); Hegel (là người đã phát triển phương pháp luận biện chứng, một trong những
yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này. Tuy nhiên, ông lại sử dụng thế giới
quan duy tâm để giải quyết câu hỏi: Khởi thủy của vũ trụ là gì); Feuerbach (đã vượt qua
cái bóng của những người đàn anh, những khổng lồ của triết học Đức như Kant và Hegel
để đến với thế giới quan duy vật, một trong các yếu tố quan trong nhất của chủ nghĩa
Marx-Lenin sau này. Tuy nhiên, ông lại cho rằng lịch sử loài người không hề phát triển
mà chỉ là bức tranh đầy màu sắc được tạo ra bởi sự khác nhau về tôn giáo. Rõ rằng trong
quan điểm này, Feuerbach đã nhìn nhận bằng phương pháp luận siêu hình)
Triết học cổ điển Đức đã mang lại cái nhìn mới về thực tiễn xã hội và lịch sử nhân
loại. Các nhà triết học thuộc trào lưu này đã đánh giá rằng con người là nền tảng, xuất
phát điểm của một vấn đề triết học. Đây là sự kế tục lớn tư tưởng triết học cổ đại và triết
học Phục hưng. Nếu như Kant coi con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của hoạt

động, khăng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận thì Hegel coi bản thân lịch sử loài
người là lịch sử về phương thức tồn tại của con người, coi con người là những cá thể có
thể làm chủ vận mệnh của mình. Thêm vào đó, các nhà triết học cổ điển Đức đã đề cao
sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động của con người. Họ cho rằng con người có thể cải
tạo thế giới. Họ cũng cho rằng con người là chủ thể của và kết quả của toàn bộ nền văn
minh. Tuy từ lập trường duy tâm là chủ yếu, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng
nên hệ thống triết học độc đáo, đậm chất phương pháp luận biện chứng. Ngay như ở trên,
ta cũng thấy hầu hết các nhà triết học này đều sử dụng lập trường biện chứng. Đồng thời,
họ cũng là những người đặt những viên gạch đầu tiên cho nền triết học vạn năng, coi triết
học là khoa học của các môn khoa học.
Hạn chế lớn nhất của các nhà triết học cổ điển Đức đó là họ đã không giải quyết
mâu thuẫn giữa sự tiến bộ về tư tưởng triết học và sự bảo thủ về lập trường chính trị.
Không giống như các nhà triết học Pháp cùng thời, các nhà triết học Đức này không dám


5

đấu tranh mạnh mẽ, không có những cuộc cải cách quan trọng. Tuy có tư tưởng lật đổ
Nhà nước đương thời và giáo hội, nhưng họ lại không công khai.Thêm vào đó, các nhà
triết học cổ điển Đức, hầu hết trong số họ, đều theo chủ nghĩa duy tâm. Họ cho rằng
không thể giải thích thế giới nếu không có điều đó. Bản chất của vật tự thể, khái niệm
triết học của Kant, là một sự duy tâm. Trong khi đó, Hegel giải thích buổi sơ khai của vũ
trụ là cái gì đó rất thần bí. Đây là vỏ bọc vững chắc cho nền triết học Đức thời kỳ nàyMột
hạn chế nữa của triết học Đức thời kỳ này, đó là xây dựng một nền triết học trừu tượng.
Tư tưởng của họ không đi vào thực tiễn, họ chỉ đấu tranh về mặt tư tưởng chứ không hề
đả động trực tiếp tời các thế lực nắm quyền tại Đức lúc đó. Vì tất cả những điều trên, các
nhà triết học này đã làm cho nước Đức có những bước đi ì ạch để phát triển.Ngoài ra, còn
có thể kể thêm như việc họ lại dễ dàng thỏa hiệp với giai cấp tư sản; vào cuối thời kỳ triết
học này, Feuerbach lại phủ lên đó một lập trường siêu hình.
Nhưng điều quan trọng nhất mà triết học cổ điển Đức làm được đó là tạo nên

những yếu tố của chủ nghĩa Marx-Lenin. Rõ ràng nhất đó là phương pháp luận biện
chứng của Hegel và thế giới quan duy vật của Feuerbach.
e. Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Heghen
Heghen là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết
học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý,
chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ
nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát triển của
tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là
“ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. “Ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất,
tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo ra hiện thực khách quan. Giới tự
nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” .Tính đa dạng của thực tiễn được ông
xem như là kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Tính phong phú, đa dạng
của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý
niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn.
Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên
trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong
sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống triết học
duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủ định,
mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”,
“phủ định của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy luật vận
động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của
Hêgen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự
nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt
đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai do
tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết định. Nó là một sự “tồn tại khác” của tinh
thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới


6


mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Heghen
gọi là tinh thần tuyệt đối.
“Ý niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách nói theo đường vòng,
một cách khác nói về Thượng đế mà thôi. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ cho
tôn giáo. C.Mác và Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa học và
thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh giá cao và
tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát triển
học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
3. Phân biệt chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon và Heghen
Về cơ bản âu chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon và Heghen đều khẳng định
rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và hoàn toàn quyết định vật chất, quyết định giới tự
nhiên. Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan (quan niệm của Beccơly) khẳng định mọi sự
vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể, của con người,
chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó không phải
là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người,
quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thường được mang những tên gọi
khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới
a. Về mặt nguồn gốc ra đời
Chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Platon
- Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa duy tâm
khách quan của Platon cũng chính là nguồn
gốc ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại vốn
được coi là cái nôi của nền triết học
phương Tây với những đặc điểm cơ bản
như:

Chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Heghen


-Ra đời trong bối cảnh, Anh và Pháp đã
tiến hành cách mạng tư sản còn nước Đức
vẫn còn duy trì chế độ phong kiến. Nước
Đức của thế kỷ XVIII vẫn bị chia rẽ thành
nhiều vương quốc khác nhau, tổng cộng là
360 chính quyền. Giai cấp tư sản Đức một
mặt muốn là cách mạng như Anh và Pháp
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và nhưng lượng sức mình nên vẫn muốn dựa
phương pháp luận của giai cấp chủ nô dẫm vào chế độ phong kiến. Vì thế, tuy
thống trị.
rằng đây là thời kỳ nở rộ của trào lưu triết
học cổ điển Đức nhưng bản thân trong đó
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng lại chứa đựng mâu thuẫn cơ bản.
giữa các trào lưu, trường phái, duy vật duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - - Hạn chế lớn nhất của các nhà triết học cổ
hữu thần.
điển Đức đó là họ đã không giải quyết mâu
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để thuẫn giữa sự tiến bộ về tư tưởng triết học


7

tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế và sự bảo thủ về lập trường chính trị. Tuy
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất có tư tưởng lật đổ Nhà nước đương thời và
giáo hội, nhưng họ lại không công
mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
khai.Thêm vào đó, các nhà triết học cổ điển
Đức, hầu hết trong số họ, đều theo chủ
nghĩa duy tâm cho rằng không thể giải
thích thế giới nếu không có điều đó. Một

hạn chế nữa của triết học Đức thời kỳ này,
đó là xây dựng một nền triết học trừu
tượng. Tư tưởng của họ không đi vào thực
tiễn, họ chỉ đấu tranh về mặt tư tưởng chứ
không hề đả động trực tiếp tới các thế lực
nắm quyền tại Đức lúc đó.
b. Về mặt tư tưởng
Chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Platon

Chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Heghen

- Platon là nhà triết học duy tâm khách
quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học
duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm.
Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biết và
thế giới các ý niệm.

- Triết học của ông Heghen có nguồn gốc
ra đời như đã nói trên nên cũng chứa đựng
đầy mâu thuẫn.

-Nếu phương pháp biện chứng của ông là
hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên
tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học
-Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách
không chân thực, không đúng đắn vì các sự quan của những nguyên nhân bên trong vốn
vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội.

và vận động, không ổn định, bền vững,
hoàn thiện.
- Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới
không phải là vật chất mà là “ý niệm
-Còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm
tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”.
tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân
-“Ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật
thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng
chất, tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào
của ý niệm.
con người, tạo ra hiện thực khách quan.
-Nhận thức của con người không phải là Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý
phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới niệm tuyệt đối” .
khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế
giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh -Tính đa dạng của thực tiễn được ông xem
như là kết quả tác động và sáng tạo của ý
ra thế giới cảm biết.
niệm tuyệt đối. Tính phong phú, đa dạng


8

-Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái
của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận
niệm "tồn tại" và "không tồn tại".
động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý
-"Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn.
nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là
cái có tính thứ nhất.

-Hêghen đã có công trong việc phê phán
tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên
-Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có
trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và
tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất.
tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là
-Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang trong sự vận động và biến đổi không
tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có ngừng.
trước các sự vật chứ không phải là sự khái
quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức -Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống
các sự vật đó. Nhận thức con người triết học duy tâm của mình, Hêghen không
không phản ánh các sự vật của thế giới chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng,
khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến
lại của linh hồn những cái đã quên trong các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổi
và ngược lại”, “phủ định của phủ định”
quá khứ.
và “quy luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả
-Theo Platon tri thức được phân làm hai cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển
loại là tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối.
thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý
niệm có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai -Trong hệ thống triết học của Hêgen,
là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức không phải ý thức, tư tưởng phát triển
cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí. trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của
tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự
-Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của ý
nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và niệm tuyệt đối.
phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự
phát triển của sản xuất vật chất, sự phân -Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là
công hài hoà các ngành nghề và giải quyết tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ
các mâu thuẫn xã hội.

hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt
đối quyết định. Nó là một sự “tồn tại
khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai
đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối
hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân
mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai
đoạn tột cùng, được Heghen gọi là tinh thần
tuyệt đối.


9

PHÂN BIỆT CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN CỦA PLATON & CHỦ
NGHĨA DUY TÂM CỦA HEGEL

Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định giới tự nhiên. Giới
tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó không
phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thường được mang những
tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.
Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.
Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến
bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt
hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.

Platon ( 472 TCN- 348–347 TCN) – Hegel (1770-1831) – Đức
Hy Lạp
Phép biện chứng: ......
Nguồ
n gốc


Triết học của Platon là một hệ thống
triết học duy tâm khách quan lớn và
đầu tiên trong lịch sử triết học đã đạt
đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt
để. Nó xuất phát từ ba nguồn gốc tư
tưởng: triết học của Socrates về cái
phổ biến, cái chung làm cơ sở cho đạo
đức; triết học của phái Élesee học
thuyết về sự tồn tại duy nhất, bất biến.
Và triết học của phái Pythagore về
những con số, con số được xem là bản
chất chân thật của sự vật. Dựa vào ba
nguồn gốc trên trong đó chủ yếu vẫn là
triết học của Socrates, Platon đã xây
dựng nên hệ thống triết học duy tâm
khách quan.

Điều kiện kinh tế – xã hội hình thành
nên tư tưởng triết học Hegel là cũng là
điều kiện kinh tế – xã hội của triết học
cổ điển Đức.
Nước Đức từ cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia
phong kiến cát cứ điển hình, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Tình trạng cát cứ
ấy đã gây trở ngại lớn đối với phát
triển kinh tế. Về xã hội, giai cấp tư sản
mới ra đời còn non yếu về mọi mặt;
quần chúng lao động bất bình với chế

độ đương thời.
Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển
của các nước Tây Âu về kinh tế – xã
hội, sự phát triển của khoa học đã thức


10

tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư
sản Đức và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức
phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã
hội và con người. Giai cấp tư sản Đức
muốn làm cách mạng tư sản như các
nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết
học theo yêu cầu mới, song do mởi ra
đời nên còn yếu kém về số lượng, kinh
tế và chính trị nên họ giữ lập trường cải
lương trong việc giải quyết những vấn
đề của đất nước. Chính điều đó quy
định nét đặc thù của triết học cổ điển
Đức nói chung và triết học của Hegel
nói riêng: nội dung cách mạng dưới
một hình thức duy tâm bảo thủ; đề cao
vai trò tích cực của tư duy con người,
coi con người là một thực thể hoạt
động, là nền tảng, là điểm xuất phát
của mọi vấn đề triết học
Học
thuyết
về ý

niệm,
thế
giới

Trong quan niệm về thế giới, Platon
coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của ý
niệm, là cái bóng của ý niệm. Vật chất
không tồn tại với ý nghĩa là nó không
tồn tại chân thực chứ không phải là
không có. Sự vật cảm tính chỉ có thể có
ý niệm tồn tại và vật chất không tồn
tại, nó nằm giữa tồn tại và không tồn
tại.

Hegel cho rằng khởi nguyên của thế
giới không phải là vật chất mà là “ý
niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế
giới” . Ông coi tinh thần thế giới là cái
có trước, vật chất với tính cách dường
như là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể
của tinh thần thế giới, là cái có sau;
tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tính phong phú, đa dạng của thế giới
hiện thực là kết quả của sự vận động và
sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Tinh
thần thế giới – ý niệm tuyệt đối tồn tại
vĩnh viễn và chứa đựng dưới dạng tiềm
năng tất cả của mọi hiện tượng tự
nhiên và xã hội. Nó là nguồn gốc và
động lực của mọi hiện tượng tự nhiên

và xã hội.

Quan niệm của Platon về ý niệm tồn
tại, về vật chất không tồn tại, về sự vật
cảm tính, về những con số… Các ý
niệm theo cách hiểu của Platon đó là
các khái niệm, tri thức đã được khách
quan hóa. Chúng bị rút ra khỏi ý thức
của con người, hòa trộn vào thế giới tư
tưởng được coi là tổng thể các ý niệm
tương tự. Các ý niệm được coi là tồn Theo hệ thống của Hegel, toàn bộ thế
giới muôn màu, muôn vẻ là sản phẩm
tại nói chung, bất biến và vĩnh viễn.
của sự phát triển tự nhiên của ý niệm
Coi các ý niệm là tồn tại nói chung, là với tính cách là lực lượng sáng tạo, là
tồn tại thực sự, Platon vẫn khẳng định tổng hòa của mọi hình thức khác nhau


11

rằng cái không tồn tại là cái thực. Cái
không tồn tại là một khía cận của tồn
tại, bản thân cái tồn tại cũng bao hàm
cả “ cái khác ” với nó tức là cái không
tồn tại. Dưới con mắt của Platon bản
thân vật chất nói chung cũng tồn tại
vĩnh viễn và không phải do thế giới ý
niệm sản sinh ra, mặc dù nó không
phải là cái gì cả nhưng nó vẩn cần
thiết. Chính các ý niệm về vật chất là

cơ sở tạo nên sự vật trong thế giới
chúng ta.

Học
thuyết
về vũ
trụ

của sự biểu hiện ý niệm. Bởi vậy, học
thuyết của Hegel coi tính thứ nhất là
tinh thần, tính thứ hai là vật chất do ý
niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới
sinh ra và quyết định, là một sự “tồn
tại” khác của tinh thần sau khi trải qua
giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm
tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở
lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn
cao nhất, giai đoạn tột cùng, được
Hegel gọi là “tinh thần tuyệt đối”. Đó
cũng chính là sự thể hiện riêng về mặt
triết học những lời khẳng định của tôn
giáo rằng Thượng đế sáng tạo ra thế
giới.

Theo Platon sự khác nhau giữa các vật
thể là do sự khác nhau về quan hệ toán
học, do những con số quyết định.
Những con số thần bí chi phối toàn bộ
học thuyết về vũ trụ. Platon cho rằng
thế giới có linh hồn, linh hồn của thế

giới do thần thánh tạo ra. Ông chia ra
thành 2 loại linh hồn thế giới là linh
hồn của thế giới cái thiện có trật tự và
linh hồn của cái ác, vô trật tự.
Platon cho rằng vũ trụ hình cầu là duy
nhất, hữu hạn, trung tâm của vũ trụ là
quả đất, chung quanh quả đất là các
hành tinh, các tinh tú, chúng vận động
quay nhờ linh hồn của chúng.


luận
về
con
người
(nhận
thức


Ông là người đầu tiên tách rời tinh thần
và thể xác, trong con người có hai phần
là phần thể xác và phần linh hồn. Phần
linh hồn được xem như là một thực thể
độc lập, không phụ thuộc vào thể xác,
hơn thế nữa nó còn chi phối thể xác.
Linh hồn làm cho thể xác hoạt động,
limh hồn điều khiển thể xác. Linh hồn

Hegel coi con người vừa là chủ thể vừa
là kết quả của chính quá trình hoạt

động của mình; con người vừa là chủ
thể, đồng thời là mục đích của sự phát
triển lịch sử; tư duy và trí tuệ con
người hình thành và phát triển trong
chừng mực con người nhận thức và cải
biến thế giới, đối lập với bản thân mình


12

linh
hồn.)

tồn tại độc lập với thể xác con người,
linh hồn bất tử, ý niệm tồn tại bất biến
và vĩnh hằng, linh hồn thuộc thế giới ý
niệm nên linh hồn bất tử.

thành cái của mình, ý thức con người là
sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động
của con người càng phá triển thì ý thức
của nó càng mang bản chất xã hội.

Platon không chỉ tách rời mà còn đối
lập linh hồn với thể xác trong con
người, ông coi thể xác chỉ là nơi trú
ngụ tạm thời của linh hồn. Thể xác con
người theo Platon được cấu thành từ
đất, nước, lửa, không khí, do vậy
không thể bất diệt còn linh hồn là sản

phẩm của linh hồn vũ trụ gồm 3 phần:
Lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm
tính trong đó phần lý tính thì bất diệt
còn 2 phần sau thì chết cùng thể xác.

Hegel coi con người là sản phẩm và
cũng là giai đoạn phát triển cao của
tinh thần tuyệt đối. Hoạt động nhận
thức và cải tạo thế giới của con người
là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận
thức chính bản thân mình. Hegel tiếp
cận được quan niệm coi ý thức con
người, nhân cách con người là sản
phẩm của lịch sử.

Bản thân số lượng linh hồn không thay
đổi bởi chúng được tạo ra bởi Thượng
đế, bởi linh hồn vũ trụ cách đây đã lâu.
Sau khi được tạo ra mỗi linh hồn trú
ngụ ở một vì sao trên trời và sau đó
chúng dùng cánh bay xuống trần gian
và nhập vào thể xác tạo nên con người.
khi nhập vào thể xác con người thì nó
quên hết mọi quá khứ. Vì thế nhận
thức con người là sự hồi tưởng lại
những gì mà linh hồn đã lãng quên.
Quan niệm về linh hồn bất tử của
Platon rất duy tâm, thần bí hoàn toàn
đối lập với quan niệm của Heraclite và
Democrite về linh hồn.

Platon phản đối cảm giác luận và nhận
thức luận duy vật nói chung, ông cho
rằng nhận thức cảm tính, cảm giác,
không phải là nguồn gốc của tri thức
chân thực. Kết quả của nhận thức cảm
tính chỉ là “ dư luận ”. Tri thức chân
thực chỉ có thể đạt được bằng nhận
thức lý tính và được thể hiện trong
khái niệm. Nhận thức chỉ là sự hồi

Tư duy và trí tuệ của con người hình
thành và phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải biến thế
giới đối lập với bản thân mình thành
cái của mình, ý thức con người là sản
phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của
con người càng phát triển thì ý thức
của nó càng mang bản chất xã hội.
Con người trong tương quan với nhà
nước:
Hegel cũng xem xét con người trong
tương quan với nhà nước. Theo ông
giữa cá nhân và nhà nước có hai biện
chứng, đó là gia đình và xã hội, vì thế:
“Con người có được hiện hữu là nhờ
nhà nước” và nhờ quá trình biện
chứng.

Hegel chủ trương nhà nước là một cơ
quan tìm cách phát triển ý niệm tự do

tới mức tối đa, và cá nhân chỉ đạt sự tự
do khách quan khi mỗi cá nhân cũng
làm như thế. Ông quan niệm giá trị của
con người tùy thuộc sự đáp ứng sáng


13

tưởng của linh hồn bất tử, là sự liên hệ
các chân lý được hồi tưởng. Chỉ có
linh hồn dũng cảm, có ý chí mới nhận
thức được thế giới ý niệm, nhận thức
được chân lý, như vậy đam mê, dục
vọng không thể nhận thức được chân
lý. Muốn nhận thức được chân lý phải
dũng cảm, có ý chí.

Quan
niệm
về
đạo
đức

Platon chú ý đến phương pháp nhận
thức, phương pháp đánh thức sự hồi
tưởng của linh hồn bất tử, phương
pháp đó theo ông là phép biện chứng.
Platon phủ nhận vai trò của nhận thức
cảm tính, của tư duy thuần túy đến
mức lý tưởng hóa, thần thánh hóa nó.

Phép biện chứng theo cách hiểu của
Platon là phép biện chứng duy tâm,
Platon không có đóng góp tích cực nào
về phếp biện chứng.
Đạo đức của Platon được xây dựng
dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn,
theo Platon linh hồn có 3 bộ phận là lý
trí, ý chí và nhục dục. Ông hình tượng
hóa 3 bộ phận ấy là cỗ xe song mã,
trong đó lý tính thì lái xe, con ngựa có
ý chí thì nhận thức được ý niệm, con
ngựa thèm khát nhục dục thì sa vào tối
tăm, dốt nát mà không nhận thức được
ý niệm. Platon cho rằng lý tính của linh
hồn là cơ sở của sự thông thái, ý chí là
cơ sở của lòng dũng cảm, chế ngự
nhục dục là cơ sở của sự điều độ. Sự
thông thái là một đức tính cao nhất, sự
kết hợp 3 yếu tố trên dưới sự chỉ đạo
của lý tính sẽ tạo ra chính nghĩa là yếu
tố thứ tư. Lý tính, ý chí, chế ngự dục
vọng và chính nghĩa là bốn yếu tố
trong đạo đức học của Platon.

tạo của họ trước sự khai mở của ý niệm
tự do. Hegel cho rằng các cá nhân có ý
thức về tự do và diễn tả tự do của họ
một cách cụ thể nhất bằng hành vi ý
chí. Ông coi ý chí và lý trí gần đồng
nghĩa với nhau “chỉ khi trí tuệ suy

nghĩ, ý chí mới là ý chí tự do”. Theo
ông tự do cao nhất khi cá nhân hành
động theo ý chí phổ quát, hợp lý với
toàn thể xã hội

Quan điểm triết học của Hegel về đạo
đức luôn gắn với pháp quyền, mục đích
chủ yếu của đạo đức học Hegel là phân
tích xã hội đang tồn tại chứ không phải
cái hiện thực cần phải có. Hegel nghiên
cứu đạo đức, pháp quyền, nhà nước,
gia đình là biểu hiện của sự tha hóa
“tinh thần đạo đức khách quan”.

Pháp quyền dưới góc nhìn đạo đức của
Hegel, quan điểm biện chứng về pháp
quyền theo một trình tự nhất định từ
thấp lên cao. Pháp quyền bắt nguồn từ
luân lý và đời sống đạo đức (gia đình,
xã hội dân sự, nhà nước) đến lịch sử
thế giới (pháp quyền tối cao). Trong
tác phẩm Triết học pháp quyền, lĩnh
vực đạo đức hay từ của ông dùng là
“thực thể đạo đức” bao gồm ba giai
Đạo đúc học của Platon hướng con đoạn: giai đoạn thứ nhất là gia đình,
người vào ý niệm tối cao của cái thiện,


14


giai đoạn thứ hai là xã hội công dân,
đó là sự thông thái và lòng dũng cảm. giai đoạn thứ ba là nhà nước.
Platon cho rằng chỉ có số ít người,
những chủ nô thượng lưu mới có đời
sống đạo đức với những biểu hiện tối Quan hệ đạo đức của Hegel về gia đình
cao của nó là sự thông thái và lòng là sự kết hợp giữa bản năng và tình yêu
dũng cảm. Còn quần chúng thường dân một cách bền chặt và khách quan.
chỉ có năng lực đạo đức tiêu cực, đạo Hegel không xem xét hôn nhân, gia
đức khuất phục. Platon không coi nô lệ đình dưới khía cạnh sinh học, mà xem
là con người. Với ông đó chỉ là những xét dưới khía cạnh đạo đức. Hegel
“Động vật biết nói ” không thể có đạo cũng đồng tình về tính tuyệt đối trong
đức và bảo vệ địa vị thống trị của gai hôn nhân với quan điểm một vợ một
cấp chủ nô quý tộc, đối lập với quần chồng và những người có chung huyết
chúng nhân dân.
thống không được lấy nhau. Hegel
cũng cho rằng sự khác biệt tính phái
biểu hiện qua sự phân chia bổn phận
giữa vợ và chồng trong gia đình mang
tính đạo đức. Người chồng quản lý tài
sản của cả gia đình, và có trách nhiệm
chủ yếu ngoài xã hội, trong khi đó
người vợ lại có khuynh hướng hướng
nội đối với gia đình.

Quan điểm triết học về đạo đức của
Hegel thể hiện việc trình bày các phạm
trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù cái
thiện và cái ác trong những mâu thuẫn
nội tại và sự chuyển hóa giữa chúng
với nhau. Hegel đã thấy được quy luật

của sự vận động và phát triên, trong
quá trình phát triển của lịch sử, trong
những điều kiện nhất định, cái ác và
cái thiện có thể chuyển hóa lẫn nhau,
cái ác có thể trở thành cái thiện và cái
thiện cũng có thể trở thành cái ác. Theo
quan điểm biện chứng của Hegel, hai
phạm trù thiện và ác, là sự thể hiện trọn
vẹn ý chí của con người đối với cái
toàn năng, biểu hiện sự thống nhất giữa
đạo đức cá nhân và các quyền lợi
chung. Nghĩa vụ đạo đức cao cả là yêu


15

nước, phục tùng nhà nước.
Quan
niệm
về
nhà
nước
và xã
hội

Con người chỉ có thể hoàn thiện nhân
cách trong một nhà nước được tổ chức
hợp lí, mục đích của triết học là xây
dựng một nhà nước hoàn toàn lí tưởng
và hoàn thiện. Vì vậy đạo đức học của

Platon mang nặng tính xã hội không
mang tính cá nhân như Êpiquya và
phái khắc kỷ. Tương ứng với ba phần
linh hồn con người Platon chia xã hội
làm ba hạng người tùy thuộc theo bộ
phận linh hồn nào của họ đống vai trò
chủ đạo.
Thứ nhất, đó là những nhà triết học,
nhà thông thái, đây là những người mà
lý tính đóng vai trò chủ đạo trong hoạt
động của họ.Họ luôn luôn hướng tới
cảm thụ cái đẹp và trật tự các ý niệm,
khát vọng vươn tới phúc lợi tối cao, tới
sự thật và công lý. Đó là những người
biết kiềm chế, ôn hòa những thú vui
cảm tính, họ có thể đảm nhận được vai
trò lãnh đạo, trị vị xã hội trong nhà
nước lí tưởng.
Thứ hai, đó là những người lính làm
nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho nhà nước
lí tưởng, linh hồn của họ tràn đầy xúc
cảm gan giạ và dũng cảm, biết quy
phục các khát vọng cảm tính đói với lý
trí và nghĩa vụ.
Thứ ba, đó là những người thuocj tầng
lớp nông dân, thợ thủ công, họ là
những người về cơ bản đi xa hơn
những khát vọng cảm tính. Họ thường
khỏe mạnh, thích nghi với hoạt động
chân tay bởi vì ngay từ khi sinh ra họ

đã gần gũi với các sự vật cảm tính rồi.
Nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm ra của
cải vật chất đảm bảo cuộc sống cho

Hegel coi nhà nước là mục đích tự
thân, là cái hợp lý tự nó và cho nó,
trong đó nhà nước tự do đạt tới pháp
luật tối cao phù hợp với nó. Ngược lại
với quan niệm của triết học Khai sáng
Pháp coi nhà nước phải phục vụ lợi ích
của cá nhân, Hegel cho rằng nhà nước
có ý nghĩa tuyệt đối bậc nhất đối với
lợi ích của từng cá nhân cụ thể, nó là
sự thực hiện tự do đích thực trong thế
giới. Ông không chỉ tuyên bố nhà nước
là sự thực hiện tự do, mà còn là sự chu
du của Thượng đế trong thế giới. Vì
vậy, khái niệm nhà nước của Hegel
không chỉ mang tính chất duy tâm, mà
còn có tính chất thần thánh nữa. Hegel
coi nhà nước là giai đoạn phát triển cao
nhất của thực thể đạo đức so với gia
đình và xã hội công dân, Hegel đã đặt
nhà nước đứng trên nấc thang phát
triển cao hơn so với xã hội công dân và
xã hội công dân hoàn toàn phụ thuộc
vào nhà nước. Hơn nữa, ông đã phân
biệt nhà nước hiện thực với nhà nước
lý tưởng và cho rằng nhà nước hiện
thực có thể xấu xa, còn nhà nước lý

tưởng là tốt đẹp, bởi nó là “Thượng đế
hiện thực”.

Hegel coi nhà nước lý tưởng là nhà
nước quân chủ Phổ, đạo đức mà ông
xây dựng là đạo đức bảo vệ nhà nước
quân chủ Phổ. Theo ông, nhà nước Phổ
là sự thể hiện hoàn thiện nhất của “ý
niệm đạo đức” – tức sự thần bí hóa các
mối quan hệ xã hội. Chính vì là một
nhà triết học duy tâm khách quan nên
tư tưởng của Hegel về đạo đức, nhà
nước và pháp quyền hoàn toàn mang
màu sắc thần bí, các mối quan hệ xã


16

nhà nước.
Platon tập trung sự đã kích của mình
vào chế độ dân chủ Athene, vì ông là
kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ
nô Athene ông chống lại nền dân chủ
cổ đại nói chung và nền Athene nói
riêng.

hội, công dân, nhà nước chỉ được coi là
sự thể hiện của ý niệm đạo đức. Theo
đó, pháp quyền hay quyền hạn Nhà
nước sẽ không bị ràng buộc bởi những

luân lý thuộc cấp độ thấp hơn (gia
đình, xã hội), nhưng phải chịu sự tác
động của quyền hạn tuyệt đối của tinh
thần thế giới (cấp độ cao hơn), có thể
hiểu như tòa án thế giới. Như vậy,
Hegel là đại biểu của một nền đạo đức
học định chế, theo đó con người không
phải làm bất kỳ điều gì khác ngoài
những gì đã qui định trong một cộng
đồng đạo đức. Theo đó, sự đúng đắn và
bổn phận của con người trong xã hội
do bản thân chính xã hội đó tạo ra.

Theo Platon với ba đẳng cấp là đẳng
cấp những triết gia cầm quyền, đẳng
cấp những quân nhân và đẳng cấp của
nông dân, thợ thủ công, theo sự phân
công, hai đẳng cấp trên tuyệt đối
không phải là lao động chân tay, lao
động chân tay là làm nhiệm vụ của
Theo Hegel, nhà nước là sự biểu hiện
người nông dân và thợ thủ công.
của ý chí mang tính phổ biến, là sự thể
Về sự công bằng xã hội, Platon cho hiện cao nhất của tinh thần đạo đức.
rằng công bằng của cá nhân phải gắn Việc cá nhân phải phục tùng ý chi
với công bằng của xã hội. Theo ông mang tính phổ biến này thể hiện hành
công bằng cá nhân là sự phát triển cân vi tự do, thuần lý của cá nhân. Ông
cũng bày tỏ sự phản đối gay gắt đối với
bằng những phẩm chất đạo đức.
những nhà nước hạn chế sự tự do, và

cho rằng điều này là không chấp nhận
được về mặt đạo đức.

Quan
niệm
về mỹ
học

Quan niệm về mỹ học của Platon cũng
dưa trên học thuyết về ý niệm. Platon
cho rằng cái đẹp chân thực là cái đẹp
của ý niệm, nó đối lập tuyệt đối với cái
đẹp của sự vật cảm tính. Cái đẹp của ý
niệm là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn,
tồn tại ngoài không gian và phi thời
gian, nó là bất biến. Cái đẹp của sự vât
không tuyệt vời, khả biến và tương đối.
Chỉ có thể cảm nhận cái đẹp của ý
niệm bằng lý tính, cái đẹp của ý niệm
hoàn toan khac với cái đẹp trong hiện
thực khách quan. Ông phê phán quan

Ông quan niệm mỹ học chỉ nghiên cứu
cái đẹp trong nghệ thuật mà thôi và
chúng ta lập tức loại trừ cái đẹp của tự
nhiên ra khỏi đối tượng của chúng
ta. Vì sao vậy? Ông giải thích: vì
không có tiêu chuẩn gì thống nhất được
cái đẹp của tự nhiên vốn tồn tại một
cách bàng quan, không có quy luật nào

cả. Vậy là với Hegel, cái đẹp nghệ
thuật ưu việt hơn nhiều so với cái đẹp
tự nhiên. Đặc trưng chủ yếu của cái
đẹp nghệ thuật, theo ông, là sự thống
nhất giữa khái niệm và hiện thực của
nó mà ông gọi là tinh thần và ngoại


17

niệm cho rằng cái đẹp chỉ có trong
thực tế như: Người con gái đẹp, bông
hoa đẹp, tòa lâu đài đẹp. Ông bác bỏ
quan niệm cho rằng cái đẹp là cái có
lợi ích hoặc là cái có khoái cảm do thị
giác và thính giác đem lại.
Không có cái đẹp tách rời khỏi chỉnh
thể, chủ thể nhận thức cái đẹp là linh
hồn bất tử, phương pháp nhận thức là
sự hồi tưởng.
Platon cho rằng, nghệ thuật là sự bắt
chước, nhưng không phảo bắt chước sự
vật mà bắt chước ý niệm. Theo Platon
chỉ có nghệ thuật xuất phát từ nguồn
cảm hứng do thần thánh tạo ra mới là
nghệ thuật cao quý vì nó không phải là
sự bắt chước sự vật cảm tính. Đây là
một thứ chủ nghĩa thần bí về nghệ
thuật.
Ý

nghĩa

hiện. Ông không dùng thuật ngữ nội
dung và hình thức bởi ông quan niệm
trong thực tế, hai phạm trù cơ bản đó
chuyển hóa qua lại rất tinh tế. Có được
sự thống nhất như thế, cái đẹp nghệ
thuật sẽ đạt tới tính tất yếu tự do. Tuy
nhiên, tính tất yếu phải ẩn dưới hình
thức một điều ngẫu nhiên không có chủ
ý. Đóng góp vô giá của mỹ học duy lý
Hegel là hết mực đề cao giá trị nhận
thức của nghệ thuật. Ông viết: “Nghệ
thuật thật sự trở thành vị thầy cao nhất
của các dân tộc”. Có thể nói, với
Hegel, lần đầu tiên mỹ học được xác
lập thành một khoa học thật sự

Qua việc trình bày một số quan điểm
triết học của Hegel về duy tâm, con
người, đạo đức, chúng ta thấy được sự
vận dụng một cách có hệ thống phương
pháp biện chứng của Hegel. Hegel là
người có công phê phán tư duy siêu
hình và cũng là người đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư
duy dưới dạng một quá trình, trong sự
liên hệ, vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng. Chính vì thế,
phương pháp của Hegel đã phản ánh

đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế,
đồng thời cho rằng trong mỗi giai đoạn
nhất định đều có những mâu thuẫn nội
bộ nhất định, và sự phản ánh quá trình
đó được thực hiện một cách có thứ tự,
hệ thống. Tuy nhiên, Hegel cho rằng
quá trình phát triển vật chất là do mâu
thuẫn của hoạt động tinh thần, dẫn đến
khẳng định tinh thần quy định sự tiến


18

hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế
giới. Do đó, ông đã khẳng định việc
con người sáng tạo thế giới lịch sử.
Triết học duy tâm chủ quan của Hegel
là đỉnh cao của triết học cổ điển Đức,
ông là người đã trình bày một cách có
hệ thống tư tưởng biện chứng duy tâm,
đã triển khai các phạm trù và quy luật
của phép biện chứng xuất phát từ “ý
niệm tuyệt đối”.Trong hệ thống triết
học duy tâm của mình, Hegel không
chỉ trình bày các phạm trù như: chất,
lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ông
còn là người có thể diễn đạt được một
số các quy luật theo phương pháp biện
chứng như quy luật lượng đổi dẫn đến
chất đổi và ngược lại, quy luật phủ

định của phủ định với tư cách là sự
phát triển đi lên theo hình xoắn ốc và
quy luật mâu thuẫn với tư cách là
nguồng gốc động lực của sự phát triển.

Học thuyết triết học của Hegel đã đưa
phương pháp biện chứng thành trung
tâm, thành hạt nhân chủ yếu của toàn
bộ mọi vấn đề của triết học. Phương
pháp tư duy biện chứng đã được Hegel
nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có
căn cứ vững chắc, đây là một trong
những phương pháp nghiên cứu chưa
từng từng có trong lịch sử triết học
trước Marx. Phép biên chứng của
Hegel biểu hiện ra là lý luận nhận thức,
hình thức cao nhất của logic học, của
tư duy logic.


19



×