Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế i những cơ hội và thách thức 4 đối với việt nam khi tham gia hiệp định thương mại tự do xuyên thái bình dương (TPP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.37 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển, các giao dịch xuyên biên giới
ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thương mại, dịch vụ toàn cầu; cùng với
những tiến bộ trong vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics, ranh giới giữa
thị trường trong nước và nước ngoài gần như bị san phẳng. Do đó, để phát triển
hơn nữa việc hợp tác kinh tế quốc tế giữa các nước, ngoài những hiệp định đã có
một số nước vẫn tiếp tục tham gia vào những hiệp định mới với sự mở cửa hợp
tác rộng hơn, trong đó phải kể đến là Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái
Bình Dương(TPP). Hơn cả việc tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Partnership - TPP) được coi như Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới" đầy
tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và
toàn diện. Với cam kết mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu của các bên,
loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở cửa dịch vụ và các yêu cầu
cao về môi trường và lao động …
Vì thế, TPP được đánh giá là cơ hội không thể bỏ qua.
Tháng 11/2010, Việt Nam chính thức tham gia đàm phán TPP, Quy mô
của TPP được cho là sẽ tạo những lợi ích to lớn cho nền kinh tế Việt Nam khi
mang đến những cam kết về các lĩnh vực quan trọng như dịch vụ (ngân hàng, tài
chính, pháp lý và môi giới); đầu tư; viễn thông và thương mại điện tử; quyền sở
hữu trí tuệ; hàng rào kỹ thuật trong thương mại... TPP cũng tạo nhiều cơ hội
thuận lợi đối với các ngành xuất khẩu của Việt Nam như giảm, miễn thuế đối với
các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt ở các nước thành viên. Tuy nhiên, bên cạnh
những triển vọng cũng như cơ hội mà TPP có thể mang lại, Việt Nam cũng sẽ
gặp phải những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những bước đi thận trọng
và đúng hướng. Do đó, em đã chọn đề tài "Những cơ hội và thách thức
3


đối với Việt Nam khi tham gia Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình


Dương (TPP)" nhằm làm rõ những cơ hội có được cũng như thách thức mà Việt
Nam có thể gặp phải khi tham gia Hiệp định.
Bài tiểu luận gồm 2 phần chính:
I. Giới thiệu về Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương
II. Gơ hội và thách thức của việt nam khi tham gia TPP

4


NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG
1. Lịch sử hình hành và quá trình đàm phán
1.1. Lịch sử hình thành
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TransPacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là TPP) là một
Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một
mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa
4 nước Singapore , Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là
P4).
Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó
(tháng 11/2008), các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý
định tương tự. Tháng 10/2010, Malaysia chính thức thông báo ý định tham gia
đàm phán TPP.
Năm 2010, hai vòng đàm phán TPP cấp cao đã được tiến hành với sự
tham gia của 4 nước thành viên cũ và 4 nước mới. Ngoài ra còn có một cuộc
đàm phán giữa kỳ vào tháng 8/2010 tại Peru và một đàm phán vừa tiến hành tại
Brunei (4-8/10/2010) tuy nhiên hiện chưa có thông tin cụ thể về 2 đàm phán này.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành
viên đầy đủ.

1.2. Quá trình đàm phán
Hai vòng đàm phán (vào tháng 3 và tháng 6/2010) đã được tiến hành giữa
8 bên. Ngoài ra còn có một cuộc đàm phán giữa kỳ vào tháng 8/2010 tại Peru và
5


một đàm phán vừa tiến hành tại Brunei (4-8/10/2010) tuy nhiên hiện chưa có
thông tin cụ thể về 2 đàm phán này.
Các vấn đề được đàm phán trong hai vòng này tập trung vào những nội
dung mang tính thủ tục, cấu trúc mà chưa đi vào đàm phán các lĩnh vực thực
chất theo ngành, đặc biệt là:
+ Việc tham gia của các bên đàm phán mới
+

Xử lý mối quan hệ giữa các FTA cũ đang tồn tại giữa các nước tham gia

đàm phán và TPP mới.
Ý kiến ban đầu là để TPP tồn tại song song với các FTAs đã có và các
nước phải đáp ứng các nghĩa vụ trong các FTA lẫn TPP. Tuy nhiên, vấn đề khó
khăn là việc tiếp tục các đàm phán cắt giảm thuế quan trong TPP mới như thế
nào (Đàm phán thay thế hoàn toàn danh mục cắt giảm thuế quan đang có trong
các FTA giữa các nước thành viên? Chỉ đàm phán cắt giảm thuế quan giữa các
thành viên chưa có FTA với nhau? Đàm phán TPP mới độc lập với các FTA giữa
các bên nhưng chỉ áp dụng sau khi các FTA liên quan đã hoàn thành lộ trình thực
thi?). Hoa Kỳ, Việt Nam, Chile cho rằng không nên xem xét lại các FTA (nói
cách khác, đàm phán TPP sẽ là đàm phán mới) trong khi Australia, New Zealand
và Singapore lại ủng hộ quan điểm ngược lại.
Các nước đã đi đến sự thống nhất ban đầu về việc sẽ đàm phán lại các vấn
đề như dịch vụ, đầu tư, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại, mua sắm công và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:

+ Các vấn đề về vệ sinh dịch tễ (SPS) và hàng rào kỹ thuật trong thương
mại (TBT) : Liên quan đến quan ngại của Hoa Kỳ về vấn đề thịt bò (nguy cơ bò
điên) và các quy định hạn chế nhập khẩu thịt gà, thịt lợn và một số loại trái cây.
+

Lao động và môi trường : Cải thiện tình trạng môi trường và lao động ở

các nước thông qua việc thiết lập, thực thi tốt các quy định liên quan; không sử
dụng các quy định về lao động và môi trường để hạn chế bất hợp lý thương mại
và đầu tư

6


+

Giải quyết tranh chấp : Chủ yếu xoay quanh vấn đề nhà đầu tư nước

ngoài có thể kiện Chính phủ nước nhận đầu tư ra một thiết chế trọng tài thương
mại quốc tế không.
+

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và mua sắm công : Hoa Kỳ có xu hướng

tiếp tục các yêu cầu liên quan đến vấn đề này như trong các FTA mà Hoa Kỳ đã
ký.
2. Các bên tham gia hiệp định
Quốc gia

Trạng thái


Ngày bắt đầu

Ngày ký kết

đàm phán
Brunei

Sáng lập

tháng 6/2005

ngày 4/2/2016

Chile

Sáng lập

tháng 6/2005

ngày 4/2/2016

New Zealand

Sáng lập

tháng 6/2005

ngày 4/2/2016


Singapore

Sáng lập

tháng 6/2005

ngày 4/2/2016

Nhật Bản

Kết thúc đàm phán

tháng 3/2013

ngày 4/2/2016

Hoa Kỳ

Kết thúc đàm phán

tháng 2/2008

ngày 4/2/2016

Peru

Kết thúc đàm phán

tháng 11/2008


ngày 4/2/2016

Việt Nam

Kết thúc đàm phán

tháng 11/2008

ngày 4/2/2016

Úc

Kết thúc đàm phán

tháng 11/2008

ngày 4/2/2016

Canada

Kết thúc đàm phán

tháng 10/ 2012

ngày 4/2/2016

Mexico

Kết thúc đàm phán


tháng 10/ 2012

ngày 4/2/2016

Malaysia

Kết thúc đàm phán

tháng 10/ 2010

ngày 4/2/2016

Colombia

Ngỏ ý muốn tham gia

Hàn Quốc

Ngỏ ý muốn tham gia

Indonesia

Ngỏ ý muốn tham gia

Philippines

Ngỏ ý muốn tham gia

Thái Lan


Ngỏ ý muốn tham gia

Đài Loan

Ngỏ ý muốn tham gia

(đã rút)

7


3. Mục đích của hiệp định
Các Bên tham gia Hiệp định này, với mục đích:
THÀNH LẬP một hiệp định khu vực toàn diện phục vụ thúc đẩy hội
nhập kinh tế nhằm tự do hóa thương mại và đầu tư, đem lại tăng trưởng kinh tế
và lợi ích xã hội, tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp,
góp phần nâng cao mức sống, lợi ích người tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy
tăng trưởng bền vững;
THẮT CHẶT tình hữu nghị và hợp tác giữa chính phủ và người dân của
các Nước ký kết
XÂY DỰNG dựa trên các quyền và nghĩa vụ tương ứng theo Hiệp định
Marrakesh về thành lập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới;
THỪA NHẬN sự khác biệt về mức độ phát triển và sự đa dạng của các
nền kinh tế;
CỦNG CỐ khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp của nước mình
trên thị trường toàn cầu và tăng cường khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế
bằng cách tạo ra các cơ hội cho các doanh nghiệp, bao gồm cả việc thúc đẩy sự
phát triển và tăng cường các chuỗi cung ứng khu vực;
HỖ TRỢ tăng trưởng và phát triển của vi mô, doanh nghiệp nhỏ và vừa
bằng cách tăng cường khả năng của doanh nghiệp đối với việc tham gia và

hưởng lợi từ các cơ hội mà Hiệp định này đem lại;
THÀNH LẬP một khuôn khổ pháp lý và thương mại có thể dự đoán được
cho thương mại và đầu tư trên nguyên tắc các bên cùng có lợi;
TẠO THUẬN LỢI cho thương mại khu vực bằng cách khuyến khích áp
dụng thủ tục hải quan hiệu quả và minh bạch để giảm chi phí và đảm bảo khả
năng dự báo cho các nhà nhập khẩu và xuất khẩu của các Bên;
THỪA NHẬN quyền điều chỉnh và giải quyết sẵn có của các Bên để bảo
tồn sự linh hoạt của các Bên tham gia nhằm thiết lập các ưu tiên về quy phạm
pháp luật, bảo vệ lợi ích công cộng, và bảo vệ các mục tiêu phúc lợi công cộng
hợp pháp, chẳng hạn như y tế công cộng, an toàn, môi trường, bảo tồn tài
8


nguyên thiên nhiên có khả năng bị cạn kiệt, sự toàn vẹn và sự ổn định của hệ
thống tài chính và đạo đức xã hội;
THỪA NHẬN quyền áp dụng, duy trì hoặc sửa đổi các hệ thống chăm
sóc sức khỏe của các Bên;
KHẲNG ĐỊNH rằng các doanh nghiệp nhà nước có thể đóng một vai trò
hợp pháp trong nền kinh tế đa dạng của các Bên, đồng thời thừa nhận rằng việc
cung cấp các lợi thế không công bằng cho các doanh nghiệp nhà nước làm suy
yếu thương mại và đầu tư công bằng và cởi mở, và thiết lập các quy tắc cho các
doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng với các doanh
nghiệp tư nhân, hoạt động kinh doanh minh bạch và vững vàng;
THÚC ĐẨY bảo vệ môi trường mức độ cao, kể cả thông qua việc thực thi
có hiệu quả pháp luật về môi trường và đẩy mạnh các mục tiêu phát triển bền
vững, bao gồm cả thông qua thương mại hỗ trợ lẫn nhau, các chính sách và hoạt
động môi trường;
BẢO VỆ và thực thi các quyền lao động, cải thiện điều kiện làm việc và
mức sống, tăng cường hợp tác và năng lực của các bên về các vấn đề lao động;
THÚC ĐẨY sự minh bạch, quản trị tốt và tính pháp quyền của pháp luật,

loại trừ hối lộ và tham nhũng trong thương mại và đầu tư;
THỪA NHẬN các công việc quan trọng mà cơ quan có liên quan của các
Bên đang làm để tăng cường hợp tác kinh tế vĩ mô tại các diễn đàn phù hợp ,
bao gồm cả các vấn đề tỷ giá;
THỪA NHẬN tầm quan trọng của sự khác biệt về văn hóa giữa và trong
các Bên, và thừa nhận rằng thương mại và đầu tư có thể mở rộng các cơ hội để
làm giàu bản sắc văn hóa và sự đa dạng văn hóa trong và ngoài nước;
ĐÓNG GÓP cho sự phát triển hài hòa và mở rộng thương mại thế giới,
và kích thích để hợp tác khu vực và quốc tế rộng hơn;
THÀNH LẬP một Hiệp định để giải quyết những thách thức và cơ hội về
thương mại và đầu tư trong tương lai, góp phần thúc đẩy các ưu tiên của mình
theo thời gian; và
9


MỞ RỘNG quan hệ đối tác của mình bằng cách khuyến khích sự gia
nhập của các nước hoặc vùng lãnh thổ Hải quan riêng biệt khác nhằm nâng cao
hơn nữa hội nhập kinh tế khu vực và tạo ra nền tảng của một Khu vực mậu dịch
tự do châu Á Thái Bình Dương.
4. Sự khác biệt của hiệp định này so với các hiệp định mà Việt Nam đã
tham gia trước đây như WTO, BTA, AFTA.
Như chúng ta đã biết, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố
chính thức việc đàm phán hiệp định này.
Năm 2005, đã có một hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương với 4
nước tham gia khởi xướng: Brunei, Chile, New Zealand, Singapore. Từ năm
2010, có thêm 5 nước tham gia đàm phán gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt
Nam và gần đây là Malaysia. Người ta đánh giá TPP là một hiệp định của thế kỷ
21, không chỉ vì nó là Hiệp định lớn mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó.
Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO, TPP mở
rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí

tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi
trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ...
Với tầm vóc như vậy, các cam kết này sâu rộng hơn, toàn diện hơn, thì
bấy giờ, ảnh hưởng sẽ rất lớn. Đó là điểm khác biệt cơ bản. Nhìn ở góc độ Việt
Nam, ta là nước đang phát triển, các thành viên còn lại là nước phát triển. Tính
chất TPP mở ra, cho các nước có mức độ phát triển khác nhau nhưng cố gắng có
một mẫu số chung để cùng phát triển.
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP
TPP là một cơ chế mở, trong tương lai nhưng nước quan tâm có thể tham
gia đàm phán gia nhập. Đối với những nước đầu tiên tham gia như Việt Nam,
đây là thời điểm quan trọng và cần tạo ra khuôn khổ tốt nhất để làm nền cho việc
tham gia của các nước khác sau này.
10


Vì vậy TPP đặt ra một lộ trình khá cấp tốc, với mục tiêu cuối 2011, đầu
2012 là hoàn thành hiệp định TPP của 9 nước đang đàm phán hiện nay. Rõ ràng,
những nước như Việt Nam muốn tham gia thì phải thật khẩn trương và có những
quyết định mang tính chất quyết đoán, để mọi quyết định phù hợp với lợi ích của
các cộng đồng trong nước thì phải thay đổi cách tham vấn để lấy được ý kiến
của các cộng đồng trong nước. Đồng thời phải đẩy nhanh việc nghiên cứu đánh
giá, dự báo tác động của các lĩnh vực chính mà Việt Nam sẽ đàm phán với các
thành viên TPP.
1. Cơ hội
1.1. Nhóm các lợi ích khai thác từ thị trường nước ngoài (các nước đối tác
TPP)
Lợi ích ở thị trường các nước đối tác TPP mà Việt Nam có thể tận dụng từ
TPP thể hiện ở 2 hình thức chủ yếu:
+


Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa):

Việt Nam là nước tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp với điều kiện
tự nhiên thuận lợi, sản xuất nông nghiệp quanh năm.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo vào 06 nước
TPP (Hoa Kỳ, Brunei, Malaysia, Australia, Singapore, Mexico) chiếm khoảng
hơn 12% tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2015, Mexico áp dụng trở lại mức thuế suất
20% đối với mặt hàng gạo và 9% đối với mặt hàng lúa. Còn các thị trường còn
lại trong TPP, lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam không đáng kể, một phần do
bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với thị trường Nhật Bản, mức thuế suất được áp
dụng ở mức rất cao, lên đến 1.066%. Thuế suất cao cộng với hàng rào kỹ thuật
khiến cho mặt hàng gạo rất khó tiếp cận được thị trường Nhật Bản.
Do đó, việc tiếp cận các thị trường lớn với thuế suất từ 0-5% sẽ mang lại
lợi thế cạnh tranh lớn và triển vọng phát triển cho nhiều ngành hàng, đặc biệt là
ngành dệt may, da giày, thủy sản, lúa gạo, hạt tiêu, điều, cao su, đồ gỗ... của Việt
Nam. Các nhóm hàng này sẽ có cơ hội được xuất khẩu sang các nước TPP
11


như Mỹ và Nhật Bản. Dệt may nói chung được coi là ngành được hưởng lợi cao
nhất do vị trí vững vàng của ngành trong chuỗi cung ứng toàn cầu và chi phí lao
động tương đối thấp của Việt Nam. Các quan chức của Hiệp hội Dệt may Việt
Nam (VITAS) ước tính rằng khi TPP có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu của
ngành này có thể tăng gấp đôi (Viet Nam News 2015). Do cứ 1 tỷ USD kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng thêm sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm các
loại (Bộ Công Thương, 2015, tr. 10), TPP sẽ là một công cụ cần thiết cho Việt
Nam để giải quyết vấn đề thất nghiệp, từ đó tránh được bất ổn xã hội. Ngành da
giày nhiều khả năng sẽ đóng vai trò tương tự do cũng được kỳ vọng là sẽ được
hưởng lợi đáng kể từ TPP.

Tuy nhiên, lợi ích này cần được đánh giá một cách chừng mực, đặc biệt
khi quyết định đánh đổi quyền tiếp cận thị trường Việt Nam của hàng hóa nước
ngoài để có được những lợi ích này. Cụ thể:
 Thực tế, cơ hội tăng mạnh xuất khẩu không phải cho tất cả khi mà
ví dụ đối với Hoa Kỳ, hàng thủy sản chưa chế biến hay đồ gỗ (hai lĩnh vực xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này) thực tế đã đang được hưởng
mức thuế suất gần bằng 0, vì vậy có TPP hay không cũng không quan trọng.
Cũng như vậy, dù rằng tương lai không hẳn chắc chắn nhưng một số mặt hàng
có thể được Hoa Kỳ xem xét cho hưởng GSP “miễn phí” nếu chúng ta có nỗ lực
vận động tốt mà không cần TPP với những cái giá phải trả có thể lớn (bằng việc
mở cửa thị trường nội địa cũng như những ràng buộc khác). Đối với các ngành
thuộc nhóm này, lợi ích thuế quan là không đáng kể (hoặc không có). Tình trạng
tương tự với một số thị trường khác (ví dụ Úc, New Zealand, Peru hiện đã áp
dụng mức thuế 0% cho các sản phẩm thủy sản như cá, tôm, cua của Việt Nam).
 Đối với những mặt hàng khác, trong khi cơ hội tăng xuất khẩu với
giá cạnh tranh là có thật và rất lớn (ví dụ dệt may, da giầy), những rào cản dưới
dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương mại với quy
chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi
ích từ việc giảm thuế quan. Cũng như vậy những điều kiện ngặt nghèo về lao
động, về xuất xứ nguyên liệu cũng có thể khiến hàng hóa Việt Nam không tận
12


dụng được lợi ích từ việc giảm thuế trong TPP. Nói một cách khác, những lợi ích
về thuế quan trên thị trường nước đối tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ) chỉ thực sự
đầy đủ khi xem xét tất cả các yếu tố. Và nếu bất kỳ yếu tố nào trong số những
rào cản đối với hàng xuất khẩu không được cải thiện thì lợi ích thuế quan từ TPP
sẽ bị giảm sút, thậm chí nếu những rào cản này bị lạm dụng, lợi ích từ thuế quan
có thể bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
+


Lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư):

Tham gia TPP là cơ hội cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài
chính thế giới và mở rộng đầu tư. Tham gia TPP chắc chắn thúc đẩy đầu tư của
các nước vào Việt Nam, các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ
tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và tiếp
cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.
Tính đến nay, đầu tư trực tiếp của các nước TPP vào Việt Nam đạt hơn
100 tỷ USD vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, chiếm gần 40% tổng
lượng vốn FDI của Việt Nam. Dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình
độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và
kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng
đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam
khai thác các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp.
Tuy nhiên, do hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế nên
việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng vẫn ở mức thấp so với một số nước trong khu
vực và trên thế giới. Tỷ lệ chi nhánh và phòng giao dịch trên 100.000 người dân
Việt Nam là 3,17, thấp hơn nhiều so với Thái Lan là 11,7; Indonesia là 9,59 và
các nước OECD là 27(4). Mức độ phân bổ các chi nhánh và phòng giao dịch tại
Việt Nam chưa đồng đều, chỉ tập trung ở những thành phố lớn. Điều này làm
tăng cơ hội cho các ngân hàng quốc tế tiếp cận thị phần khách hàng, ảnh hưởng
tới thị trường tiềm năng của các ngân hàng trong nước.

13


1.2. Nhóm các lợi ích khai thác được tại thị trường nội địa
Trong thực thi các FTA, thị trường nội địa thường được hiểu là nơi chịu
thiệt hại. Tuy nhiên, đối với trường hợp của Việt Nam, nhiều chuyên gia nhấn

mạnh rằng chúng ta có thể “có lời” từ TPP ngay cả ở thị trường nội địa, nơi vốn
được xem là “chỉ chịu thiệt” từ các FTA nói chung. “Khoản lời” này nằm ở
những khía cạnh sau đây:
+ Lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước TPP
Người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ
các nước này làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa, nguyên
liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao
năng lực cạnh tranh của những ngành này.
+ Lợi ích từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối
tác TPP
Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang lại dịch vụ giá rẻ
hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công nghệ và phương thức
quản lý mới cho đối tác Việt Nam và một sức ép để cải tổ và để tiến bộ hơn cho
các đơn vị dịch vụ nội địa.
Đồng thời, hai điều trên cũng tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các
doanh nghiệp. Từ lâu, các doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam. Ví dụ, trong năm 2013, mặc dù chỉ chiếm 0,9% tổng số
doanh nghiệp và sử dụng 13,5% lực lượng lao động, doanh nghiệp nhà nước
chiếm 32,2% GDP của Việt Nam và 40,4% tổng đầu tư hàng năm của cả nước
(Tổng cục Thống kê, 2015, tr. 62, 75–78, 103). Tham gia TPP, các doanh nghiệp
nhà nước sẽ không còn được hưởng các ưu đãi hay đặc quyền về điều kiện tiếp
cận vốn và quyền được bảo hộ. Điều này sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư
nhân phát triển và cạnh tranh bình đẳng, đồng thời tạo sức ép thúc đẩy các doanh
nghiệp nhà nước chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh

14


+ Lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những
đòi hỏi chung của TPP

TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên suốt
như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển Đây là những
lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt
có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp
nhỏ và vừa) và do đó là rất đáng kể;
+ Lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công:
Mặc dù mức độ mở cửa đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ
TPP chưa được xác định cụ thể nhưng nhiều khả năng các nội dung trong Hiệp
định về mua sắm công trong WTO sẽ được áp dụng cho TPP, và nếu điều này là
thực tế thì lợi ích mà Việt Nam có được từ điều này sẽ là triển vọng minh bạch
hóa thị trường quan trọng này – TPP vì thế có thể là một động lực tốt để giải
quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu thầu
xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện nay;
+ Lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường:
Mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn
cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân
thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó
(ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi
trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao động
nội địa.
2. Thách thức
Tham gia FTA nói chung và TPP nói riêng, Việt Nam sẽ phải mở cửa
nhanh và mạnh thị trường nội địa của mình cho hàng hóa, dịch vụ từ các nước
đối tác, nếu Việt Nam có “mất” gì khi tham gia TPP thì là mất ở điểm này chủ
yếu. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng nếu chúng ta không chú ý để tránh
15


các cam kết bất lợi, “mất” còn có thể là hiện thực ở cả thị trường các nước đối

tác TPP.
2.1 Những bất lợi ở thị trường nội địa
+ Bất lợi từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác
TPP:
Việt Nam hiện vẫn còn là thị trường tương đối đóng với nhiều nhóm mặt
hàng và còn giữ mức thuế MFN khá cao. Vì thế việc phải cam kết giảm thuế đối
vứi phần lớn các nhóm mặt hàng từ các nước đối tác TPP dự kiến sẽ gây ra 2 bất
lợi trực tiếp: Giảm nguồn thu từ ngân sách thuế nhập khẩu và cạnh tranh trong
nước gay gắt hơn.
Thứ nhất, việc giảm thu ngân sách tùe thuế nhập khẩu là hệ quả chắc chắn
và trực tiếp. Tuy nhiên cũng có ý kiến chi rằng lượng thất thu từ thuế nhập khẩu
sẽ không thưccj sự lớn so với hiện trạng (do phần lớn các đoois tác trong TPP đã
có FTA với Việt Nam).
Thừ hai, việc giảm thuế có thể khiến hàng nhập khẩu từ các nước TPP vảo
Việt Nam gia tăng. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan ở Việt Nam sẽ
bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Đây là thực tế đã từng xảy ra khi
chúng ta kí FTA. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm với các nhóm hàng nông sản.
Tuy nhiên cũng có ý kiến lạc quan cho rằng trong trường hợp cụ thể của TPP, cái
“mất” này có thể không phải quá nghiêm trọng. Ví dụ với đối tác Hoa Kỳ, hàng
hóa của Hoa Ký có phân khúc và khách hàng khác với hàng hóa tương tự của
Việt Nam, vì vậy đối với một số ngành, cạnh trranh đến từ hàng hóa của Hoa Kỳ
sẽ không quá nguy hiểm. Ngoài ra, cạnh tranh trên thị trường nội địa cũng là sức
ép tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tự thích nghi, điều chỉnh, nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình.
+ Bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ:
Dịch vụ là mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của
Việt Nam là hạn chế và dè dặt nhất. So với cách thức đàm phán chọn-cho của
16



WTO, phương pháp chọn-bỏ dự kiến trong đàm phán TPP sẽ khiến bức tranh mở
cửa dịch vụ của Việt Nam đối với các nước TPP thay đổi mạnh mẽ.
Đây chính là điểm được suy đoán sẽ tạo ra bất lợi lớn cho doanh nghiệp
Việt Nam khi tham gia vào TPP. Với TPP, sự tham gia mạnh mẽ và tự do hơn
của các nhà cung ứng có tiềm lực lớn, kinh nghiệm lâu năm, có ưu thế về dịch
vụ trên thế giới có thể khiến các đơn vị cung cấp dịch vụ của Việt Nam gặp khó
khăn nghiêm trọng.
Tuy nhiên, kịch bản thực tế có thể không nghiêm trọng như vậy. Cụ thể,
cạnh tranh có thể là động lực để các doanh nghiệp tự đổi mới và nâng cao năng
lực để phát triển tốt hơn. Cạnh tranh cũng giúp xóa những đơn vị yếu kém,
không thích hợp với tình hình mới. Ngoài ra, không thể không nhắc tới những
khả năng hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác từ TPP để cùng phát
triển.
+ Bất lợi từ việc thưc thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, … và
các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định liên quan đến rào
cản kỹ thuật, …
Các kết quả đàm phán FTA với Hoa Kỳ trong giai đoạn gần đây cho thấy
nước này nhấn mạnh việc tuân thủ các yêu cấu cao về môi trường, lao động hay
các ràng buộc khi ban hành hay thực thi các quy định về cạnh tranh, phòng vệ
thương mại... Các đối tác khác như Úc, New Zealand cũng quan tâm đến vấn đề
này. Hiệp định P$ cũng bao gồm các quy định liên quan. Vì vậy, khả năng TPP
trong tương lai có thể bao gồm lĩnh vực này là tương đối lớn.
Một mặt, việc tổ chức thực hiện các yêu cầu này sẽ là một gánh nặng
tương đối lớn với Nhà nước. Việc thực thi cũng tạo ra nhiều chi phí đối với
doanh nghiệp.
Mặt khác, thực hiệncam kết dạng này sẽ là cơ hội tốt để chúng ta cải thiện
hệ thống pháp luật, đặc biệt là từ góc độ bền vững(môi trường), vì quyền con
người(lao động), minh bạch hóa và cải cách hành chính. Từ góc độ này, những
lợi ích mà việc thực hiện cam kết mang lại có thể là rất lớn và có giá trị lâu dài.
17



Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích kể trên, chúng ta cũng cần cân nhắc
phương án đàm phán thích hợp sao cho đối tác sao cho đối tác có thể chấp nhận
những “mức độ cam kết mà” mà Việt Nam có thể chịu đựng được. Theo nhiều
chuyên gia, chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:
 Thứ nhất, Việt Nam cần thuyết phục đối tác rằng chúng ta có rất
nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực môi trường và lao động. Và việc chưa đáp ứng
được yêu cầu về môi trường và lao động không phải do chúng ta không mong
muốn mà là do khả năng hiện tại chưa cho phép.
 Thứ hai, Việt Nam cần chủ động chấp nhận những yêu cầu về môi
trường/lao động mà chúng ta có thể đáp ứng. Ví dụ, theo nhiều doanh nghiệp,
hiện nay họ đã và đang đáp ứng nhiều tiêu chuẩn về lao động liên quan đến loại
bỏ lao động cưỡng bức, cấm lao động tẻ em, cấm phân biệt đối sử trong tuyển
dụng và sử dụng lao động… theo yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, việc các yêu
cầu này được áp dụng cũng không gây ra khó khăn hay bất cập lớn cho những
doanh nghiệp này.
+ Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu liên quan đến việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ
Đây là một vấn đề lớn đối với Việt Nam vì trong thực tế còn nhiều vi
phạm và và các thiết chế bảo hộ còn thiếu hiệu quả. Việc bảo hộ chặt chẽ các
quyền sở hữu trí tuệ cũng có thể dẫn tới những khó khăn trước mắt cho nhiều
doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, về vấn đề này cũng cần nhận thức đầy đủ rằng tình trạng hiện
tại cần thay đổi dần dần để chấm dứt trong tương lai nếu Việt Nam muốn có một
nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển. Sẽ rất tốt nếu cơ quan đàm
phán có thể chấp nhận những yêu cầu tương đối cao về sở hữu trí tuệ trong TPP
nhưng với các điều kiện tiên quyết như:
 Lộ trình thực hiện dài
 Có sự hỗ trợ kĩ thuật để thực thi


18


 Có những ngoại lệ thích hợp(như dựa vào các vấnđề liênquan đến
tăng cường bảo vệ lợi ích người tiêu dùng liên quan đến dược phẩm, bảo vệ sức
khỏe… truóc những yêu cầu về quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực này).
2.2. Những thách thức ở thị trường các nước đối tác TPP
+ Các yêu cầu, tiêu chuẩn về môi trường lao động
Như đã đề cập ở trên, khả năng những vấn đề về môi trường và lao động
được đưa vào phạm vi điều chỉnh của TPP là rất lớn. Vì vậy, đây luôn luôn là
vấn đề hóc búa đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề này không thật sự trầm trọng đối với Việt Nam ở thị
trường các đối tác TPP. Cụ thể, những quy định về môi truòng hay lao động mà
các đối tác của Việt Nam đang áp dụng được thưch thi không phân biệt đối xử
giữa hàng hóa từ các nguồn khác nhau. Nói cách khác, chúng vẫn luôn như vậy
dù Việt Nam có tham gia TPP hay không.
+ Chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam
Trên thực tế, hàng xuất khẩu của Việt Nam có hiệu quả kinh tế thấp, sức
hấp dẫn kinh tế và khoa học công nghệ chưa cao, khó giữ được đối tác lâu bền,
dễ thất thế khi phải cạnh tranh. Ngoài ra, xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô,
chưa qua sơ chế hoặc gia công đã khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng,
giá trị tăng thêm của hàng hóa,… trở nên yếu hơn.
Quy mô doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ, không thâm nhập được vào hệ
thống phân phối chính khiến các doanh nghiệp xuất khẩu trở nên không bền
vững, không chi phối được thị trường. Tham gia TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa
thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có sự
chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Đặc biệt,
ngành chăn nuôi sẽ đối mặt sự cạnh tranh quyết liệt. Các sản phẩm chăn nuôi
của một số nước tham gia TPP đều theo quy trình sản xuất công nghiệp nên có

lợi thế cạnh tranh vượt trội so với ngành chăn nuôi của Việt Nam.

19


+ Chưa phát triển về khoa học, công nghệ, văn hóa trong kinh doanh
Đối thủ cạnh tranh trong TPP sẽ là đối thủ mạnh về khoa học và công
nghệ, văn hóa kinh doanh cao đẳng và hiện đại. Tự do hóa thương mại quá đột
ngột có thể dẫn tới phá sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh yếu. Việc giảm thu ngân sách từ giảm thuế nhập khẩu sau khi
thực hiện TPP là hệ quả chắc chắn và trực tiếp. Hơn nữa, giảm thuế quan có thể
khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam gia tăng, với giá cả
cạnh tranh hơn. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị
ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Sản phẩm nông nghiệp, doanh nghiệp
và nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt trong khi đó, các hàng
nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
+ Hàng rào thuế quan giữa hàng nội địa và hàng nhập khẩu
Các nước tham gia TPP có xu hướng đàm phán nhằm giữ bảo hộ đối với
nông sản nội địa. Khi đó, hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến hơn với yêu
cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm, trong khi đây là điểm yếu của sản xuất
nông nghiệp Việt Nam. Hàng nhập khẩu tăng, xuất khẩu không tìm được đường
vào thị trường các nước sẽ khiến nông nghiệp đứng trước những khó khăn.
Để bảo hộ hàng hóa trong nước, Việt Nam tất yếu cũng sẽ áp dụng các
hàng rào phi thuế quan. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có hoặc kém, các biện pháp
vệ sinh dịch tễ không hiệu quả sẽ khiến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ
các sản phẩm chất lượng thấp, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng vừa
không bảo vệ được sản xuất trong nước. Các quy định về nước thải từ trại chăn
nuôi hiện nay đang gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề xử lý
nước thải đạt chuẩn sẽ dẫn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp chăn nuôi tăng
cao.

+ Quy tắc hàng xuất khẩu phải có xuất xứ “nội khối”
Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ
một thành viên của TPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ “nội khối”,
không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP mới được
hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Đây là khó khăn đối với doanh nghiệp sản xuất của
20


Việt Nam, đặc biệt là ngành xuất khẩu hàng may mặc và da giày. Việt Nam hiện
chỉ chủ động được 20 - 40% nguyên liệu sản xuất ở các khâu, riêng da (gồm da
thuộc và da nhân tạo) vẫn phải nhập khẩu tới 70%. Thậm chí, trong 10 doanh
nghiệp da giày lớn nhất của Việt Nam chỉ có một đại diện nội địa, còn lại là liên
doanh hoặc 100% vốn nước ngoài.
Do năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, ngành
xuất khẩu hàng may mặc và da giày Việt Nam đang phụ thuộc vào nguyên liệu
nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc (nước không tham gia TPP). Vì thế, Việt
Nam khó có thể đáp ứng được yêu cầu quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP. Năm
2014, nhập khẩu nguyên liệu cho ngành may mặc và da giày của Việt Nam là
4,69 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc 32,9%; Hàn Quốc 16,97%; EU
5,8%. Trong khi các đối tác trong TPP (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc) chỉ chiếm tỷ lệ
rất khiêm tốn, tương ứng là 4,76%; 5,59% và 0,87%. Nếu vượt qua và đáp ứng
được quy tắc, Việt Nam sẽ sớm thoát khỏi thực trạng là một nước gia công đơn
giản, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển.

21


KẾT LUẬN
Hiệp định TPP được ký kết đã hình thành một khu vực thương mại tự do
với 800 triệu dân, chiếm 30% kim ngạch thương mại toàn cầu và gần 40% sản

lượng kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, việc tăng khả năng cạnh tranh của
hàng hóa vào các thị trường rộng lớn như Nhật Bản, Canađa… sẽ đem lại nhiều
cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng các
hoạt động dịch vụ, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất trong nước tham gia vào
chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với lợi ích mà TPP có thể đem lại,
Việt Nam cũng phải đối diện với không ít thách thức. Do đó, TPP cũng là cơ hội
để Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng để có thể tận dụng được tối đa những lợi ích từ TPP.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính. 2015. Thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam khi tham
gia TPP
2. Doãn, Thị Phương Anh. 2015. “Tác động của Hiệp định TPP đến nền
kinh tế các nước thành viên”. Tạp chí Tài chính, số 1, tr.60-62.
3. Ngô Tuấn Anh. 2015. Dịch vụ tài chính đối với thách thức hội nhập.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Nguyễn Quốc Dũng. 2015. “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) – Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam”. Tạp chí Những
vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 10, tr.27 -34
5. Phạm Thị Thanh Bình. 2015. Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Viện Kinh tế và Chính trị
thế giới.
6. Thu, Hiền. 2015. “Cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp”. Tạp chí
Tài chính.
7. World Bank. 2015. Việt Nam ở đâu trong các TPP. Hải quan Việt Nam.
8. Website:
- />- />

23



×