Tải bản đầy đủ (.doc) (318 trang)

luận án tiến sĩ quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường tiểu học khu vực tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 318 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
-----˜&˜-----

HUỲNH TRỌNG CANG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
KHU VỰC TÂY NGUYÊN

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 9 14 01 14

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS Nguyễn Thành Vinh
TS. Trương Thị Thúy Hằng

HÀ NỘI - 2020

1


2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận án đều được ghi rõ nguồn gốc.


Tác giả luận án

Huỳnh Trọng Cang

2


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10

Chữ cái viết tắt
BGH
CBQL
CMHS
DTTS
GDKNS
GV
HS

HĐGDKNS
HSDTTS
KNS

Danh mục
Ban giám hiệu
Cán bộ quản lý
Cha mẹ học sinh
Dân tộc thiểu số
Giáo dục kĩ năng sống
Giáo viên
Học sinh
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Học sinh dân tộc thiểu số
Kỹ năng sống

MỤC LỤC

3


4
DANH MỤC CÁC BẢNG

4


5
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ


5


6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ ngày nay có những
thay đổi đáng kể. Nhịp độ phát triển nhanh chóng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
giao lưu quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những tác động phức
hợp, đa chiều làm ảnh hưởng và thay đổi mạnh mẽ quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của con người trong xã hội hiện đại. Cục diện mới này đã làm thay đổi cách
nhìn nhận cũng như có những quan điểm khác hơn về giáo dục. Mà vấn đề đặt ra và
quan tâm hiện nay là GDKNS cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh trong nhà trường
nói riêng.
Một thực tế trong vấn đề liên quan đến việc GDKNS là ngày nay thế hệ trẻ
thường phải đương đầu với những rủi ro đe dọa đến sức khỏe, nhân cách và cơ hội
học tập. Giáo dục kỹ năng sống hoặc giáo dục dựa trên tiếp cận KNS cung cấp cho
người học các kỹ năng để giải quyết các vấn đề nảy sinh từ các tình huống, thách
thức trong hiện thực cuộc sống. Mặt khác có thể nói trong thời đại ngày nay, KNS là
thành phần quan trọng của nhân cách con người, từ đây con người muốn sống hạnh
phúc thì đòi hỏi phải có KNS. Kỹ năng sống vừa mang tính xã hội, vừa mang tính
cá nhân. Giáo dục kỹ năng sống trở thành mục tiêu và nhiệm vụ, có ý nghĩa quan
trọng xuyên suốt tinh thần của một nền giáo dục toàn diện. Vì lẽ đó, nhu cầu được
tiếp cận, được GDKNS để hình thành và phát triển nhân cách ở mỗi người là một
nhu cầu chính đáng, trong đó có HS tiểu học.
1.2. Ở Việt Nam, từ năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực
hiện GDKNS cho HS phổ thông với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ
chức UNICEF tại Việt Nam. Giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học được thực hiện
thông qua việc khai thác nội dung của một số môn học có ưu thế như Tự nhiên - Xã
hội, Đạo đức, Mỹ thuật, Thủ công, Thể dục,...và gần đây GDKNS theo hướng tiếp

cận ở nhiều môn học và hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Như vậy có
thể thấy, theo tiến trình phát triển giáo dục và nhu cầu của xã hội về giáo dục,
GDKNS từ bản chất là một tác động giáo dục dưới phương thức lồng ghép giáo dục
trong nhà trường trở thành một quá trình giáo dục phức hợp (vừa là mục tiêu, vừa là
nhiệm vụ) chuyển mạnh từ tính chất giáo điều sang thực hành, trải nghiệm với
phương thức tác động đồng bộ trên hoạt động dạy và học của tất cả các môn học,
của các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường hướng đến phát triển năng lực
người học. Tuy nhiên, việc quản lý HĐGDKNS ở trường phổ thông nói chung và

6


7
trường tiểu học nói riêng hiện nay ở Việt Nam cũng như ở khu vực Tây Nguyên
chưa đạt đến mong muốn trong tinh thần đổi mới giáo dục vì một mặt quản lý
HĐGDKNS chưa gắn kết được mục tiêu giáo dục, hiệu quả giáo dục của nhà
trường với nhu cầu giáo dục của người học và của xã hội: hoạt động GDKNS ở
các trường tiểu học vẫn còn nặng về giáo dục lý thuyết, chủ yểu vẫn là giáo dục
lồng ghép, tích hợp qua bài học, môn học là chính và hoạt động ngoại khoá ở
trường, ở lớp là hình thức quen thuộc được tổ chức thường xuyên; mặt khác việc
hiểu và vận dụng giáo dục kỹ năng sống trong các nhà trường cũng chưa đảm bảo
với bản chất của khoa học giáo dục kỹ năng sống: chưa thực sự gắn giáo dục với
nhu cầu trong chính đời sống thực của HS, các tác động giáo dục chưa hướng đến
thao tác vật chất, chưa quan tâm kinh nghiệm, sự trải nghiệm của người học. Đặc
biệt, nhận thức của các nhà quản lý, các nhà giáo, các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường dành cho GDKNS chưa thỏa đáng do bị chi phối nặng nề bởi
quan niệm giáo dục truyền thống và tư tưởng ngại tiếp cận, thay đổi, hội nhập với
các giá trị giáo dục mới.
1.3. Chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra hay giáo dục theo tiếp cận năng
lực được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và hiện nay đã trở thành xu

thế chung của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Cùng với sự phát triển kinh tế
- xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá, điều này đã tạo ra những yêu cầu mới đối với
người lao động, do đó cũng đặt ra những thách thức mới cho sự nghiệp giáo dục thế
hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực, trong đó nổi bật với quan điểm giáo dục hướng
đến nhu cầu, giáo dục trong quy luật cung - cầu của bản chất kinh tế thị trường. Một
trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục
mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc
hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học đáp
ứng với nhu cầu giáo dục của cá nhân và của xã hội. Vậy nên, định hướng “Giáo
dục phát triển năng lực người học” được chú trọng đặt ra trong mục tiêu quản lý
giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học đáp ứng nhu cầu trong tương
quan các mối quan hệ về giáo dục ở bậc học phổ thông nói chung và ở cấp tiểu học
nói riêng và quản lý HĐGDKNS nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện kỹ năng
sống cho người học là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
1.4. Cấp tiểu học là cấp học nền tảng có vị trí quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách toàn diện ở mỗi con người. Theo Luật Giáo dục năm

7


8
2019, tại Điểm 2 - Điều 30 có nêu rõ mục tiêu của giáo dục tiểu học là “ Giáo dục
tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng phát triển toàn diện về thể chất, tình
cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con
người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và
tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về
hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật”. Vì thế, muốn dành cho HS tiểu học một môi trường
tốt nhất trong việc đặt nền móng về nhân cách và tạo tiền đề vững chắc cho quá
trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của HS thì việc quan tâm giáo dục và hình
thành các kỹ năng cần thiết ban đầu ở trường tiểu học có một vai trò và ý nghĩa

quyết định toàn bộ quá trình đó.
1.5. Thực tiễn trong bối cảnh tương quan giữa các vùng miền ở Việt Nam hiện
nay về chất lượng GDKNS cho HS tiểu học thì KNS của HS tiểu học khu vực Tây
Nguyên Việt Nam còn rất khác biệt do điều kiện hoàn cảnh và cơ hội học tập mang
lại: Học sinh chiếm đa số là HS người dân tộc thiểu số, HS vùng nông thôn, vùng
kinh tế mới, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên thiếu tự tin trong giao tiếp, khả
năng thích nghi, tự hòa nhập với môi trường ngoài cộng đồng đang sinh sống chậm
và ít linh hoạt, năng lực bản thân trong giải quyết vấn đề, xử lý tình huống và tự vệ
cá nhân trước các nguy cơ đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, nhân cách và cơ hội học
tập vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm. Bên cạnh đó, giáo dục ở Tây Nguyên
đang diễn biến trong tình trạng tỷ lệ HS hoàn thành chương trình giáo dục phổ
thông có chiều hướng suy giảm, cụ thể sau khi hoàn thành chương trình bậc tiểu học
số HS tiếp tục học lên THCS và THPT giảm dần. Từ đây, có một bộ phận người học
dừng việc học và trở thành người lao động trong nhiều lĩnh vực sản xuất tại địa
phương và khu vực, trong đó phần lớn rơi vào đối tượng là HS dân tộc thiểu số với
nhiều nguyên nhân khác nhau. Thực trạng này đã đặt ra những thách thức cho
nguồn nhân lực của khu vực trước những vấn đề cần quan tâm giải quyết; cụ thể, tỷ
lệ người lao động có học vấn tiểu học chiếm đa số gây không ít khó khăn trong vấn
đề tìm kiếm và giải quyết việc làm, trong chiến lược nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định an ninh chính trị trong
khu vực và đây cũng là nguyên nhân tạo ra áp lực trực tiếp cho chính người lao
động cũng như các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong quản lý, sử dụng nguồn nhân
lực địa phương bởi những khác biệt xuất phát từ những vấn đề của người lao động
có trình độ học vấn thấp như việc người lao động còn hạn chế về năng lực nhận
thức bản thân, năng lực xã hội, năng lực tiếp cận kiến thức, kỹ năng ngành nghề, ý

8


9

thức kỷ luật lao động,… so với tiêu chuẩn, yêu cầu của nhà tuyển dụng. Trong khi
đó, thực tế việc quản lý HĐGDKNS cho HS ở các trường tiểu học khu vực Tây
Nguyên vẫn ở tình trạng của những định hướng chung của khung chương trình giáo
dục cơ bản. Mục tiêu GDKNS cho HS tiểu học thường được thực hiện qua những
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề chủ điểm năm học, giáo dục tích
hợp trong định hướng của ngành,…; việc thiếu gắn kết giữa lý luận và thực tiễn
trong quá trình quản lý HĐGDKNS sống dẫn đến chưa đáp ứng được nhu cầu giáo
dục của người học và của xã hội vì một nguyên nhân chủ yếu là trong điều kiện giáo
dục ở vùng kinh tế, xã hội khó khăn, nguồn cung giáo dục KNS hạn chế về cả nhân
lực, tài lực và vật lực nên chưa đủ năng lực để vận hành và triển khai các nội dung,
phương pháp giáo dục mới nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý mong đợi; đặc biệt
tư duy quản lý của đội ngũ CBQL ở các nhà trường vẫn trong tình trạng chậm cải
tiến trước xu thế đổi quản lý giáo dục. Đây thực sự là tâm điểm cần sớm được can
thiệp và cải thiện trong quản lý GDKNS cho HS ở các trường tiểu học khu vực Tây
Nguyên nói chung, HS tiểu học dân tộc thiểu số nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Bởi vậy, thực hiện tốt quản lý HĐGDKNS cho học sinh ở các trường tiểu
học khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh khan hiếm về nguồn vốn xã hội dành cho
giáo dục KNS sẽ góp phần giải quyết vấn đề về đổi mới giáo dục và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, vấn đề về chuẩn bị và đón đầu cho những diễn biến mang
đậm nét đặc thù về nguồn nhân lực của khu vực Tây Nguyên. Thế nên, việc Hiệu
trưởng và các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường tổ chức quản lý
HĐGDKNS cho HS tiểu học khu vực Tây Nguyên bằng con đường và cách thức
như thế nào là phù hợp, quản lý hoạt động GDKNS cho đối tượng này nên ra
sao để đạt đến hiệu quả mong muốn thì cần có những nghiên cứu cụ thể để đáp
ứng nhu cầu cấp thiết, khách quan trong vận dụng và phát triển khoa học quản
lý giáo dục. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên” để
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý HĐGDKNS cho học sinh

tiểu học ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên, đề xuất hệ thống biện pháp
quản lý thích ứng và phù hợp với đặc thù về kinh tế, văn hoá, giáo dục của khu vực,
hướng đến mục đích tìm kiếm, khai thác các nguồn vốn xã hội, tăng cường các
nguồn cung giáo dục, đáp ứng nhu cầu về quản lý HĐGDKNS ở các trường tiểu học

9


10
khu vực Tây Nguyên và nhu cầu về GDKNS của cá nhân, của xã hội trong bối cảnh
đổi mới giáo dục tiểu học hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở trường tiểu học
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường tiểu học
khu vực Tây Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Tây Nguyên, với đặc điểm của vùng kinh tế, xã hội khó khăn nên các nguồn
vốn xã hội chưa tương xứng và chưa đáp ứng được nhu cầu về quản lý HĐGDKNS
cho HS ở trường tiểu học. Việc quản lý HĐGDKNS cần phải được thực hiện bởi các
chủ thể quản lý với chức năng, nhiệm vụ cụ thể và được tổ chức bằng những cách
thức quản lý linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở khai thác, tăng cường và vận dụng có
hiệu quả các nguồn vốn xã hội hiện thực của khu vực, đảm bảo triển khai giáo dục
và quản lý giáo dục trong một môi trường thích ứng, giải quyết tốt vấn đề tương
quan trong mối quan hệ cung và cầu giáo dục. Do đó, nếu đề xuất và thực hiện đồng
bộ các biện pháp dựa trên mục tiêu của quản lý và giải pháp kinh tế giáo dục trong
quản lý HĐGDKNS cho HS đáp ứng các điều kiện trên thì HĐGDKNS cho HS ở
trường tiểu học khu vực Tây Nguyên sẽ có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý HĐGDKNS cho HS tiểu học.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng về quản lý HĐGDKNS tại các trường tiểu
học khu vực Tây Nguyên.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý HĐGDKNS cho HS ở các trường tiểu học
khu vực Tây Nguyên.
5.4. Thực nghiệm 2 trong số các biện pháp được đề xuất.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng HS người dân tộc thiểu số ở các trường tiểu
học khu vực Tây Nguyên, nghiên cứu về quản lý HĐGDKNS cho đối tượng này. Cụ thể:
Nghiên cứu thực trạng về GDKNS và quản lý HĐGDKNS cho HS dân tộc
thiểu số ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên;
Nghiên cứu biện pháp quản lý HĐGDKNS cho HS dân tộc thiểu số ở các
trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.

10


11
6.2. Về địa bàn nghiên cứu
Hoạt động nghiên cứu được triển khai tại 20 trường tiểu học công lập thuộc địa
bàn của 5 tỉnh khu vực Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk; Đăk Nông, Lâm
Đồng với 10 đơn vị hành chính thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
6.3. Về đối tượng khảo sát nghiên cứu
- Điều tra khảo sát tập trung ở các thành phần là Ban giám hiệu (Hiệu
trưởng, các Phó hiệu trưởng), Tổ trưởng chuyên môn, cán bộ Đoàn - Đội, giáo
viên, nhân viên và học sinh trong các trường tiểu học.
- Tổ chức phỏng vấn tập trung vào các lực lượng liên quan là Ban đại diện Cha
mẹ học sinh ở các trường tiểu học; đại diện chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, đơn

vị; các chức sắc trong cộng đồng thuộc địa bàn nghiên cứu.
- Tổ chức thảo luận nhóm để thu thập thông tin từ giáo viên, học sinh và một số
thành phần liên quan từ các lực lượng giáo dục bên ngoài nhà trường thuộc 10 địa bàn
nghiên cứu.
- Quan sát và theo dõi hoạt động giáo dục của 10 trường tiểu học để bổ trợ thêm
thông tin nghiên cứu.
6.4. Thời gian khảo sát, nghiên cứu
Thời gian thực hiện khảo sát, nghiên cứu từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2018.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các tiếp cận trong
nghiên cứu. Hai cách tiếp cận chủ đạo được sử dụng trong luận án là:
7.1.1. Tiếp cận mục tiêu
Tiếp cận theo mục tiêu là cách tiếp cận nhấn mạnh mục tiêu của đối tượng,
coi mục tiêu là tiêu chí để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành và
đánh giá kết quả. Tiếp cận mục tiêu để phân tích làm rõ mục tiêu của quản lý
HĐGDKNS, mục tiêu GDKNS; phân tích thực trạng thực hiện các nội dung quản lý
trên cơ sở đó xây dựng nội dung và biện pháp quản lý hoạt động GGKNS phù hợp,
khả thi của đề tài.
7.1.2. Tiếp cận kinh tế giáo dục
Vận dụng quy luật cung - cầu, các yếu tố về kinh tế thị trường, các phương
thức hợp tác kinh tế vào quản lý HĐGDKNS trong các trường tiểu học khu vực Tây
Nguyên hướng đến phát triển năng lực người dạy, người học, đáp ứng nhu cầu
GDKNS cho cá nhân và xã hội.

11


12
Ngoài hai cách tiếp cận chủ đạo trên, luận án còn kết hợp sử dụng một số

cách tiếp cận khác nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu:
7.1.3. Tiếp cận cấu trúc đối tượng
Tiếp cận này dựa trên sự nhận thức đầy đủ về tính hệ thống của đối tượng
quản lý là hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của trường tiểu học, đặc
biệt là cấu trúc của đối tượng đó. Kết quả nhận thức về cấu trúc của đối tượng cho
phép chủ thể quản lý xác định được các thành tố cấu trúc của đối tượng và thực hiện
những tác động đến từng thành tố này nhằm tạo ra những thay đổi của đối tượng
quản lý.
7.1.4. Tiếp cận chức năng
Theo tiếp cận này, nội dung quản lý là sự triển khai đồng bộ các chức năng
cơ bản của quản lý đối với hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của trường
tiểu học.
7.1.5. Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận quan điểm hệ thống giữa các thành tố có mối quan hệ biện chứng
trong việc nghiên cứu GDKNS và quản lý HĐGDKNS cho HS dân tộc thiểu số ở
các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên như: chủ thể - khách thể; mục đích - nội
dung - phương pháp - hình thức; ý nghĩa biện pháp - nội dung biện pháp - điều kiện
thực hiện biện pháp; giáo dục kỹ năng sống - giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
tiểu học - giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học dân tộc thiểu số; hoạt động
sư phạm trong nhà trường - hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; nhu cầu
- đáp ứng nhu cầu,...
7.1.6. Tiếp cận lịch sử - logic
Xem xét quá trình phát triển, mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
GDKNS và quản lý HĐGDKNS tại các trường tiểu học để giải quyết tốt những vấn
đề cấp thiết trong công tác quản lý HĐGDKNS cho HS dân tộc thiểu số ở các
trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.
7.1.7. Tiếp cận thực tiễn
Khảo sát, đánh giá thực trạng nhu cầu về giáo dục KNS của cá nhân và của
xã hội; đánh giá thực trạng về GDKNS và quản lý HĐGDKNS ở các trường tiểu học
trong khu vực, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phù hợp, hiệu quả có giá trị lý

luận và thực tiễn trong quản lý HĐGDKNS cho dân tộc thiểu số ở các trường tiểu
học khu vực Tây Nguyên

12


13
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về vấn đề giáo dục trong nhà trường và GDKNS cho HS phổ thông, trong đó
có HS tiểu học; phân tích tổng hợp những tư liệu, tài liệu lý luận, những kết quả
nghiên cứu lý thuyết và những kết quả khảo sát, đánh giá về việc quản lý
HĐGDKNS cho HS trong trường tiểu học để xây dựng các khái niệm công cụ và
khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin từ các đối tượng thông
qua việc trưng cầu ý kiến về các vấn đề liên quan đến thực trạng về KNS, về
GDKNS và quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường tiểu học khu vực Tây
Nguyên. Các đối tượng tham gia điều tra gồm cán bộ quản lý, cán bộ Đoàn - Đội,
giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh; chính quyền địa phương, các lực lượng giáo
dục trong cộng đồng xã hội trên địa bàn nghiên cứu.
+ Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về các nguyên nhân của
thực trạng quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường tiểu học khu vực Tây
Nguyên và tìm hiểu quan điểm của các đối tượng được phỏng vấn về vấn đề nghiên
cứu. Đối tượng phỏng vấn bao gồm đại diện các thành phần giáo dục ở các trường
như Ban giám hiệu, Tổ trưởng chuyên môn, Phụ trách công tác Đoàn - Đội, thành
viên Ban đại diện cha mẹ học sinh, cha mẹ học sinh, HS của các trường tiểu học; đại

diện các ban ngành, đoàn thể trong cộng đồng; các chức sắc tại địa phương.
+ Phương pháp chuyên gia
Lấy ý kiến từ các chuyên gia là các nhà khoa học, các cán bộ quản lý các cấp về
một số kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đồng thời thông qua đó để đánh giá tính
khả thi của các biện pháp quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường tiểu học khu
vực Tây Nguyên.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Thu thập thông tin thông qua việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, các buổi
tổng kết hoạt động giáo dục, trưng cầu ý kiến của các lực lượng giáo dục về kinh
nghiệm địa phương trong công tác quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường
tiểu học khu vực Tây Nguyên.

13


14
+ Phương pháp thực nghiệm
Thông qua tổ chức thực nghiệm hoặc thử nghiệm, triển khai ứng dụng biện pháp
được lựa chọn tại các trường tiểu học trong khu vực để kiểm chứng kết quả nghiên cứu
của đề tài, đồng thời khẳng định tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp đề xuất trong
quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.
7.2.3. Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng phương pháp quan sát (công cụ là phiếu quan sát) để thu thập thông
tin về mức độ; xác định những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập
trong công tác quản lý và tổ chức thực hiện các nội dung, hình thức GDKNS cho
HS DTTS ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học (công cụ là các phần mềm toán học)
để xử lý các kết quả điều tra bằng phiếu hỏi từ đó phân tích các số liệu có liên quan
với nhiệm vụ nghiên cứu.
8. Các luận điểm bảo vệ

Căn cứ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và giả thuyết khoa học, luận án đưa
ra 4 luận điểm sau:
8.1. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là một trong những hoạt động giáo dục
ở trường tiểu học nên có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động giáo dục, đồng thời có
những khác biệt với những hoạt động giáo dục khác đang được thực hiện ở trường
tiểu học về mục tiêu, nội dung và phương thức, con đường thực hiện.
8.2. Tiếp cận mục tiêu (mục tiêu quản lý) và tiếp cận kinh tế giáo dục là một
số cách tiếp cận để xác định nội dung quản lý trong quản lý từng đối tượng cụ thể.
Căn cứ vào mục tiêu quản lý và giải pháp kinh tế trong quản lý HĐGDKNS cho HS
ở trường tiểu học sẽ xây dựng được các nội dung của quản lý hoạt động này ở các
trường tiểu học.
8.3. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường tiểu
học khu vực Tây Nguyên được thực hiện bằng con đường tác động đồng bộ và có
hệ thống các chức năng quản lý lên mục tiêu quản lý và giải pháp kinh tế giáo dục
hướng tới giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa cung và cầu giáo dục trong bối
cảnh đặc thù về kinh tế, văn hoá, giáo dục của khu vực, hướng đến mục tiêu tăng
cường các nguồn vốn xã hội cho giáo dục, đáp ứng nhu cầu về quản lý HĐGDKNS
ở các trường tiểu học và nhu cầu về GDKNS của cá nhân, của xã hội ở khu vực Tây
Nguyên.
8.4. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua mô hình hoạt động
trải nghiệm - kết nối nội dung giáo dục kỹ năng sống với vận động, với thao tác vật

14


15
chất, với đời sống thực của người học hướng đến hình thành và phát triển năng lực
người học.
9. Những điểm mới của luận án
Phản ánh cơ bản những nét đặc thù trên các bình diện trong hoàn cảnh sống

của học sinh dân tộc thiểu số ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên có tác
động đến sự khác biệt về năng lực KNS của HS cũng như nhu cầu của cá nhân và
xã hội trong khu vực.
Khái quát và cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng và nguyên nhân
của thực trạng trong quản lý HĐGDKNS cho HS DTTS ở các trường tiểu học khu
vực Tây Nguyên giai đoạn hiện nay.
Đề xuất hệ thống biện pháp quản lý HĐGDKNS phù hợp với đối tượng, với
những thách thức và đặc trưng về vùng miền của khu vực Tây Nguyên.
Đưa cách tiếp cận kinh tế giáo dục, các vấn đề về cầu giáo dục, cung giáo
dục, hợp tác công tư vào vận dụng thích ứng với điều kiện pháp lý hiện thực, với
các quan điểm, định hướng về đổi mới giáo dục giai đoạn hiện nay góp phần làm
sáng tỏ giải pháp kinh tế giáo dục trong quản lý giáo dục và giải quyết những vấn
đề có tính cấp thiết trong giáo dục và quản lý HĐGDKNS đối với vùng kinh tế - xã
hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên. Đồng thời làm
rõ nhu cầu của xã hội về GDKNS, trong đó đánh giá đúng vai trò của các tổ chức,
cá nhân trong xã hội với tư cách là các đồng chủ thể trong quá trình quản lý
HĐGDKNS ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần “Mở đầu”, “Kết luận”, “Danh mục tài liệu tham khảo”, luận án
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh tiểu học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
ở các trường tiểu học khu vực Tây Nguyên.

15



16
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
Trên thế giới, từ lâu, đã có nhiều nghiên cứu lý luận về KNS và GDKNS,
GDKNS với nội dung cơ bản là đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho nguồn nhân lực là
mối quan tâm hàng đầu của các ông chủ cùng các chuyên gia cộng sự thuộc quyền
và con người, phát triển năng lực con người là những vấn đề trọng yếu trong các
nghiên cứu trên toàn cầu, đặc biệt nổi bật có GDKNS và KNS.
Kỹ năng sống là năng lực cá nhân, là điều kiện để con người thực thi đảm
bảo các chức năng và sống đời sống hàng ngày. Những năm 1960, các khía cạnh:
khái niệm, nội dung và hình thức GDKNS đã được quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu
bởi các nhà khoa học trên thế giới, từ đây khái niệm KNS và GDKNS từng bước
được hình thành và phát triển đầy đủ và rõ nét. Kiến thức-Kỹ năng-Thái độ là các
thành tố hợp thành học vấn của một trong người mà trong nghiên cứu của Tổ chức
Giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã chỉ ra đã mang đến
hơi hướng mới cho giáo dục toàn cầu, trong đó khẳng định kỹ năng và thái độ là hai
thành tố đóng vai trò then chốt [8].
Thuật ngữ “Kỹ năng sống” đã có mặt trong nhiều chương trình giáo dục và
chương trình hành động của các tổ chức lớn ở nhiều nước trên thế giới từ những năm
1990, khái niệm chung về KNS, GDKNS, mục tiêu - nội dung GDKNS là các vấn đề
được tập trung hướng đến trong tất cả các nghiên cứu và ra đời trong sự thống nhất
nghiên cứu về mục tiêu GDKNS là nâng cao tiềm năng của con người, để con người
có được những hành động nhằm thích ứng, làm chủ cuộc sống và nâng cao chất
lượng cuộc sống. Đặc biệt, các tổ chức lớn trên thế giới khuyến khích, cổ vũ việc các
quốc gia đưa GDKNS vào trong chương trình giáo dục của mình.
Theo tổ chức UNESCO, hệ thống KNS gồm 2 nhóm: Nhóm những KNS
khái quát, cơ bản gồm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỹ

năng xã hội (kỹ năng tương tác) và nhóm những kỹ năng cụ thể: phòng chống
bạo lực, bảo vệ thiên nhiên và môi trường, gia đình và cộng đồng và các vấn đề
về giới [136].
Theo Tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc) thì GDKNS tạo ra sự
thay đổi hành vi, sự chuyển đổi kiến thức và thái độ thành hành động. Theo Tổ chức

16


17
này, các kỹ năng đọc, viết, tính toán là những trở ngại lớn nhất và nhiều nhất mà trẻ
em và các thanh niên phải đối mặt. UNICEF đã đề xuất một hệ thống KNS gồm 3
nhóm kỹ năng phản ánh toàn bộ quá trình tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân
như sau: Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình (kỹ năng tự nhận
thức và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, kỹ năng bảo vệ
bản thân,…); Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác (kỹ năng thiết
lập quan hệ., kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm,…);
Nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả (kỹ năng phân tích vấn đề, kỹ
năng nhận thức thực tế, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng ứng xử, kỹ năng giải quyết
vấn đề,…) [14].
Theo Tổ chức WHO (Tổ chức Y tế thế giới) hệ thống KNS cần đạt được ở
người học gồm các nhóm kỹ năng sống sau: Nhóm kỹ năng nhận thức (kỹ năng tự
nhận thức bản thân, kỹ năng nhận thức hậu quả, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng
xác định mục tiêu, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải
quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo,…); Nhóm kỹ năng xã hội hay kỹ năng tương
tác (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương lượng, kỹ năng từ chối, kỹ năng hợp tác, kỹ
năng quyết đoán, kỹ năng cảm nhận ý chí của người khác, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
đồng cảm và chia sẻ,…), Nhóm kỹ năng đương đầu với cảm xúc (kỹ năng kiềm chế
căng thẳng, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tự quản lý, kỹ năng tự giám sát, kỹ
năng tự điều chỉnh, kỹ năng ý thức trách nhiệm, kỹ năng cam kết,…). Trên cơ sở hệ

thống các nhóm KNS nêu trên, WHO cho rằng: Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã
hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng
ngày, cụ thể năng lực tâm lý xã hội của mỗi con người phát huy được tiềm năng tốt
về mặt thể chất, tinh thần và mặt xã hội của cá nhân đó, có nghĩa rằng KNS là năng
lực tâm lý giúp cá nhân ứng phó hiệu quả và có được trạng thái ổn định trước những
yêu cầu, thách thức của cuộc sống, duy trì được sự khoẻ mạnh về tinh thần cùng các
hành vi tích cực và phù hợp khi tương tác với con người, nền văn hoá và môi trường
sống [88].
Khái quát chung, 10 KNS cơ bản, cần thiết hướng tới phát triển năng lực con
người: kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kỹ năng ứng phó với cảm xúc, kỹ năng thấu
cảm, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng truyền thông có
hiệu quả, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng giải quyết vấn
đề, kỹ năng ra quyết định là quan điểm thống nhất từ các Tổ chức UNESCO,
UNICEF và WHO [72].

17


18
Từ những năm 2000, mục tiêu GDKNS và hình thành thái độ được quan tâm
và nhấn mạnh trong chương trình giáo dục ở tất cả các lứa tuổi của các quốc gia trên
thế giới. Đặc biệt, GDKNS cho HS trong nhà trường đã được thực hiện rộng khắp
trên toàn cầu. Theo tài liệu của UNICEF, đã có hơn 155 quốc gia đưa GDKNS vào
trường học thông qua nhiều con đường khác nhau và Kế hoạch hành động DaKar
năm 2000 về giáo dục cho mọi người có nội dung yêu cầu mỗi quốc gia cần thiết
phải đảm bảo cho người học được tiếp cận với GDKNS phù hợp với điều kiện của
quốc gia mình [123].
Trong những năm gần đây, vấn đề lý luận và thực tiễn về GDKNS dành cho
hầu hết các lực lượng giáo dục liên quan được rất nhiều nghiên cứu tổng kết và giới
thiệu: Early Years Play and Learning: Developing social skills and cooperation

(Phát triển kỹ năng xã hội và hợp tác thông qua học tập và vui chơi trong những
năm đầu đời) của Pat Broadhead (2004) hướng dẫn giáo viên dạy trẻ các kỹ năng
liên quan đến ngôn ngữ, trí tuệ và cảm xúc và hướng dẫn học sinh tham gia, đánh
giá khi chơi các trò chơi KNS; Life Skill Education and Curriculum (Chương trình
và Giáo dục Kỹ năng sống) của Graccious Thomas (2006) nhấn mạnh vai trò của
giáo viên và huấn luyện viên trong việc tổ chức học sinh tiếp cận KNS; The
Indispensable-Book of Practical Life Skills (Sách về những kỹ năng thực hành thiết
yếu) của Nic Compton (2009) đề xuất các phương thức giải quyết các tình huống
cuộc sống trong trạng thái lo lắng, hoang mang ở trẻ; The Practical Life Skills
Workbook (Sách hướng dấn thực hành kỹ năng sống) của Ester A. Leutenberg và
John J. Liptak (2009) đưa ra vấn đề về tầm quan trọng của KNS trong cuộc sống
hàng ngày, đồng thời thiết lập mối quan hệ giữa KNS với trí thông minh, cảm xúc,
nhân cách và sự thành công của cá nhân; Thêm vào đó là Teaching Your Children
Life Skills (Dạy kỹ năng sống cho trẻ em) của Deborah Carroll đã đưa ra 10 lưu ý
khi dạy trẻ, giúp cuộc sống thường nhật của trẻ (mua sắm, dã ngoại, gặp gỡ, giao
lưu,…) trở thành những cơ hội tiếp cận, học tập và thể nghiệm các KNS, hơn thế
các tác giả đã đề xuất các con đường ngắn nhất để giúp trẻ biết đối xử tử tế và phát
triển lòng tự trọng [109].
Bên cạnh các nghiên cứu lý luận hình thành nên một luận điểm khoa học mới
về KNS và GDKNS là các nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn về GDKNS cho HS
tiểu học của nhiều nhà khoa học trên thế giới cung cấp cho nền khoa học giáo dục
nhiều nguồn thông tin có giá trị. Khalid Rashid (2013) với các nghiên cứu về
GDKNS cho trẻ em ở Pakistan đã phát hiện ra rằng: Trẻ được chuẩn bị về KNS

18


19
trước khi bước vào tiểu học sẽ tốt hơn trẻ không được chuẩn bị và nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng trẻ em có xuất thân trong các tầng lớp gia đình khác nhau sẽ có những

giá trị kỹ năng khác nhau và thành tích vượt trội ở trường tiểu học dành cho nhóm
trẻ thuộc các gia đình quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục trẻ trước tuổi đến trường,
quan điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác đồng thuận [122].
Tại Mỹ, Jane Tuttle, Nancy Campbell-Heider, Tamala M. David (2006) đã
thành công với chương trình giáo dục cho trẻ em 12 - 16 tuổi về kỹ năng giải quyết
vấn đề và kỹ năng tư duy tích cực [120]. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu về GDKNS
cho HS tiểu học về phát triển kỹ năng suy luận cho HS tiểu học thông qua các
chương trình giáo dục kỹ năng xã hội của Muge Yukay Yuksel (2013) đã chỉ ra rằng
hành vi xã hội ở trường của trẻ không đồng nhất với khả năng học tập, tuy nhiên sự
thông minh của trẻ có tác động tích cực đến năng lực hiểu biết xã hội, năng lực học
thuật và hành vi chống đối xã hội; ngoài ra nghiên cứu cũng cho thấy sự khác biệt
về KNS của trẻ ở trường tiểu học phụ thuộc vào giới tính, cụ thể: năng lực xã hội
của trẻ em nữ cao hơn trẻ em nam, trong khi đó hành vi xã hội không tích cực ở trẻ
em nam cao hơn ở trẻ em nữ [128].
Tại Canada, với chương trình GDKNS thông qua hoạt động thể thao đồng
đội, nhà nghiên cứu Marios Goudas, Georgios Giannoudis (2007) đã đánh giá trên
165 học sinh độ tuổi 11 - 13 tuổi về thành tích thể thao, kỹ năng xây dựng mục tiêu
và giải quyết vấn đề, kết quả nhóm trẻ thực nghiệm này có năng lực cao hơn nhóm
trẻ đối chứng [124] và đồng thời từ năm 1985 đến 2006 là nghiên cứu của nhóm các
nhà khoa học Shauna Kingsnorth, Helen Healy, Colin Macarthur (2007) đã đi đến
xây dựng chương trình GDKNS giúp hình thành và phát triển kỹ năng tự lập cho
thanh thiếu niên thiểu năng [134].
Tại Iran (2010), một nhóm các nhà khoa học Fariba Bashardoost Tajalli,
Zahra Zandi đã tổ chức nghiên cứu và đưa ra kết luận về sự khác biệt trong kỹ năng
tư duy sáng tạo của học sinh ở Tehran (so sánh năng lực của nhóm trẻ tham gia
chương trình huấn luyện KNS và nhóm trẻ đối chứng), đồng thời khẳng định rằng
GDKNS được thực hiện ở tiểu học và trung học là nền tảng để hình thành và phát
triển khả năng tâm lý xã hội của con người [116]. Bên cạnh đó, năm 2011 kết quả
nghiên cứu việc huấn luyện KNS làm gia tăng kỹ năng tôn trọng, kỷ luật học đường
và nhân cách của sinh viên thành phố Karaj, Iran thông qua phương pháp thang đo

của Cooper Smith về lòng tự trọng cũng được khẳng định bởi nhóm các nhà khoa

19


20
học Esmaeilinasab Maryam, Malek Mohamadi Davuod, Ghiasvand Zahra, Bahrami
Somayeh [115].
Ở một số nước khác, các nghiên cứu về hiệu quả của GDKNS cho HS cũng
phát triển mạnh: Nghiên cứu rất thành công về kỹ năng thích ứng xã hội của học
sinh lớp 4 dựa trên thang đo kỹ năng xã hội Mattston của nhóm các nhà khoa học
Bita Rahmati, Nastaran Adibrad, Karineh Tahmasian, Bahram Saleh Sedghpour
(2010), trong nghiên cứu này các nhà khoa học xem GDKNS là một tiếp cận có tác
dụng làm thay đổi hành vi với sự phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của
người học như tự nhận thức, giao tiếp, ra quyết định, quản lý cảm xúc, quyết đoán,
xây dựng mối quan hệ [110].
Một nghiên cứu khác đã chứng minh rằng chương trình huấn luyện GDKNS
đã làm gia tăng sự hài lòng của nữ sinh, nghiên cứu được Akbar Mohammadi
(2011) thực hiện trên một chương trình GDKNS bởi công cụ đánh giá đối chứng
trước và sau khi thực hiện chương trình thông qua một bảng hỏi về sự hài lòng đối
với cuộc sống của nữ sinh trường trung học Tabriz, Iran [108].
Đồng thời, cũng với việc xem KNS như là những kỹ năng xã hội và khẳng
định vai trò của GDKNS trong việc hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội
của người học, một nghiên cứu được thực hiện trên 224 trẻ em 6 tuổi bằng Thang
đánh giá kỹ năng xã hội (Avcioglu, 2003) và Thang đo cảm xúc, hành vi xã hội
(Epstein, Synhorst, Cress & Allen, 2009) của nhóm nghiên cứu Emel Arslan,
Neslihan Durmus, Oglu-Saltali và Hasan Yilmaz đã cho thấy một sự tương tác tích
cực giữa các phẩm chất của học sinh tiểu học với các kỹ năng xã hội như: hiểu
biết các quy tắc cảm xúc, hiểu biết học đường, sự tự tin và sự gắn kết với gia đình.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa cảm xúc và hành vi của trẻ với

kỹ năng xã hội [114].
Bên cạnh đó, một thực nghiệm sử dụng Thang đo của Rigby&Slee trong
chương trình giáo dục kỹ năng xã hội trên các nam sinh tiểu học thành phố Esfahan,
Iran (2012), nhóm các nhà nghiên cứu đứng đầu là Mansoureh Moghtadaie đã đưa
ra kết quả cho thấy huấn luyện kỹ năng xã hội có thể phát triển mối quan hệ giữa
các trẻ em trong cùng độ tuổi [125], và trong thời điểm này không thể không kể đến
kết quả nghiên cứu về sự cải thiện vốn hiểu biết xã hội và trình độ cảm xúc của học
sinh bởi các chương trình huấn luyện KNS của nhóm các nhà khoa học Sevil
Momeni, Manoucher Barak, Reza Kazemi, Abbas Abolghasemi, Masoud Babaei và
Frahnaz Ezati [133].

20


21
Như vậy có thể nói rằng, rất nhiều chương trình GDKNS đã được nghiên
cứu, thực nghiệm trên thế giới và đã tạo ra một hệ thống lý luận khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn phong phú về KNS và GDKNS, điều này góp phần đáng kể trong
việc hình thành và phát triển KNS cho HS từ bậc tiểu học đến bậc trung học trên
toàn cầu.
Tại Việt Nam, từ năm 1990, các chủ trương, chính sách về GDKNS cho
người học bắt đầu xuất hiện, khởi động cho một xu thế mới trong lĩnh vực giáo dục.
Mở đầu là thông tư số 1363/TTg của Thủ tướng chính phủ về việc “Đưa nội dung
giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” nhằm định hướng cho người
học cách nhìn nhận và có hành vi đúng đắn về vấn đề môi trường sống [2]; kế đến
là Chỉ thị số 10/CT-GD&ĐT (1995) và Chỉ thị số 24/CT-GD&ĐT (1996) được ban
hành bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo về phòng chống HIV/AIDS và tăng cường phòng
chống tệ nạn ma tuý trong học đường, các chỉ thị đã đề cập đến các kỹ năng ứng xử,
từ chối, tự bảo vệ và chia sẻ giúp người học phòng tránh hiểm hoạ ma tuý và căn
bệnh thế kỷ [7]; cùng thời điểm này, thuật ngữ Kỹ năng sống được người Việt Nam

biết đến từ chương trình UNICFF (1996) “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức
khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường ”.
Thông qua quá trình hoạt động chương trình này, nội dung của khái niệm KNS và
GDKNS càng ngày được mở rộng. Trong giai đoạn đầu tiên, chương trình chỉ tập
trung vào các chủ đề “Giáo dục sức khỏe cho thanh thiếu niên”. Giai đoạn 2 của
chương trình mang tên “Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng sống”. Trong giai
đoạn này nội dung của khái niệm KNS và GDKNS đã được mở rộng và phát triển
sâu sắc hơn góp phần giáo dục và hình thành ở thanh thiếu niên những kỹ năng
cần thiết [93].
Ngay giai đoạn đầu đã có những nghiên cứu theo xu hướng xác định những
kỹ năng cần thiết ở các lĩnh vực hoạt động mà thanh thiếu niên tham gia và đề xuất
các biện pháp để hình thành các kỹ năng này. Một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu cho hướng đi này là: Cẩm nang tổng hợp kỹ năng hoạt động thanh thiếu niên,
của tác giả Phạm Văn Nhân [83]; Kỹ năng thanh niên tình nguyện, tác giả Trần Thời
[94]. Một trong những người tập trung nghiên cứu mang tính hệ thống về KNS và
GDKNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình với hàng loạt các bài báo, các
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và giáo trình, tài liệu tham khảo,…tác giả
Nguyễn Thanh Bình đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra những hướng nghiên cứu
về KNS, GDKNS và quản lý hoạt động giáo dục này [9], [10], [11], [12], [13].

21


22
Đến những năm 2000, khi vấn đề về KNS và GDKNS được giới khoa học và
những người làm công tác giáo dục quan tâm ngày càng nhiều thì nội dung về KNS
và GDKNS trở thành mục tiêu chính thức của hệ thống giáo dục phổ thông Việt
Nam. Minh chứng cho sự thay đổi này là Dự án “Giáo dục sống khoẻ mạnh, kỹ
năng sống cho trẻ vị thành niên” do UNICEF tài trợ với mục đích trang bị cho học
sinh trung học cơ sở và trẻ em ở một số trường học những kỹ năng cơ bản về phòng

chống HIV/AIDS, ma tuý, sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên, vấn đề giới tính và
tình dục thuộc nhiều vùng miền khác nhau ở Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hà Nội, Kon Tum, Gia Lai, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh
hướng đến hình thành ở học sinh và trẻ em thái độ sống tích cực và lành mạnh, có
nhận thức đúng đắn về cuộc sống xã hội, có năng lực độc lập để tự bảo vệ bản thân
và hơn hết là tác động đến sự thay đổi trong nhận thức của cha mẹ học sinh về việc
quan tâm định hướng, giáo dục con em mình trong lĩnh vực này [104]. Đồng thời
cũng xuất hiện ngày càng nhiều các chương trình tài trợ cho HĐGDKNS, các hội
nghị và hội thảo bàn về GDKNS cho HS trong phạm vi quốc gia như Dự án VIE
01/2010 do UNFPA tài trợ tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoại khoá trong
giáo dục, Hội thảo quốc gia “Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống - 2003” do
UNESCO và Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng tổ chức thực hiện, qua hội thảo các nhà
khoa học, các nhà giáo dục cùng đi đến những đánh giá chung về chất lượng
GDKNS trong giai đoạn này, trên cơ sở đó hội thảo cũng đã hệ thống hoá những
vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn trong GDKNS và đề xuất một số mô hình
GDKNS tiềm năng và hiệu quả trong tương lai phù hợp với điều kiện, chủ trương
và sắc thái của nền giáo dục nước nhà [26].
Năm học 2007-2008, năm học đánh dấu một bước ngoặt lớn trong chủ
trương đổi mới giáo dục với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, một phong trào lớn của ngành Giáo dục chính thức phát động
với định hướng quyết liệt giai đoạn 5 năm (2008-2013), mục đích chính của phong
trào là xác định GDKNS cho người học từ bậc mầm non đến bậc đại học trong
phạm vi cả nước, là một trong năm nội dung tiến đến đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục Việt Nam. Đây là thời điểm diễn ra cao trào của nhiều công trình
nghiên cứu cụ thể về KNS và GDKNS với nhu cầu xây dựng một cơ sở lý luận cho
lĩnh vực giáo dục này, trong đó đáng chú ý là kết quả của nhiều nghiên cứu cùng đi
đến xác lập các nhóm kỹ năng cần thiết dành cho từng lứa tuổi người được giáo
dục, những nhóm kỹ năng hướng đến phát triển năng lực người học này được tổ

22



23
chức giáo dục chủ yếu thông qua tích hợp trong chương trình dạy học các môn học
hoặc lồng ghép trong các hoạt động giáo dục và các chương trình dự án giáo dục
đồng hành trong nhà trường. Có thể kể ra các nhóm kỹ năng quy chiếu đối tượng
như kỹ năng tự phục vụ, giao tiếp ứng xử, phát triển thể chất, nhận thức và ngôn
ngữ, phát triển tình cảm, phát triển năng lực trình diễn nghệ thuật ở lứa tuổi trẻ mầm
non; kỹ năng cơ bản nghe, nói, đọc, viết, tính toán, kỹ năng tư duy sáng tạo, tư duy
phê phán, kỹ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định, kỹ năng ứng xử với cuộc sống
cộng đồng ở lứa tuổi trẻ tiểu học; kỹ năng thích nghi, năng lực hành động, ứng xử
và năng lực học tập suốt đời ở lứa tuổi HS trung học cơ sở,…[15], [16], [17], [18],
[19], [20], [21], [22] và các nghiên cứu cơ bản trong thời gian này là nghiên cứu về
nhu cầu học tập KNS của HS trường trung học phổ thông của Đinh Thị Thanh Ngọc
(2008); nghiên cứu tổng hợp các vấn đề lý luận về kỹ năng sống, thực trạng và biện
pháp rèn luyện và tác động về mặt tâm lý nhằm hình thành và phát triển kỹ năng
sống cho học sinh trung học cơ sở của Nguyễn Hữu Long (2010); nghiên cứu kỹ
năng sống của trẻ lứa tuổi mẫu giáo, thực tiễn GDKNS ở bậc mầm non và những
giải pháp của Lê Thị Xuân Thu (2011) [25]; nghiên cứu về cơ sở lý luận về kỹ năng
sống và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông các cấp từ năm 2009 đến
nay của Huỳnh Văn Sơn [104].
Đồng thời, là nghiên cứu của Phan Thanh Vân về “Giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”
đã cho thấy GDKNS là mục tiêu, nhiệm vụ trong giáo dục toàn diện cho học sinh ở
trường phổ thông. Giáo dục KNS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp là vận hành
đồng thời các thành tố GDKNS và các thành tố của hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp để cùng thực hiện mục tiêu của hai hoạt động và tích hợp là con đường có
hiệu quả để thực hiện GDKNS cho HS mà không làm quá tải các hoạt động trong
quá trình dạy và học [104]; nghiên cứu của Ngô Giang Nam, về “Giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc” đề cập đến vấn đề

Giáo dục kỹ năng giao tiếp là nhiệm vụ quan trọng trong mọi nhà trường, đặc biệt
nhà trường tiểu học, nó là bộ phận chủ yếu của GDKNS, tạo nên hệ giá trị sống tích
cực của học sinh. Giáo dục kỹ năng giao tiếp cho HS tiểu học được thực hiện bằng
con đường tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp qua hoạt động nội khóa,
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các con đường này phải phối hợp với nhau, hỗ trợ
cho nhau không làm quá tải nội dung chương trình. Giáo dục kỹ năng giao tiếp phải
thông qua mối quan hệ giữa: Nhà trường - Gia đình - Xã hội, hỗ trợ bổ sung cho

23


24
nhau, cùng hướng vào việc xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực, thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện con người [76]; nghiên cứu của Nguyễn Thị
Thu Hằng về “Giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu
vực miền núi phía Bắc qua các môn học Tự nhiên và Xã hội, Khoa học” đã làm rõ
các luận điểm: (1) Con người trong xã hội hiện đại không chỉ cần có tri thức, sức
khỏe, kỹ năng nghề nghiệp mà còn rất cần thiết có được những giá trị đạo đức, thẩm
mỹ, nhân văn đúng đắn và có những KNS nhất định; (2) việc GDKNS cho HS tiểu
học có vai trò rất quan trọng giúp HS có được kiến thức và những kỹ năng cần thiết
để rèn luyện hành vi, khả năng ứng phó, ứng xử phù hợp trong các tình huống cuộc
sống; (3) các môn học Tự nhiên và Xã hội, Khoa học ở bậc tiểu học là những môn
học có nhiều tiềm năng và phù hợp với mục tiêu GDKNS cho HS dân tộc thiểu số;
(4) đề xuất các biện pháp GDKNS cho HS tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền
núi phía Bắc qua dạy học môn học Tự nhiên và Xã hội, Khoa học nhằm tạo cơ hội
và kích thích HS chủ động tìm kiếm tri thức, nâng cao KNS, đồng thời cải thiện
chất lượng GDKNS trong dạy học các môn học này. Trên cơ sở các luận điểm đánh
giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới KNS và thực trạng GDKNS
cho HS tiểu học dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam; bên cạnh đó đề
xuất được tiếp cận mang ý tưởng mới trong GDKNS theo hướng kết hợp cả hai con

đường: khai thác nội dung môn học để GDKNS riêng biệt, đặc thù dành cho học
sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc và sử dụng các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực để GDKNS cho HS, đồng thời xây dựng
được 2 nhóm biện pháp GDKNS cho HS tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi
phía Bắc thông qua dạy học các môn Tự nhiên và Xã hội, Khoa học [50].
Bên cạnh đó cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến
vấn đề KNS nói chung, GDKNS trong nhà trường nói riêng như Kỹ năng sống cho
tuổi vị thành niên của tác giả Nguyễn Thị Oanh [84]; Giáo dục kỹ năng sống của tác
giả Nguyễn Kỳ Anh - giám đốc Trung tâm giáo dục môi trường và sức khỏe cộng
đồng; Một số vấn đề chung về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
ở nhà trường phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 3/2010; đồng hành với
đó là nhiều ấn phẩm được xuất bản về GDKNS cho HS như bộ sách “Giáo dục kỹ
năng sống trong các môn học ở tiểu học- 2010” của Bộ giáo dục và Đào tạo, qua ấn
phẩm danh mục 21 KNS cần thiết được đề xuất và thiết kế lồng ghép vào các môn
học, bài học cụ thể trên cơ sở linh hoạt tuỳ vào từng điều kiện về vùng miền, đối
tượng, phạm vi, hình thức, phương pháp, dung lượng và thời lượng tổ chức giáo

24


25
dục: kỹ năng tự nhận thức, xác định giá trị, kiểm soát cảm xúc, ứng phó với căng
thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, thể hiện sự tự tin, giao tiếp, lắng nghe tích cực, thể hiện
sự cảm thông, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, hợp tác, tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, kiên định, đảm nhận trách nhiệm, đặt mục
tiêu, quản lý thời gian, tìm kiếm và xử lý thông tin [3].
Ngoài những tác giả đã nêu trên còn có công trình của nhóm các nhà khoa
học nữ Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị Thuý Hằng (2010) với
quyển sách “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh tiểu học” cung cấp
cho giáo viên và các nhà giáo dục những kiến thức về tâm lý học sinh tiểu học [72],

nội dung-hình thức-phương pháp GDKNS trong từng minh hoạ tình huống giáo dục
cụ thể, công trình của nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Sơn với 2 quyển sách bổ ích
“Nhập môn kỹ năng sống” và “Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên sư phạm” đề
cập đến những vấn đề khái quát về GDKNS như khái niệm, phân loại KNS, phương
pháp GDKNS, những KNS cơ bản của tuổi vị thành niên, GDKNS ở trường học tại
Việt Nam [90].
Nhìn chung qua các đề tài nghiên cứu, vấn đề quản lý nhà nước được đề cập
đến và trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục cũng đặt ra từ rất sớm những vấn đề quan
tâm đến GDKNS trong trường học nói chung và trường tiểu học nói riêng. Có thể
nhận thấy ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề GDKNS và các công trình đã đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực nội dung và
phương thức GDKNS, một số đề tài đã đề cập đến hình thức GDKNS và đề xuất
các biện pháp GDKNS trong nhà trường.
1.1.2. Nghiên cứu về quản lý giáo dục kỹ năng sống
Thế giới những năm của thập niên 90, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
GDKNS trên thế giới đã đặt ra những vấn đề cấp thiết cho các nhà quản lý giáo
dục. Một câu hỏi trọng tâm cần được giải quyết “Quản lý và tổ chức GDKNS như
thế nào để đáp ứng yêu cầu về mục tiêu và đạt được hiệu quả tối đa trong hoạt
động này”
Giải quyết vấn đề này, có nhiều hướng đi tích cực được phát kiến và ứng dụng
từ các quốc gia, các chính phủ, các nhà khoa học, các nhà quản lý trên toàn cầu:
Năm 1989, Chính phủ Mỹ đã thành lập Uỷ ban thư ký về rèn luyện KNS cần
thiết cho người lao động, để tổ chức kế hoạch này hàng loạt các chuyên gia đến từ
các ngành khác nhau như giáo dục, kinh doanh, y tế, xã hội,…đã trở thành thành
viên của Uỷ ban với sứ mệnh tìm kiếm con đường nhằm thúc đẩy nền kinh tế bằng

25



×