Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II tác động của hiệp định thương mại CPTPP đến vấn đề sở hữu trí tuệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.15 KB, 21 trang )

I.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
CPTPP VÀ VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ (SHTT) Ở VIỆT NAM
1.

Hiệp định thương mại CPTPP

1.1.

Lịch sử

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership
Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp định/thỏa thuận thương mại tự do được
ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New
Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các
nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005 và
có hiệu lực ngày 28 tháng 05 năm 2006. Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia
nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14
tháng 11 năm 2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật
Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của
tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội
nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ.Vào cuối năm 2016, sau
khi tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, theo chính sách mới của Donald
Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi hiệp định này.
Ngày 11 tháng 11 năm 2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được thoả thuận cơ bản
cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive
and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership).
1.2.


Phạm vi đàm phán

CPTPP sẽ giúp cắt giảm hàng rào thuế quan giữa 11 quốc gia thành viên với
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lên đến 10 nghìn tỷ USD, tương đương hơn 13%
nền kinh tế thế giới.
11 quốc gia thành viên CPTPP gồm có Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật
Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), tiền thân của CPTPP, với 12
quốc gia thành viên, liên tục gặp sóng gió khi Tổng thống Donald Trump tuyên
bố rút Mỹ khỏi hiệp định này chỉ ba ngày sau khi nhậm chức. Ông Trump cho
biết quyết định này nhằm bảo vệ người lao động Mỹ.
11 quốc gia thành viên còn lại đã thống nhất bản sửa đổi của hiệp định vào tháng
1 vừa qua. Hiệp định này sẽ có hiệu lực khi có ít nhất 6 quốc gia hoàn tất quá
trình phê chuẩn trong nước.

1


1.3.

Những điểm mới của CPTPP so với TPP

Thứ nhất, đó là thay đổi về tên gọi. TPP cũ có tên đầy đủ là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership). Hiệp định mới lần này đã
bổ sung 2 từ "Toàn diện" (Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive) vào tên
gọi chính thức.
Đây là hiệp định rất toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực không chỉ về thương mại
mà còn đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác. Về bản chất là
cao hơn, tiến bộ hơn so với các hiệp định đã được ký kết trước đây. Và vấn đề
chúng ta đang quan tâm ở đây là lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã được bổ sung.

Thứ hai, số lượng thành viên trong Hiệp định CPTPP mới còn 11 nước, bao gồm
Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore và Việt Nam, với quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP và 15,2%
tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, thấp hơn khá nhiều so với quy mô của TPP
khi có Mỹ (38.2% GDP và 26.5% kim ngạch thương mại toàn cầu).
Mặc dù Mỹ rời khỏi nhưng quy mô của CPTPP vẫn khá lớn và bao hàm một số
thị trường quan trọng với Việt Nam như Nhật Bản, Úc, Canada, Mexico … trong
khi gánh nặng thực thi các điều khoản đã giảm đáng kể so với trước. Do đó, Việt
Nam vẫn sẽ tìm được những nguồn lợi ích tương đối lớn khi tham gia Hiệp định
này. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia tham gia đàm phán đều kỳ vọng sự quay lại
của Mỹ trong tương lai, nên CPTPP sẽ là bước đầu để thúc đẩy liên kết và hợp
tác trong khu vực.
Thứ ba, thay đổi về hiệu lực của Hiệp định. Theo quy định của TPP cũ, để Hiệp
định có hiệu lực thì tổng GDP của các nước triển khai phải bằng 85% tổng GDP
của 12 nước đã ký từ năm 2013. Như vậy, với tình huống Mỹ, quốc gia chiếm
tới 60% GDP toàn khối, rút lui khỏi TPP, thì 11 nước còn lại sẽ phải thay đổi
điều khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc
gia thành viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày
ký.
Sự thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi để CPTPP có thể dễ dàng được thực
hiện trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, Hiệp định mới còn bổ sung các quy định
về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo tính linh
hoạt của Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành viên mới.
Cuối cùng, CPTPP có khoảng 20 nội dung bị tạm hoãn so với TPP cũ, chủ yếu là
các cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia đề xuất trước đây. Cụ
thể, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền lợi
của người sở hữu sáng chế. CPTPP sẽ hoãn việc yêu cầu các nước thành viên
thay đổi luật và thông lệ của mình để bảo vệ các dược phẩm mới, bao gồm cả
chế phẩm sinh học, không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug).
2



CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản quyền trong những
trường hợp do sự chậm trễ cuả cơ quan cấp bằng hoặc những trì hoãn bất hợp lý
trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một loại dược phẩm
nào đó vào các nước thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên của Hiệp định
mới sẽ không cần phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 50 lên 70 năm …
1.4.

Các quy định của CPTPP về sở hữu trí tuệ

Về sở hữu trí tuệ được nêu trong chương 18 của hiệp định này. Đây là nội dung
mới được bổ sung sau khi đổi tên hiệp định thành CPTPP. Chương 18 được sơ
lược như sau:
Chương 18 (Sở hữu trí tuệ)
(a) Điều 18.8: Đối xử Quốc gia
(b) Điều 18.37: Đối tượng có thể được Cấp bằng Độc quyền Sáng chế
(c) Điều 18.46: Điều chỉnh Thời hạn Bằng sáng chế do sự chậm trễ không lý do
của Cơ quan cấp Bằng sáng chế
(d) Điều 18.48: Điều chỉnh Thời hạn Bảo hộ Sáng chế do bị rút ngắn bất hợp lý
(e) Điều 18.50: Bảo hộ Dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc Dữ liệu bí mật khác
(f) Điều 18.51: Sinh phẩm
(g) Điều 18.63: Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan
(h) Điều 18.68: Các biện pháp Công nghệ Bảo vệ Quyền (TPMs)
(i) Điều 18.69: Thông tin Quản lý Quyền (RMI)
(j) Điều 18.79: Bảo hộ Tín hiệu cáp và Tín hiệu vệ tinh mang chương trình
được Mã hoá
(k) Điều 18.82: Chế tài pháp lý và Khu vực an toàn
Phần phụ lục
2.


Giới thiệu về sở hữu trí tuệ

2.1.

Khái niệm sở hữu trí tuệ

a) Khái niệm
Sở hữu trí tuệ là một thuật ngữ được cấu tạo bởi hai cụm từ là cụm từ “sở hữu”
và cụm từ “trí tuệ”. Muốn hiểu rõ khái niệm này, cần phải tìm hiểu nghĩa cả hai
cụm từ “sở hữu” và “trí tuệ”.
“Sở hữu” là khái niệm dùng để chỉ sự chiếm hữu của con người đối với tài sản.
Của cải vật chất trong xã hội là những giá trị hữu hình hoặc vô hình đem lại lợi
ích thiết thực cho người sở hữu. Hay nói cách khác, của cải vật chất này chính là
3


tài sản. Có hai loại tài sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản trí tuệ là
tài sản vô hình.
“Trí tuệ” là thuật ngữ chỉ “khả năng nhận thức lý tính của con người đạt đến
một trình độ nhất định” về một sự vật hay hiện tượng nào đó. Tài sản trí tuệ là
kết quả nghiên cứu thông qua hoạt động lao động sáng tạo của con người và
đem lại cho người sáng tạo những lợi ích thiết thực.
Sở hữu trí tuệ là sở hữu tri thức, sở hữu những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con
người. Một cách dễ hiểu, sở hữu trí tuệ là việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ
lợi ích có được từ các sản phẩm sáng tạo đó. Do đặc tính vô hình của tri thức,
của loại tài sản trí tuệ nên khó có thể xác định được đặc điểm vật chất của sở
hữu trí tuệ.
Một người đầu tư công sức, tiền bạc để viết một cuốn sách nhưng sau khi công
bố thì thông tin trong cuốn sách trở thành của chung và ai cũng có thể sử dụng

và hưởng thụ thông tin đó. Như vậy, từ giác độ kinh tế, nếu không có một cơ chế
hoàn trả chi phí thì sẽ không thể khuyến khích các chủ thể sáng tạo, càng không
thể phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức. Vì thế, chính sách và pháp luật phải
được ban hành để bảo hộ tài sản trí tuệ nhằm xác lập, thừa nhận, củng cố quyền
sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho tài sản trí tuệ phát triển và đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế của đất nước.

b) Mục tiêu của luật sở hữu trí tuệ
* Ngăn chặn được sự sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng nhái. Hàng giả, hàng
nhái đều là những sản phẩm vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và gây thiệt hại cho
nhà sản xuất chân chính cả về doanh thu và uy tín. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
sẽ giúp loại bỏ các sản phẩm này ra khỏi thị trường, đảm bảo quyền lợi của cả
nhà sản xuất chân chính và người tiêu dùng.
* Khuyến khích sáng tạo tại chỗ và chuyển giao công nghệ. Nhiều nhà phát
minh trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài thường nản lòng khi không có
chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đủ mạnh ở nước sở tại, họ không có động
lực để sáng tạo và cũng không muốn đem công nghệ mới hoặc nghiên cứu
phát triển công nghệ ở nước sở tại vì sợ bị mất bí mật công nghệ.
Từ góc độ vật chất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhằm đảm bảo cho người
sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù
đắp lại công lao sáng tạo.
4


Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn gắn với thời hạn bảo hộ. Hết thời hạn này,
các sáng tạo trở thành tài sản chung của nhân loại và tất cả mọi người có thể
khai thác, sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả thù lao cho người sáng tạo.
Trong thời gian bảo hộ sáng chế, những người khác chỉ được sử dụng thông tin
về sáng chế để nghiên cứu chứ không phải để kinh doanh, trừ phi đã được người
sở hữu bằng sáng chế cho phép.


2.2.

Hệ thống luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

a) Quá trình hình thành luật
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, được Quốc hội Việt Nam khóa XI trong kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7
năm 2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo
hộ các quyền đó.
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam bảo vệ các quyền như sau:
1.
Quyền sở hữu trí tuệ: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ,
bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng
2.
Quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu
3.
Quyền liên quan đến quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa
4.
Quyền sở hữu công nghiệp: quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
5.
Quyền đối với giống cây trồng: quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống

cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được
hưởng quyền sở hữu
6.
Tên thương mại: tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực

b) Đối tượng của Luật SHTT
5


Người ta đã nhóm các loại hình sáng tạo của con người thành một số loại đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ sau đây:
1.
2.

– Bản quyền tác giả
– Bằng sáng chế

3.

– Thương hiệu

4.

– Kiểu dáng công nghiệp

5.

– Sơ đồ bố trí mạch tích hợp


6.

– Chỉ dẫn địa lý

Tại Việt Nam, các vấn đề về bản quyền như đăng ký logo độc quyền, bản quyền
tác giả… do Cục Bản quyền Tác giả (Bộ Văn hóa – Thông tin) xem xét giải
quyết. Các quyền còn lại thuộc phạm vi quản lý của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ
Khoa học và Công nghệ).

II.

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM

1.

Những vấn đề còn tồn tại về vấn đề SHTT ở Việt Nam

Hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta được bắt đầu triển khai từ
những năm 80, nhưng chỉ từ khi Quốc hội ban hành bộ Luật Dân sự (năm 1995)
thì hoạt động này mới bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành
Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005) và Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
thì hoạt động này trở nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ,
bao gồm: bản quyền tác giả và các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa, tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới... Từ năm 2005
đến nay, việc đăng ký và cấp chứng nhận bảo hộ tăng bình quân hằng năm 20%.
Về quyền tác giả, nhiều cuốn sách hay của nước ngoài đã được mua bản quyền
tác giả để dịch và xuất bản ở trong nước. Về quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa tăng 25% - 30%, đăng ký bảo hộ các sáng chế cũng tăng
10% - 15%, nhưng phần lớn (chiếm trên 65%) là của nước ngoài đăng ký ở Việt

6


Nam Thời gian được cấp chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ sau khi hoàn tất thủ
tục chỉ trong hai tháng (nếu không xảy ra tranh chấp), đây là những kết qủa khá
ấn tượng. Trong những nhận định đánh giá, nhất là đánh giá của một số đối tác
quan trọng trong kinh tế (đầu tư, thương mại) trong quá trình đàm phán gia nhập
WTO của Việt Nam là EU, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ và Ô-xtrây-li-a đều có chung
nhận định rằng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản
pháp luật về sở hữu trí tuệ nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc
phục.
Thực tế, tình trạng vi phạm luật sở hữu trí tuệ và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
đang biểu hiện ở các mặt sau:
a) Có tính phức tạp và có dấu hiệu phổ biến.
+ Về quyền tác giả, những vi phạm với tác giả nước ngoài đã giảm (chỉ xảy ra
một, hai vụ bị kiện) trong mấy năm gần đây, nhưng trong nước thì tình trạng
xuất bản, điện ảnh, nhiếp ảnh, nghệ thuật tạo hình bị sao chép nhiều (như tranh
ký tên Bùi Xuân Phái hay Nguyễn Tư Nghiêm trên thị trường nhiều gấp ba, bốn
lần số tranh đích thực do hai họa sĩ này vẽ). Nghệ thuật biểu diễn, công nghiệp
ghi âm, ghi hình, sao chép lậu sách báo, phim ảnh, các chương trình biểu diễn ca
nhạc, chương trình truyền hình cũng ở tình trạng tương tự (như các phim do
Trung tâm truyền hình Việt Nam, Chương trình "Gặp nhau cuối tuần" bị in bán
tràn lan trên thị trường, nguy hiểm hơn đã có nhiều phim và chương trình truyền
hình của VTV bị đánh cắp, biên tập lại và phát hành băng đĩa lậu tại Việt Nam,
Mỹ, Ô-xtrây-li-a, châu Âu...). Sự xâm phạm quyền tác giả của các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, thậm chí cả khoa học và nổi bật nhất là những phần mềm máy
tính vẫn diễn biến phức tạp (đặc biệt có vụ in lậu số lượng lớn sách giáo khoa
mới phát hiện vào tháng 8-2007).
+ Đối với sở hữu công nghiệp, vi phạm xảy ra phổ biến nhất là với các nhãn
hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp. Tuy vậy, các dạng tài sản khác cũng đã

có xâm phạm như: chỉ dẫn địa lý (do sự nổi tiếng của nước mắm Phú Quốc nên
có nhiều hãng trong nước và nước ngoài đã gắn tên sản phẩm của họ bằng nhãn
7


hiệu "Nước mắm Phú Quốc" để dễ dàng tiêu thụ sản phẩm); tên thương hiệu
(điển hình là vụ khiếu kiện đặt tên "Vang đỏ Đà Lạt" gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng với sản phẩm có tiếng "Vang Đà Lạt" đã xin bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa); và gần đây xuất hiện các vụ việc xâm phạm sáng chế và giống cây trồng.
Cũng không kém phần nghiêm trọng là mọi chủng loại sản phẩm hàng hóa đều
có hàng nhái, hàng giả từ hàng tiêu dùng thông thường như thực phẩm, đồ uống,
quần áo, giày dép, đồ dùng vệ sinh cá nhân, đến đồ gia dụng, phương tiện máy
móc hoặc các sản phẩm cao cấp, đặc dụng như mỹ phẩm, dược phẩm... (ví dụ
các sản phẩm Sunligh, P/S, Sunsilk, Clear, Dove và Lifebuoy của hãng Unilever
Việt Nam); sao chép kiểu dáng (nhái phông chữ, thương hiệu, kiểu dáng bao bì
tương tự của Công ty Acecook Việt Nam sản xuất và kinh doanh mì ăn liền;
hoặc mang các chỉ dẫn địa lý giả mạo. Xâm phạm sở hữu trí tuệ còn xảy ra cả ở
khu vực sản xuất, chế biến, lưu thông và xuất nhập khẩu (do thiếu hiểu biết về
luật lệ quốc tế mà không ít trường hợp nhà sáng chế Việt Nam bỏ lỡ quyền của
mình như máy quay băng Vũ Hùng, võng xếp Vĩnh Lợi), trong đó phổ biến nhất
là ở khâu nhập khẩu. Hàng nhái, hàng sao chép phi pháp, hàng có chứa yếu tố vi
phạm có mặt cả ở thành thị lẫn nông thôn, được bày bán cả ở các sạp hàng nhỏ,
tại các chợ lẫn ở các trung tâm thương mại hiện đại và các siêu thị. Hành vi xâm
phạm xảy ra ở mọi thành phần kinh tế: tư nhân, nhà nước và liên doanh, thậm
chí ở cả một số doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài (tuy nhiên chỉ có một số
trường hợp hãn hữu).
b) Mức độ nghiêm trọng của tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ đang gia tăng.
Theo thống kê sơ bộ, số vụ vi phạm về sở hữu trí tuệ vào đầu những năm 90 thế
kỷ xx chỉ có vài chục vụ, thì đến nay đã tăng đáng kể. Như, năm 1994 chỉ có 48
vụ (trong đó, 1vụ xâm phạm sáng chế, 6 vụ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp và

41 vụ xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa), năm 2003 là 326 vụ (với số tương ứng là
23, 43 và 260), đến năm 2006 đã tăng lên gần 500 vụ (tương ứng 60, 152 và
288). Số liệu đó cho thấy việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không
những gia tăng về số lượng, mà bắt đầu xảy ra ngày càng nhiều với các sáng chế
8


và giải pháp hữu ích. Về chất lượng hoặc hình thức, cách đây một thập niên sự
xâm phạm dễ phát hiện và phân biệt với hàng chính hiệu, còn hiện nay lâm vào
tình trạng thật giả lẫn lộn, rất khó phân biệt, nhận biết. Việc nhái các nhãn hiệu,
kiểu dáng bao bì... không chỉ xảy ra với các sản phẩm tiêu dùng thông thường
mà đã và đang xảy ra với những sản phẩm có công dụng và chức năng đặc biệt
như thuốc chữa bệnh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, sắt
thép xây dựng, xi-măng...
Về quyền tác giả, việc sao chép tác phẩm không chỉ xảy ra với các sản phẩm
giải trí như băng đĩa ca nhạc, phim ảnh và không chỉ thực hiện bởi những người
buôn bán thuần túy, mà còn xảy ra cả với các sản phẩm nghiên cứu, sáng tác,
phần mềm... Việc mạo nhận tác giả, sao chép từng phần hoặc toàn bộ tác phẩm,
xào xáo lại tác phẩm xuất hiện ở một số lĩnh vực. Cùng với đà phát triển công
nghệ, phương tiện và công nghệ sao chép, bắt chước ngày càng được cải tiến và
có mặt ở Việt Nam ngày một nhiều, nên sản phẩm vi phạm được sản xuất với số
lượng lớn và tốc độ tăng nhanh. Thực tế, nhiều người buôn bán, nhiều cửa hàng
băng đĩa ở các thành phố lớn đều bán băng đĩa sao chép lậu, thậm chí tỷ lệ còn
lớn hơn băng đĩa có bản quyền.
Mặt khác, một bộ phận lớn dân cư không có khả năng tiếp cận với sản phẩm
chính hiệu giá cao, nhu cầu chất lượng bị giá cả của sản phẩm đẩy xuống hàng
thứ yếu, do đó trong thực tế đang tồn tại một mâu thuẫn lớn giữa cung và cầu
đối với sản phẩm trí tuệ.
Từ thực trạng trên, có thể rút ra một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, cơ chế bảo đảm thực thi chưa được hoàn thiện và chưa phát huy đúng

mức, biểu hiện vụ việc được giải quyết ở tòa án rất ít ỏi, mà chủ yếu được giải
quyết ở các cơ quan hành chính, cùng với các quy định đã có nhưng mới chỉ
dừng ở nguyên tắc chứ chưa đủ chi tiết, nên việc áp dụng các chế tài bị lẫn lộn
và thiếu hiệu quả. Trình tự dân sự đáng lẽ phải được coi là biện pháp chủ yếu
nhưng các quan hệ dân sự thông thường đã bị hành chính hóa một cách quá
mức.
9


Thứ hai, các tổ chức bảo đảm thực thi chưa thực sự phù hợp. Chúng ta tuy có
nhiều cơ quan (mỗi cơ quan lại có nhiều cấp: tỉnh, huyện) có chức năng và thẩm
quyền xử lý hành chính về sở hữu trí tuệ , nhưng năng lực chuyên môn của
chính hệ thống này lại chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tế. Hiện nay, tại các
tòa án và các cơ quan bảo đảm thực thi sở hữu trí tuệ khác có rất ít cán bộ được
đào tạo về lĩnh vực này.
Thứ ba, sự hiểu biết của toàn xã hội đối với vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ còn hạn
chế: chưa hình thành tập quán tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, các chủ thể sở hữu
trí tuệ chưa chủ động thực hiện việc bảo vệ quyền và tài sản của mình mà còn
mang nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Đây còn là lĩnh vực mới mẻ
với đa số cán bộ, công chức nhà nước và gần như hầu hết các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mạng lưới dịch vụ về sở hữu trí tuệ còn rất
mỏng, số chuyên gia dịch vụ mới chỉ có khoảng gần 200 người với trên 30 công
ty cung cấp dịch vụ này. Thông tin sở hữu trí tuệ đang là một trong các khâu yếu
nhất của hoạt động sở hữu trí tuệ, với năng lực tài nguyên thông tin có tại Việt
Nam về sở hữu trí tuệ thuộc loại trung bình, song chưa được phát huy đầy đủ, số
lượt người khai thác thông tin sáng chế rất thấp chỉ khoảng hơn 1.000 lượt
người/năm ở cả ba trung tâm tư liệu sáng chế: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
và Đà Nẵng và phần lớn các yêu cầu tra cứu là về nhãn hiệu hàng hóa và kiểu
dáng công nghiệp.
Thứ tư, do ảnh hưởng từ mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế, thực tế không

phải mọi loại hàng nhái, hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ đều được sản xuất ở Việt
Nam, mà một khối lượng hàng hóa loại đó được sản xuất ở nước ngoài rồi đưa
vào Việt Nam theo nhiều đường, bằng nhiều cách để tiêu thụ.

10


2.

Thành tựu

Năm 2009, nhằm theo kịp với tình hình trong nước và xu thế hội nhập thế giới,
Luật SHTT, Bộ luật Hình sự (phần SHTT) cũng đã được sửa đổi, từng bước
hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về SHTT. Kèm theo đó là 2 Thông tư
liên quan đến giám định và phí, lệ phí cũng được sửa đổi cho phù hợp với các
nội dung sửa đổi Luật SHTT. Năm 2010 là năm đánh dấu bước hoàn thiện hệ
thống pháp luật tiếp theo thông qua việc sửa đổi 3 Nghị định quy định chi tiết
để phù hợp với Luật SHTT mới. Cũng trong năm này, Nghị định mới về đăng
ký kinh doanh với các quy định nhằm tránh tình trạng đặt tên doanh nghiệp xâm
phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ
trước cũng được ban hành, góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc
trong hoạt động áp dụng pháp luật về SHTT.
Việc nghiên cứu tham gia đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế song
phương và đa phương về SHTT cũng được thực hiện với nhiều nỗ lực như: hoàn
thành các thủ tục cần thiết để gia nhập Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế
11


nhãn hiệu (chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 11/07/2006); tham gia
chuẩn bị nội dung SHTT trong Hồ sơ xin hưởng GSP của Hoa Kỳ; xây dựng

quan điểm và tham gia đàm phán nhiều điều ước quốc tế (nội dung về SHTT),
trong đó ngoài một số văn kiện vẫn đang trong quá trình đàm phán , nhiều văn
kiện đã được hoàn thiện và ký kết . Hoạt động quản lý nhà nước đối với các đại
diện sở hữu công nghiệp (SHCN) đã được chú trọng. Các kỳ thi kiểm tra nghiệp
vụ đại diện không ngừng được đổi mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ đại diện SHCN. Đến tháng 10/2010, đã có 125
tổ chức được ghi nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN và 278
cá nhân được cấp Chứng chỉ hành nghề đại diện.
Kể từ năm 2008, sau khi nước ta gia nhập WTO, các giao dịch M&A tại Việt
Nam đã gia tăng đáng kể cả về số lượng cũng như giá trị giao dịch

3.

Cơ hội

- CPTPP được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu
thế kỷ 21, gồm 30 chương, đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng
12


hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới, như: thương mại điện tử, tạo
thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…
- Kinh tế Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn khi CPTPP- có phạm vi ảnh
hưởng tới 40% GDP toàn cầu, được ký. Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn;
GDP có thể tăng thêm 8 đến 10% đến năm 2030, thậm chí còn nhiều hơn. Đây là
cú hích lớn cho Việt Nam nhưng cũng đem lại áp lực cho nhà sản xuất trong
nước. Họ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, nhưng điều này sẽ thúc đẩy năng suất
lao

động;


rất

tốt

cho

Việt

Nam

trong

tăng

trưởng

dài

hạn.

- Tham gia vào CPTPP, Việt Nam có nhiều cơ hội và thuận lợi cơ bản, đó
là: Mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường xuất khẩu nông sản. Việt
Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và
Nhật Bản. Điều quan trọng nhất là, thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ giảm
xuống 0%, đây thực sự là cú huých mạnh cho xuất khẩu, tác động tích cực đến
thu nhập của người dân, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng
cao kim ngạch xuất khẩu của VN.

- Tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài

chính thế giới. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh,
tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và tiếp cận các
nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn. Dòng vốn từ nhiều nước thành viên
CPTPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể
về công nghệ và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao
hơn. Mức tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội
cho Việt Nam khai thác các lợi thế, tiềm năng về nông nghiệp. Gia nhập TPP,
Việt Nam sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước thành viên, nhằm

13


hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào
chuỗi sản xuất trên phạm vi toàn cầu…
4.

Thách thức của Việt Nam

CPTPP mang lại nhiều cơ hội song thách thức cũng không ít. Mặc dù vấn đề bảo
hộ quyền SHTT đã được Chính phủ triển khai từ rất lâu. Thời gian qua, nước ta
đã có nhiều văn bản, quy phạm pháp luật được ban hành nhằm hiện thực hóa
việc xác lập quyền SHTT nhưng trên thực tế, quản lý thực thi quyền sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam còn lỏng lẻo. Ở nước ta, mặc dù đã có quy định về việc thực thi
quyền sở hữu trí tuệ nhưng việc thực thi bảo hộ chỉ dẫn địa lý nói riêng và quản
lý việc sử dụng, ghi nhãn nguồn gốc xuất xứ chưa thật sự hiệu quả. Hầu như chỉ
có biện pháp hành chính được áp dụng là chủ yếu. Hiệu quả các biện pháp hành
chính cũng tương đối hạn chế, trong khi biện pháp dân sự theo yêu cầu của các
bên liên quan cũng như việc thực thi liên quan tới nguồn gốc thực phẩm cũng
còn rất nhiều vấn đề.
Nhìn chung, sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đang tồn tại “ba điểm yếu lớn”, gồm:

- Pháp luật chỉ xử phạt hành chính, chưa có quy định xử lý hình sự, hình sự hóa
các vi phạm liên quan tới sở hữu trí tuệ như quy định của CPTPP;
- Bảo hộ với dược phẩm, CPTPP đòi hỏi cao về quyền sở hữu trí tuệ, mặc dù đã
“đóng băng” một số điều khoản liên quan như đối với dược phẩm trong đó vấn
đề gay cấn nhất là bảo hộ cơ sở dữ liệu thử nghiệm;
-Nếu đáp ứng yêu cầu rất cao về nông hóa phẩm, thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sản
xuất nông nghiệp.

Như vậy, sở hữu trí tuệ vẫn là thách thức lớn đối với Việt Nam. Tham gia
14


CPTPP, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ cho thích hợp với
quy định của Hiệp định. Đồng thời, coi đây là áp lực để thực hiện tốt hơn pháp
luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ, nhất là tệ nạn hàng nhái, hàng giả, ăn cắp bản
quyền, thương hiệu…

III. GIẢI PHÁP VÀ HƯỚNG ĐI CỦA VIỆT NAM TRONG
VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SHTT PHÙ HỢP VỚI MÔI TRƯỜNG
THƯƠNG MẠI TỰ DO
1.

Giải pháp về hoàn thiện pháp luật liên quan đến SHTT

Việt Nam đã và đang hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật và tạo hành lang pháp
lý đầy đủ để giúp các doanh nghiệp, người dân thực thi quyền, nghĩa vụ liên
quan đến SHTT, thông qua việc ban hành Luật SHTT năm 2005; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009. Luật Sở hữu trí tuệ ra đời
đã góp phần đưa SHTT đi vào cuộc sống, bảo hộ các đối tượng SHTT, thúc đẩy
sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu cơ bản cho hội nhập quốc tế về SHTT nói riêng,

hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước nói chung. Tuy nhiên,
nếu xem xét một cách kỹ lưỡng cả về phương diện nội dung lẫn thi hành pháp
luật SHTT, vẫn còn một số vấn đề khiến cho việc thực thi Luật gặp nhiều khó
khăn. Thực tế vấn đề SHTT vẫn là thách thức lớn đối với Việt Nam, một nước
có trình độ phát triển thấp nhất trong 11 quốc gia tham gia CPTPP. Do đó, để
đáp ứng được những yêu cầu trong thỏa thuận khi CPTPP sẽ có hiệu lực vào đầu
năm 2019 thì Việt Nam cần phải tích cực hoàn thiện, sửa đổi các văn bản hệ
thống pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế.
-

Phải bổ sung các quy định, khái niệm còn thiếu ít nhất là trong sự nhất

quán với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên, những quy định
đã có thì phải được giải thích rõ ràng hơn trong luật hoặc trong văn bản dưới
luật. Ví dụ liên quan đến vấn đề nhãn hiệu, khoản 1 Điều 72 Luật SHTT quy
định: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: là dấu hiệu nhìn thấy
15


được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự
kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Như vậy,
pháp luật Việt Nam chỉ quy định dấu hiệu “nhìn thấy” có thể được đăng ký là
nhãn hiệu. Tuy nhiên trong Hiệp định CPTPP có quy định: “Không bên nào
được quy định rằng dấu hiệu phải được nhìn thấy bằng mắt như một điều kiện để
đăng ký, cũng không được từ chối việc đăng ký nhãn hiệu là một âm thanh đơn
thuần. Ngoài ra, mỗi bên phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi
hương”.
Cần làm rõ hơn những quy định về nhãn hiệu nổi tiếng và thủ tục ghi
nhận nhãn hiệu nổi tiếng bởi những quy định trong luật SHTT hiện nay cũng chỉ
mang tính liệt kê chứ không có quy định mang tính định lượng nào để xác định

cụ thể một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng hay không. Hơn nữa, hiện nay các văn
bản hướng dẫn Luật SHTT mới chỉ thừa nhận nhãn hiệu nổi tiếng thông qua thủ
tục tố dụng dân sự hoặc theo quyết định công nhận của Cục SHTT. Về cơ bản,
Luật SHTT không có quy định cụ thể về thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.
Do vậy việc quy định thủ tục công nhận và ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng là cần
thiết để giảm bớt khó khăn, vướng mắc cho cả chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng và
cơ quan thực thi.
Có thể xem xét việc tách Luật SHTT ra thành các luật chuyên ngành hẹp
như luật sáng chế, luật nhãn hiệu, luật bản quyền… để đảm bảo các quy phạm
pháp luật chuyên biệt được quy định chi tiết và cụ thể hơn. Điều này hoàn toàn
phù hợp với thông lệ quốc tế
2.

Giải pháp về thực thi pháp luật liên quan đến bảo hộ quyền SHTT

Việc thực thi quyền SHTT và xử lý các vi phạm ở nước ta đang là một thách
thức lớn. Theo các cơ quan quản lý thị trường, hàng giả mạo nhãn hiệu, nhất là
các thương hiệu nổi tiếng đang là vấn đề nhức nhối dẫn đến tình trạng mất kiểm
soát trên thị trường; tình trạng vi phạm SHTT ở Việt Nam diễn ra khá phổ biến
và việc thực thi Luật SHTT còn nhiều hạn chế. Một số giải pháp nhằm tăng hiệu
quả thực thi mà Việt Nam có thể tiến hành như:
16


-

Cần sắp xếp lại và tăng cường phối hợp của các cơ quan thực thi, từ tòa án

đến các cơ quan bảo đảm thực thi nội địa, áp dụng các biện pháp nhằm thực thi
có hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân công rõ ràng chức năng quyền hạn

của từng cơ quan
Nâng cao vai trò của Toà án dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền sở hữu trí
tuệ một cách kịp thời và có hiệu quả, xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Toà án
trong việc xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, tham khảo một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền
sở hữu trí tuệ ở một số nước trên thế giới là những biện pháp hữu hiệu trong các
vụ giải quyết tranh chấp và an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tăng mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi
vi phạm, xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ. Cần quy định mức xử phạt đủ nặng về
mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền Sở hữu trí
tuệ để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả các quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ. Cụ thể, quy định về mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ theo hướng: tăng mức phạt tối đa; mức phạt phải cao hơn lợi nhuận
mà người vi phạm có thể thu được từ hành vi vi phạm và tăng theo mức độ
nghiêm trọng của hành vi vi phạm như vi phạm có tổ chức, tái phạm, vi phạm
liên quan đến các sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khoẻ
của cộng đồng.
Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát
hiện tội phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng để toàn dân được biết. Tiến hành xét xử nghiêm minh các
hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền sở hữu trí tuệ. Nghiên cứu thành lập đơn
vị chuyên trách chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đặt trong hệ
thống các cơ quan cảnh sát điều tra
Để thích ứng với các quy định của CPTPP, bên cạnh việc tiếp tục tăng cường vai
trò quản lý và điều hành của Nhà nước, sửa đổi cơ chế, chính sách và tăng
17



cường công tác tuyên truyền, Việt Nam cần mở rộng hợp tác quốc tế chẳng hạn
như cùng các nước trong CTTPP xây dựng lực lượng quản lý chuyên trách
phòng chống hành vi vi phạm nhằm phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm,
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm
SHTT.
3.

Giải pháp về khuyến khích phát triển sáng chế khoa học

Trong bối cảnh số lượng đơn và văn bằng sáng chế của tổ chức, cá nhân ở nước
ta còn đang khiêm tốn, chiếm tỷ lệ thấp so với số đơn của các trường đại học, tổ
chức nghiên cứu ở nước ngoài, cần phải đề ra những biện pháp khuyến khích
phát triển sáng chế khoa học.
-

Có thể tham khảo mô hình cơ chế khuyến khích nghiên cứu khoa học và

thực hiện đăng ký sáng chế của một số nước tiên tiến. Ví dụ như ở Trung Quốc
những ai có công bố, bằng sáng chế sẽ được hỗ trợ thành lập doanh nghiệp, đầu
tư theo sản phẩm đầu ra. Khi tạo được mối liên kết giữa nghiên cứu cơ bản và
doanh nghiệp thì sẽ thúc đẩy kinh tế đi lên.
Cần giảm các thủ tục phức tạp trong việc đăng ký SHTT. Thời gian để
công nhận một phát minh ở Việt Nam là quá lâu so với nhiều quốc gia khác trên
thế giới cũng là một cản trở cho sự phát triển của SHTT.
Khuyến khích các doanh nghiệp nên đăng ký xác lập quyền SHTT để có
cơ sở pháp lý bảo vệ mình trong vấn đề tranh chấp. Các doanh nghiệp cần chú
trọng đăng ký SHTT nếu có sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, kiểu
dáng công nghiệp... đồng thời doanh nghiệp cần bảo hộ quyền SHTT cả ở trong
nước và nước ngoài.


18


KẾT LUẬN

Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được
nhận định là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) với nhiều tiêu
chuẩn cao và toàn diện, bao trùm nhiều lĩnh vực không chỉ về thương mại mà
còn đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác.
Trong hiệp định này, điều Việt Nam lo ngại nhất đó là vấn đề về sở hữu trí tuệ
(SHTT), với 10 điều (trong số 20 điều) liên quan đến SHTT được đưa vào thỏa
19


thuận giữa các nước. Tại nước ta, tình trạng xâm phạm SHTT hiện tại khá phổ
biến, ngày càng phức tạp, phát sinh hàng loạt vụ tranh chấp thương mại. Điều
này đòi hỏi cần có những giải pháp mạnh mẽ, hiệu quả hơn để giải quyết tình
trạng này.
Để đẩy lùi tình trạng này, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các tổ chức, cá nhân được
bảo hộ, quyền lợi của người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển của đất nước, cơ
quan quản lý nhà nước và người dân cần phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên
truyền, nâng cao sự hiểu biết về SHTT. Luật SHTT cần được nghiên cứu điều
chỉnh nhằm phù hợp tình trạng bảo hộ quyền SHTT tại Việt Nam và phù hợp với
xu thế bảo hộ quyền này của quốc tế. Việc áp dụng chế tài liên quan đến SHTT
tại Việt Nam chưa thực sự minh bạch và chưa đủ răn đe cho nên cần có quy định
cụ thể hơn, tăng trách nhiệm đối với hành vi vi phạm; áp dụng các chế tài phù
hợp để răn đe hành vi vi phạm, đặt biệt là quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 sửa
đổi năm 2017. Về công tác tuyên truyền, cần nâng cao năng lực thực thi pháp
luật; trong đó có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp, hiệp hội và cơ
quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực

này cần chủ động hơn trong việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm quyền
SHTT.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> />fbclid=IwAR1XfOP7UBqNgBhiHV261DrtNfuHBuI32yGGaVp4sFUPFxKEpc5Ce58aso
/>
21



×