Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

QUẢN lý NHÀ nước đối với HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO dục sức KHỎE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.93 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HOÀNG ANH TUẤN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HOÀNG ANH TUẤN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
Ngành



: Chính trị học

Chuyên ngành

: Quản lý xã hội

Mã số

: 60. 31. 02. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Kim Hoa

HÀ NỘI – 2014


Luận văn đã chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng
Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm 2014
Chủ tịch hội đồng

PGS, TS. Phạm Huy Kỳ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Kim Hoa. Các số liệu và
kết luận trong luận văn chưa từng công bố trong bất kì một công
trình nào trước đây. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả


Hoàng Anh Tuấn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ATVSTP

An toàn vệ sinh thực phẩm

BHYT

Bảo hiểm y tế

BVTV

Bảo vệ thực vật

BVBMTE

Bảo vệ bà mẹ trẻ em

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSSK


Chăm sóc sức khỏe

CSSKBĐ

Chăm sóc sức khỏe ban đầu

CSSKSS

Chăm sóc sức khỏe sinh sản

ĐH KHXH&NV

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

GDSK

Giáo dục sức khỏe

HĐND

Hội đồng Nhân dân

HIV/AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

KHHGĐ

Kê hoạch hóa gia đình


NĐ/CP

Nghị định chính phủ

NCSK

Nâng cao sức khỏe

NVYTTB

Nhân viên y tế thôn bản

PGS, TS.

Phó giáo sư, tiến sĩ

SDD

Suy dinh dưỡng

THA

Tăng huyết áp

TTGDSK

Truyền thông giáo dục sức khỏe

TTTT


Thông tin truyền thông

TTYTDP

Trung tâm y tế dự phòng

TS

Tiến sĩ

UBND

Ủy ban Nhân dân

VSATTP

Vệ sinh an toàn thực phẩm

VD

Ví dụ

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC
KHỎE........................................................................................................8
1.1. Một số khái niệm và vai trò, ý nghĩa quản lý Nhà nước đối với hoạt động
TTGDSK....................................................................................................8
1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước đối với hoạt động truyền thông giáo
dục sức khỏe.............................................................................................18
1.3. Các nguyên tắc và nội dung của quản lý quản lý nhà nước đối với hoạt
động truyền thông giáo dục sức khỏe........................................................21
Chương 2: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH HƯNG YÊN VÀ THỰC
TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRUYỀN
THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY.....31
2.1. Khái quát chung về tỉnh Hưng Yên............................................................ 31
2.2. Thực trạng và nguyên nhân của thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt
động truyền thông giáo dục sức khỏe ở tỉnh Hưng Yên hiện nay...............36
2.3. Bài học kinh nghiệm.................................................................................. 76
Chương 3: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE Ở TỈNH HƯNG YÊN
HIỆN NAY..............................................................................................78
3.1. Cơ hội, thách thức và nhu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe ở tỉnh Hưng Yên hiện nay........78
3.2. Giải pháp nâng cao hiện quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền
thông giáo dục sức khỏe ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.................................. 83
KẾT LUẬN......................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 99
PHụ LụC........................................................................................................ 104


7


1. Lý do chọn đề tài
MỞ ĐẦU
Đảng, Nhà nước và ngành Y tế luôn coi trọng và khẳng định công tác
TTGDSK là một phần không thể thiếu được trong sự nghiệp chăm sóc sức
khỏe (CSSK) nhân dân. Nghị quyết số 46 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
23/2/2005 đã đưa ra 7 nhiệm vụ và giải pháp thực hiện “công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”, trong đó chỉ
rõ, phải nâng cao hiệu quả thông tin - giáo dục - truyền thông nhằm tạo sự
chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
đối với công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; trang bị kiến thức và kỹ
năng để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng có thể chủ động phòng
bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân thể, hạn chế những lối sống
và thói quen có hại đối với sức khoẻ, tham gia tích cực các hoạt động bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho cộng đồng.
Trong những năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ truyền thông,
sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Sở Y tế mà vai trò lòng cốt là Trung tâm
TTGDSK với các tổ chức xã hội. Công tác TTGDSK cộng đồng của tỉnh
Hưng Yên đã thu được nhiều kết quả tích cực. Thông qua hoạt động truyền
thông, người dân đã phần nào nắm được kiến thức, kỹ năng tự chăm sóc sức
khỏe cho bản thân, cho gia đình và cho cộng đồng. Đây cũng được coi là thực
hiện tốt một trong mười nội dung, nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, theo
đúng tinh thần của Tổ chức Y tế thế giới “Một đồng cho hoạt động truyền
thông thì tiết kiệm được 14 đồng cho công tác khám chữa bệnh”.
Tuy nhiên, vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, rác thải,
vệ sinh an toàn thực phẩm đang ngày càng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) tùy tiện, không đúng quy định
đang ở mức báo động đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn cho sức khỏe cộng
đồng. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh (TTYTDP), tỷ lệ người



dân nắm nguyên tắc an toàn vệ sinh lao động sau khi sử dụng thuốc BVTV
thấp, chiếm 55,9%; hiểu biết về thời gian thu hoạch sau khi phun thuốc mới
đạt 63,7%; nắm rõ triệu chứng khi bị ngộ độc thuốc trừ sâu 50,8%, biết cách
sơ cứu ngộ độc do nhiễm thuốc BVTV chỉ đạt 30%. Theo báo cáo của Chi
cục ATVSTP tỉnh, tỷ lệ người nội trợ có kiến thức ATVSTP đạt thấp 31,6%,
thực hành của người nội trợ chính 27,4% (không đạt 72,6%). Tình hình phát
triển bệnh ung thư cũng đang có những diễn biến phức tạp, năm 2011, tổng số
bệnh nhân đến khám và điều trị tại các bệnh viện là gần 1000 người, đến
tháng 11/2012 con số này đã tăng lên trên 1000 người. Bệnh tăng huyết áp
(THA), căn bệnh được cho là “tử thần giấu mặt”, năm 2011 phát hiện gần
3000 người, trong đó tiền sử THA 843 người và số không biết mình bị THA
trên 2000 người; đến năm 2012, con số này tăng lên gần 4000 người…
Tình trạng rối loạn tâm thần cũng có chiều hướng gia tăng và diễn ra ở
nhiều lứa tuổi, phổ biến là tuổi từ 18 - 45, đặc biệt là tuổi vị thành niên và
thanh niên (căng thẳng về tâm lý, trầm cảm, rối loạn tâm thần, do áp lực học,
do hoàn cảnh gia đình…), dẫn tới nhiều vụ tự tử, không tự chủ, mất kiểm soát
gây thương tích cho bản thân và cho cộng đồng.
Xu hướng vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn tăng cao,
rất ít các trường hợp gỡ bỏ thai nhi ở cơ sở Y tế công lập, chủ yếu những đối
tượng này thực hiện tại Y tế tư nhân. Nguyên nhân chính của mang thai ngoài
ý muốn , nạo phá thai, viêm phần phụ, các bệnh lây truyền qua đường tình
dục gia tăng là do kiến thức và kỹ năng trong thực hành trong CSSKSS và
KHHGĐ của người dân còn hạn chế, nhất là hành vi sử dụng bao cao su tránh
thai trong quan hệ tình dục. Theo báo cáo của trung tâm BVBMTE –
KHHGĐ, tỷ lệ nam giới biết đến biện pháp dùng bao cao su là 91,7%, nhưng
trên thực tế rất ít nam giới sử dụng, chỉ có khoảng 16,1%, còn lại là không sử
dụng biện pháp tránh thai nào.



Nguyên nhân của những tồn tại trên là do sự chuyển biến về nhận thức
và trách nhiệm của các tổ chức cơ sở Đảng, Chính quyền cơ sở, cơ quan đoàn
thể, tổ chức xã hội với hoạt động truyền thông bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe của nhân dân còn hạn chế. Việc trang bị kiến thức và kỹ năng để
mỗi người, mỗi gia đình, cộng đồng chủ động trong công tác phòng bệnh, xây
dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân thể chưa thường xuyên, liên tục, lối
sống và thói quen có hại như hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia, ô nhiễm môi
trường, sản xuất thực phẩm bẩn, không an toàn, không rửa tay trước khi chế
biến … còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều địa phương trong tỉnh.
Đội ngũ làm công tác TTGDSK từ tỉnh tới cơ sở còn yếu, thiếu, đặc
biệt là đội ngũ bác sỹ làm hoạt động truyền thông. Không mấy người mặn mà
với công tác này vì nhiều lý do, truyền thông viên của các ban ngành, đoàn
thể, trường học, hội phụ nữ, hội nông dân… tuy có phối hợp với ngành Y tế
nhưng chưa được liên tục và điều kiện tổ chức còn nhiều hạn chế.
Nhận thức về tầm quan trọng của Thông tin - Giáo dục - Truyền thông
của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, của ngành Y tế còn chưa thực sự được coi
trọng, Trung tâm TTGDSK của Ngành Y tế chưa phát huy được vai trò của
mình trong công tác tham mưu, xây dựng kế hoạch, chưa xây dựng được
nhiều chương trình hành động mang tính chiến lược để phát triển hoạt động
truyền thông, chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, về
nhân lực, về kinh tế, chưa tổ chức được những cuộc hội thảo chuyên đề bàn
về TTGDSK, chưa thật sự phát huy hết khả năng sáng tạo của mình trong
công tác quản lý mạng lưới truyền thông giáo dục sức khỏe của tỉnh nhà…
Để hoạt động TTGDSK tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới phát huy
một cách có hiệu quả, đòi hỏi cần phải có một cơ chế thích hợp, một giải pháp
đồng bộ nhằm thúc đẩy cho hoạt động truyền thông phát triển. Giải pháp ấy,
cơ chế ấy chính là một phần những nội dung cơ bản được đề cập trong đề


tài “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe ở

tỉnh Hưng Yên hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý xã hội của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu lĩnh vực TTGDSK từ trước đến nay không nhiều, tuy
nhiên cũng có một số tác giả đã nghiên cứu gần sát với lĩnh vực này trong đó có:
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của các nhà khoa học Bộ Y tế và Học viện
Quân y có tên “Đánh giá 20 năm thực hiện CSSK ban đầu ở Việt Nam”. Qua
kết quả nghiên cứu có hai nhận xét quan trọng: Một là, hoạt động truyền
thông giáo dục sức khỏe ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Hai là, hoạt động truyền thông Giáo
dục sức khỏe là sự nghiệp của cả cộng đồng.
- Công trình “Những bài học từ KHHGĐ và sức khỏe sinh sản” của tác
giả Phyllis Tilson Piotrow và Trung tâm TTGDSK- Bộ Y tế. Đây là cuốn sách
nghiên cứu chuyên ngành xuất bản nội bộ, dành riêng cho cán bộ y tế có nội
dung đề cập tới những đánh giá, tổng kết về hoạt động chăm sóc sức khỏe
sinh sản trong đó có nói tới vấn đề tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản.
- Của nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Liên, Trịnh Ngọc Quang, Đặng
Văn Việt và cộng sự trung tâm TTGDSK trung ương (2010). “Mô tả nguồn
lực, tổ chức, quản lý hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe”. Đề tài
nghiên cứu mô tả cắt ngang, định lượng được tiến hành năm 2008-2010 thông
qua thu thập bộ phiếu tự điền của hệ truyền thông thuộc 63 tỉnh, thành phố.
Mục tiêu của nghiên cứu: Mô tả thực trạng bộ máy, cơ sở vật chất, trang thiết
bị, kinh phí, nguồn lực và quản lý hoạt động truyền thông của hệ TTGDSK
hiện nay.
- Trần Xuân Thân; “Báo chí với chủ đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản”.
Khoá luận tốt nghiệp Khoa báo chí và truyền thông - Trường ĐHKHXH và


NV K43. Khóa luận đề cập đến vấn đề vai trò của truyền thông trong chăm
sóc sức khỏe sinh sản hiện nay.

- Chu Thúy Ngà (2008), “Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên báo chí
hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp cao học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
cũng đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của báo chí nói chung, truyền hình
nói riêng trong việc kịp thời phát hiện những vụ việc của một số doanh
nghiệp, cá nhân đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin của nhân
dân để trục lợi. Đồng thời định hướng cho dư luận, truyền thông, giáo dục
việc an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
- Luận văn tốt nghiệp cao học “Truyền thông giáo dục sức khỏe cho
cộng đồng trên báo chí” của học viên Đỗ Võ Tuấn Dũng cũng đề cập đến
truyền thông giáo dục sức khoẻ cộng đồng trên báo chí. Nhưng chủ yếu khảo
sát ở các báo, đài Trung ương mà chưa có địa phương.
- Báo Sức khoẻ và đời sống với công tác chăm sóc sức khoẻ nhân
dân của Bùi Thị Hạnh (Khoá luận tốt nghiệp Khoa báo chí và truyền thông Trường ĐHKHXH và NV K42). Đề tài đề cập đến vai trò và chức năng nhiệm
vụ của báo sức khỏe đời sống đối với chăm sóc sức khỏe nhân dân hiện nay.
- Bùi Thế Thực (2013), “Truyền thông giáo dục sức khỏe trên các
chương trình truyền hình địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” Luận
văn tốt nghiệp cao học Báo chí học - Học viện Báo chí và Tuyên Truyền.
Luận văn đề cặp đến các phương pháp truyền thông, những hoạt động truyền
thông về giáo dục sức khỏe đến bà con nông dân. Luận văn đưa ra những kết
luận, kiến nghị cụ thể cho các chương trình truyền thông đến vùng đồng bằng
Bắc Bộ hiện nay.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên không có công trình nào
trùng với đề tài “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền thông giáo dục
sức khỏe ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn
của mình.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt

động truyền thông giáo dục sức khỏe của tỉnh Hưng Yên, luận văn đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động truyền
thông giáo dục sức khỏe của tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3.1. Nhiệm vụ
Hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với
hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe.
Phân tích, đánh giá và chỉ ra ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên nhân
của những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
truyền thông giáo dục sức khỏe của tỉnh Hưng Yên.
Đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động truyền thông giáo dục sức khỏe của tỉnh Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền thông về giáo dục
sức khỏe của tỉnh Hưng Yên
4.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Quản lý nhà nước đối với hoạt động
truyền thông giáo dục sức khỏe của tỉnh Hưng Yên trong 3 năm (từ năm 2011
đến năm 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin về nhà nước và pháp luật, về quản lý nhà nước và truyền thông. Đề tài
cũng dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương,


chính sách, phương hướng, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu để nghiên cứu các tài

liệu: Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách, chương trình mục
tiêu Quốc gia của Nhà nước, của Tỉnh. Công trình khoa học, giáo trình giảng
dạy của các trường, kế hoạch triển khai và báo cáo tổng kết của các đơn vị có
liên quan …. làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu, tham khảo và trích lục.
+ Phương pháp điều tra, phỏng vấn, trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi.
Là phương pháp mà tác giả sử dụng trong quá trình đi thực tế tại các
đơn vị, địa phương. Nhằm thu thập thông tin, số liệu nghiên cứu cho những
lĩnh vực liên quan trong đề tài.
+ Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp...
Đây là phương pháp mang tính tổng hợp nhằm thống kê các số liệu
phục vụ cho mục tiêu phân tích, so sánh và dự đoán kết quả…
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Đề tài khi được hoàn thành sẽ là một công trình nghiên cứu tập hợp
những lý luận cơ bản nhất về quản lý TTGDSK, đồng thời đánh giá thực trạng
và hướng hoàn thiện liên quan đến quản lý Nhà nước, liên quan đến hoạt động
TTGDSK của tỉnh Hưng Yên trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân. Đây sẽ nguồn tư liệu tham khảo và là ý tưởng đề xuất đối với các
cơ quan, tổ chức hoạt động liên quan đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các từ viết tắt, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE
1.1. Một số khái niệm và vai trò, ý nghĩa quản lý Nhà nước đối với
hoạt động TTGDSK
1.1.1. Khái niệm truyền thông
Lịch sử loài người đã chứng minh, con người có thể sống được với

nhau, giao tiếp và tương tác lẫn nhau trước hết là nhờ vào truyền thông.
(thông qua ngôn ngữ hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành vi… để chuyển tải những
thông điệp, biểu lộ thái độ cảm xúc...). Qua quá trình truyền thông liên tục,
con người tạo ra mối liên hệ với nhau, đồng thời làm thay đổi nhận thức và
hành vi và tạo nên mối liên kết xã hội hoàn chỉnh.
Theo PGS,TS. Tạ Ngọc Tấn, ông đưa ra khái niệm truyền thông như sau:
Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm
người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau. [33; tr.8]
Còn PGS,TS. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) và cộng sự trong cuốn
“Truyền thông: lý thuyết và kỹ năng cơ bản” cho rằng: Truyền thông là quá
trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm…, chia sẻ các kỹ năng và
kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu
phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng. [20;tr.13]
PGS,TS. Nguyễn Văn Dững trong cuốn sách “Báo chí truyền thông
hiện đại - Từ hàn lâm đến đời thường” đã đưa ra quan niệm truyền thông như
sau:
Truyền thông ở bình diện tổng quát được hiểu là quá trình
liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm…, chia sẻ kĩ năng
và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm góp phần nâng
cao (thay đổi) nhận thức, mở rộng hiểu biết, tiến tới thay đổi thái


độ và hành vi của công chúng - nhóm đối tượng phù hợp với mục
tiêu phát triển bền vững [21,tr.10].
Và một điểm được đề cập trong nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Thúy Hằng
Truyền thông có gốc từ trong tiếng la tinh là “communice”
nghĩa là biến nó thành thông thường, chia sẻ truyền tải. Truyền
thông được hiểu đơn giản như việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý
tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một người/một nhóm người sang

một người người/một nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh,
văn bản hoặc tín hiệu. [20;tr.12]
Như vậy, có thể hiểu truyền thông là cơ sở để thiết lập các mối quan hệ
giữa con người với con người, là nền tảng hình thành nên cộng đồng, xã hội.
Hay nói cách khác, truyền thông là một trong những hoạt động căn bản của
con người hay bất cứ một tổ chức, một xã hội nào.
1.1.2. Khái niệm quản lý
* Quản lý
Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ
theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên
cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc
độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động
của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C.Mác:
Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều
cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này


10
khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một
nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc
trưởng. [15; tr. 23]
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới
mục đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.

Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động
của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp
cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các
lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
* Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ
xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo
vệ tổ quốc XHCN. [23, tr.407]
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà
nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong
quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt. Quản lý nhà
nước được hiểu theo hai nghĩa.


Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
1.1.3. Khái niệm hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
Có rất nhiều quan niệm được đưa ra về hoạt động TTGDSK, tuy nhiên
chưa có một khái niệm nào được cho là chung nhất. Để có cách nhìn tổng thể
và hoàn thiện về hoạt động TTGDSK, tác giả xin được tổng hợp và đưa ra một
số quan niệm về hoạt động TTGDSK như sau: Hoạt động TTGDSK là hoạt
động có chủ đích, có kế hoạch, được tác động qua lại liên tục giữa hai hay

nhiều người để cùng nhau chia sẻ thông tin liên quan đến sức khỏe của con
người, làm thay đổi về mặt nhận thức của con người về chăm sóc sức khỏe,
đồng thời trang bị cho con người những kiến thức cơ bản, cần thiết để con
người tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân và cho cộng đồng. Từ đó có những
thái độ, hành vi và việc thực hành đúng đắn của con người về sức khỏe.

1.1.4. Khái niệm quản lý đối với hoạt động truyền thông giáo
dục sức khỏe
Quản lý Nhà nước về TTGDSK là một lĩnh vực còn rất mới, chưa có
nhiều các nhà khoa học quan tâm đầu tư nghiên cứu. Tuy nhiên cũng có một
số những quan điểm được tác giả lựa chọn để sử dụng trong đề tài của mình
trong đó có:
- Tiến sĩ. Nguyễn Văn Hiến trong cuốn khoa học hành vi và giáo dục
sức khỏe thì quản lý hoạt động TTGDSK là:
Hoạt động quản lý để tăng cường hiệu quả sử dụng các
nguồn lực dành cho TTGDSK, là một yêu cầu cơ bản của bất kỳ
chương trình TTGDSK nào. Quy trình quản lý TTGDSK cũng
giống như các quy trình quản lý chung. Quy trình bao gồm các
bước cơ bản đó là: thu thập thông tin chẩn đoán cộng đồng, phân


tích xác định vấn đề, chọn ưu tiên, xây dựng mục tiêu, lập kế
hoạch các hoạt động trong đó có kế hoạch theo dõi, giám sát tiến
độ và đánh giá. Ngoài thực hiện các bước của quy trình quản lý y
tế chung, trong TTGDSK có ba khâu cơ bản cần được quản lý để
đảm bảo tốt các hoạt động TTGDSK; người thực hiện TTGDSK.
(nguồn phát tin); Kênh truyền thông. (đường truyền tin); người
nhận thông điệp TTGDSK. (nhóm đối tượng đích). [26,Tr 133].
- Nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Liên, Trịnh Ngọc Quang, Đặng Văn
Việt và cộng sự trung tâm TTGDSK trung ương trong đề tài “Mô tả nguồn

lực, tổ chức, quản lý hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe” thì quản lý
hoạt động TTGDSK bao gồm 4 khâu cơ bản trong quá trình TTGDSK:
- Quản lý nguồn phát tin: chính là quản lý người thực hiện
TTGDSK, cụ thể là cán bộ y tế cơ sở và nhân viên y tế thôn bản
là những người trực tiếp thực thi nhiệm vụ TTGDSK cho người
dân. Thực chất của khâu này là xây dựng kế hoạch và tổ chức
thực hiện đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng TTGDSK cho cán
bộ y tế cơ sở và nhân viên y tế thôn bản. Kỹ năng cơ bản mà
người làm GDSK cần rèn luyện nâng cao là sử dụng phương
pháp, phương tiện TTGDSK phù hợp, lựa chọn thông điệp, kỹ
năng vận động.
- Quản lý kênh truyền thông: thực chất là lựa chọn kênh
truyền thông thích hợp, tránh truyền tin sai lệch, nhiễu thông tin,
đảm bảo chất lượng tin phát ra, góp phần nâng cao hiệu quả
TTGDSK. Người làm TTGDSK cần lựa chọn kênh truyền thông
phù hợp căn cứ vào nhiều yếu tố như đối tượng đích, thời gian
tiến hành, nội dung thông điệp, phương tiện và điều kiện sẵn có.


- Quản lý thông tin phản hồi: thực chất là thu thập thông
tin kiểm tra tác động của thông điệp tới đối tượng đích giúp
người làm TTGDSK xác định vấn đề, điều chỉnh hoạt động của
mình nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Kịp thời thu nhận thông
tin phản hồi và sử dụng các thông tin này để điều chỉnh nội dung,
phương pháp, phương tiện TTGDSK là biện pháp quan trọng
nâng cao hiệu quả hoạt động TTGDSK .
- Quản lý đối tượng đích: thực chất là đánh giá hiệu quả
của hoạt động TTGDSK. Để quản lý được đối tượng đích, cần
thiết phải thành lập một mạng lưới theo dõi thường xuyên liên
tục, hiểu rõ đối tượng đích từ đó thu thập được những thông tin

phản hồi, cung cấp cơ sở dữ liệu cho đánh giá hoạt động một
cách sát thực, góp phần điều chỉnh cho hoạt động TTGDSK có
kết quả tốt [31].
Và như vậy, theo quan điểm của TS Nguyễn Văn Hiến, khái niệm về
quản lý hoạt động TTGDSK gồm 3 khâu cơ bản. Còn theo nhóm tác giả
Nguyễn Thị Kim Liên, Trịnh Ngọc Quang, Đặng Văn Việt và cộng sự trung
tâm TTGDSK trung ương thì khái niệm quản lý hoạt động TTGDSK gồm 4
khâu cơ bản. Thêm một khâu (Quản lý thông tin phản hồi) so với TS,
Nguyễn Văn Hiến. Tuy nhiên theo tác giả thì quan điểm về khái niệm của
nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Liên, Trịnh Ngọc Quang, Đặng Văn Việt và
cộng sự trung tâm TTGDSK trung ương thì khái niệm quản lý hoạt động
TTGDSK rộng hơn, phù hợp hơn trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
1.1.5 Vai trò, ý nghĩa quản lý Nhà nước đối với hoạt động thông giáo
dục sức khỏe
Hoạt động TTGDSK là một hoạt động quan trọng và đứng hàng đầu
trong bốn nhiệm vụ trọng tâm của ngành Y tế bao gồm: (Truyền thông giáo


dục sức khỏe; Y học dự phòng, phòng chống dịch bệnh; Khám, điều trị bệnh;
Phục hồi chức năng). Vì vậy, quản lý hoạt động TTGDSK có vai trò và ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội và sự phát triển xã hội. Sự tác
động của quản lý không những giúp cho việc tổ chức thực hiện hoạt động
TTGDSK được đẩy mạnh một cách có hiệu quả, mà còn định hướng cho hoạt
động này theo một chiều hướng tích cực và tuân thủ theo quy luật khách
quan. Quản lý Nhà nước về hoạt động TTGDSK cũng như các quản lý khác
với sự tham gia của nhiều thành phần trong đó chịu trách nhiệm chính là Nhà
nước, kết hợp với sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, của cộng
đồng và của nhân dân. Vai trò và ý nghĩa của việc quản lý này được thể hiện
ở một số khía cạnh cơ bản sau đây.
- Vai trò, ý nghĩa quản lý Nhà nước đối với hoạt động TTGDSK có hiện

quả chính là sự thúc đẩy cho hoạt động này phát triển
Theo báo cáo đánh giá tổng kết của Trung tâm TTGDSK trung ương.
Công tác TTGDSK trong những năm qua đã làm tốt công tác định hướng
thông tin trong việc chủ động phòng chống dịch bệnh; giải quyết tình trạng
quá tải các bệnh viện; đổi mới cơ chế tài chính y tế; thực hiện tốt chính sách
BHYT hướng tới lộ trình BHYT toàn dân; củng cố và hoàn thiện mạng lưới y
tế cơ sở; tăng cường phát triển nhân lực y tế một cách cân đối và bền vững cả
về số lượng và chất lượng; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hình
khám chữa bệnh; quan tâm đến phát triển một số lĩnh vực y học chất lượng
cao, y học mũi nhọn phù hợp với điều kiện và khả năng của Việt Nam; nâng
cao ý thức của người dân nhằm thay đổi hành vi về chăm sóc sức khỏe, đặc
biệt tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân gia đình và cộng đồng…
Trung tâm TTGDSK các tỉnh, thành phố đã thực hiện hơn 11.000 tin,
bài, phóng sự, ảnh trên sóng truyền hình tỉnh và hơn 8.000 trên sóng truyền
hình huyện; hơn 14.000 tin, bài, phóng sự trên sóng phát thanh tỉnh và 73.000


trên sóng phát thanh huyện… Các hình thức truyền thông trực tiếp được duy
trì với 3.753.064 lần thăm hộ gia đình tuyên truyền cho 14.307.804 lượt
người, 334.614 lần thảo luận nhóm tiếp cận 5.809.063 lượt người, 4.718.406
lần tư vấn trực tiếp cho 7.475.652 lượt người…
Hơn 11 triệu các loại tài liệu TTGDSK (tờ gấp, tờ rơi; áp phích, cẩm
nang, pano, khẩu hiệu, băng đĩa hình…) đã được xây dựng, biên soạn, sản
xuất với nhiều chủ đề về TTGDSK liên quan. Hoạt động đào tạo, tập huấn
nâng cao năng lực cho cán bộ truyền thông các tuyến được chú trọng. Kết
quả, đã có 5.000 lớp đào tạo, tập huấn liên quan đến kỹ năng TTGDSK,
phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng sử dụng tài liệu truyền thông, lập
kế hoạch, phương pháp giảng dậy tích cực, phát triển tài liệu truyền thông…
được tổ chức với tổng số 155.386 người được đào tạo. Trong năm 2012, hệ
TTGDSK cả nước cũng đã triển khai 147 đề tài nghiên cứu khoa học, trong

đó 73 đề tài đã được nghiệm thu, 64 đề tài đang trong quá trình thực hiện.
Hợp tác về truyền thông với các tổ chức quốc tế và trong nước được đẩy
mạnh. Đặc biệt, lần đầu tiên trong nhiều năm hệ thống TTGDSK chính thức
có nguồn kinh phí riêng cho các hoạt động truyền thông. Chỉ trong 2 tháng
thực hiện Dự án 5 về Nâng cao năng lực truyền thông và giám sát, đánh giá
Chương trình thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, 224 lớp tập huấn
được tổ chức với 1.068 lượt người được tập huấn; 175 đợt giám sát, 830 xã và
59 huyện được giám sát.
Đóng góp tích cực của hệ thống TTGDSK đã góp phần giúp ngành y tế
thực hiện đạt 4 chỉ tiêu Quốc hội giao và 17 chỉ tiêu Chính phủ giao. Ngành y
tế đã khống chế và kiểm soát thành công các bệnh dịch mới nổi như bệnh
viêm da dầy sừng bàn chân, bàn tay ở huyện Quảng Ngãi và những bệnh có
nguy cơ bùng phát thành dịch lớn như dịch cúm A ở người, bệnh tay chân
miệng, dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm, dịch sốt xuất huyết…


Và như vậy, thông qua báo cáo của trung tâm TTGDSK trung ương,
chúng ta đã thấy hoạt động TTGDSK trong những năm qua đã có nhiều
chuyển biến tích cực, năm sau tốt hơn năm trước, các chương trình mục tiêu
được triển khai thực hiện một cách có hiệu quả, các tiến bộ khoa học được áp
dụng. Việc thực hiện chủ chương của Đảng trong công tác chăm sóc sức khỏe
nhân dân được cải thiện .v.v. Điều này đã chứng minh rằng Quản lý tốt hoạt
động TTGDSK chính là thúc đẩy cho sự phát triển của hoạt động này.
- Quản lý Nhà nước đối với hoạt động TTGDSK có hiệu quả là tạo ra
sự phối hợp giữa nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội, với nhân dân và
cộng đồng trong việc thực hiện trách nhiệm của mình trong công tác chăm
sóc sức khỏe nhân dân, đưa vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân trở thành
vấn đề chung của toàn xã hội
Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân là trách nhiệm của Đảng, của
Nhà nước, và của toàn xã hội. Với vai trò nhân nhân làm chủ, Nhà nước lãnh

đạo và quản lý. Hoạt động TTGDSK không chỉ là hoạt động của Nhà nước
mà nó là sự phối kết hợp giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và của
cả cộng đồng. Việc chăm lo sức khỏe nhân dân là một nhiệm vụ hết sức nặng
nề đòi hỏi cần phải có sự tập trung cao độ của cả hệ thống chính trị cũng như
của toàn xã hội. Nhà nước với vai trò là người quản lý, nhà hoạch định chính
sách, có nhiệm vụ xây dựng các chương trình, mục tiêu, kế hoạch và triển
khai thực hiện. Các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng có trách nhiệm
giúp Nhà nước tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế hoạch đề ra.
Trong điều 3 Luật bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân ghi rõ:
Nhà nước chăm lo bảo vệ và tăng cường sức khoẻ nhân
dân; đưa công tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân vào kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước; quyết định những
chế độ chính sách, biện pháp để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ
nhân dân.


Đồng thời trong Luật bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng nêu
rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các
đơn vị vũ trang nhân dân; các tổ chức chính trị xã hội đối với công tác này:
Các cơ quan Nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh của
Nhà nước, các đơn vị vũ trang nhân dân (gọi chung là các tổ
chức Nhà nước), các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tập thể và tư
nhân có trách nhiệm trực tiếp chăm lo, bảo vệ, tăng cường sức
khoẻ của những thành viên trong cơ quan, đơn vị mình và đóng
góp tiền của, công sức theo khả năng cho công tác bảo vệ sức
khoẻ nhân dân;
... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Tổng hội y dược
học Việt Nam, Hội y học cổ truyền dân tộc Việt Nam và các tổ

chức xã hội khác động viên, giáo dục các thành viên trong tổ
chức thực hiện những quy định của pháp luật về bảo vệ sức khoẻ
nhân dân và tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ
nhân dân trong phạm vi điều lệ của tổ chức mình;
Hội chữ thập đỏ Việt Nam tuyên truyền, phổ biến những
kiến thức y học thường thức cho hội viên và nhân dân, vận động
nhân dân thực hiện các biện pháp giữ gìn sức khoẻ cho bản thân
và cho mọi người, hiến máu cứu người; tổ chức cứu trợ nhân dân
khi có tai nạn, thiên tai, dịch bệnh và chiến tranh xảy ra.
- Quản lý Nhà nước đối với hoạt động TTGDSK có hiệu quả nhằm tạo
hành lang pháp lý để duy trì hoạt động chung.
Để làm tốt công tác quản lý và thúc đẩy hoạt động TTGDSK, Nhà nước
ban hành ra các bộ luật, văn bản dưới luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý để
duy trì và thúc đẩy hoạt động này. Mỗi đơn vị hành chính từ trung ương đến


địa phương đều có vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình. Các tổ chức chính
trị xã hội, quần chúng, nhân dân và các cá nhân đều có trách nhiệm, nghĩa vụ
thực hiện những nội dung đã được quy định cụ thể trong luật và văn bản pháp
luật đã được ban hành. Trong điều khoản 2 điều 1 luật bảo vệ sức khỏe nhân
dân ghi rõ: “Bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn dân. Tất cả công dân có
nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về bảo vệ sức
khoẻ nhân dân để giữ gìn sức khoẻ cho mình và cho mọi người”.
1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước đối với hoạt động truyền
thông giáo dục sức khỏe
Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền thông
giáo dục sức khỏe dựa trên cơ sở hệ thống Pháp luật Việt Nam, trong đó trực
tiếp quản lý và chi phối là Luật báo chí (1989); Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Báo chí ngày 12 tháng 6 năm 1999; Luật khám chữa bệnh
(2009); Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc

ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí. Ngoài ra cơ
sở pháp lý của quản lý hoạt động TTGDSK còn là sự quản lý và chi phối của
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số: 14/2012/QH13 ngày 20 tháng 06 năm
2012 của Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành .v.v.
Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền thông
giáo dục sức khỏe còn dựa trên cơ sở hệ thống văn bản dưới luật bao gồm:
văn bản quản lý theo ngành, theo lĩnh vực (quản lý theo chiều dọc từ Bộ y tế
xuống Sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc). Văn bản quản lý theo chiều
ngang (quản lý theo địa giới hành chính). Văn bản của các đơn vị có chức
năng nhiệm vụ quản lý chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể, và các
chương trình, mục tiêu, đề án, dự án của Nhà nước được phê duyệt đây là hệ
thống những văn bản làm cơ sở pháp lý cho quản lý hoạt động truyền thông
giáo dục sức khỏe.


Có thể phân loại cơ sở pháp lý của quản lý TTGDSK theo 4 nhóm cơ
bản như sau:
- Nhóm một, hệ thống văn bản Pháp luật Việt Nam
- Hiến pháp (1992) ; sửa đổi năm (2013): Đây là bộ luật gốc cơ bản để
ban hành ra các bộ luật khác.
- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số14/2012/QH13 ngày 20 tháng
06 năm 2012 của Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành. (Luật này quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm
tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và
các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật).
- Luật báo chí (1989); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí ngày 12 tháng 6 năm 1999. Nghị định số: 51/2002/NĐ-CP, ngày 26 tháng
04 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí.

- Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.
- Luật khám chữa bệnh số: 40/2009/QH12. (Luật này quy định quyền
và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; quy định chuyên môn kỹ thuật trong
khám bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh,
chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh
chấp trong khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh,
chữa bệnh).
- Nhóm hai, văn bản quản lý theo ngành, theo lĩnh vực chuyên môn
(quản lý theo chiều dọc).


×