Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II tác động của quá trình hội nhập APEC đối với sự phát triển của việt nam và vấn đề biển đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.36 KB, 20 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XXI là thế kỷ của hội nhập và phát triển kinh tế với ngày càng nhiều những
hiệp định được ký kết giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong xu thế ấy, Việt Nam đã
và đang tích cực tham gia vào những tổ chức kinh tế quốc tế, ký kết nhiều Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường, đưa đất nước
ngày một đi lên, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.
Trong bối cảnh ấy, kiến thức về những tổ chức, những hiệp định mà Việt Nam tham
gia là vô cùng cần thiết đối với các bạn sinh viên theo học ngành kinh tế, đặc biệt là sinh
viên chuyên ngành kinh tế đối ngoại. Chính vì lẽ đó, nhóm em đã chọn đề tài “ Tác động
của quá trình hội nhập APEC đối với sự phát triển của Việt Nam và vấn đề biển Đông”
làm công trình nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này, nhóm em mong muốn
trước hết là hiểu thêm về một liên kết kinh tế quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế nước nhà, sau đó là góp phần đưa thông tin đến với các bạn sinh viên khác, tạo
tiền đề, hứng thú nghiên cứu những vấn đề khác của kinh tế trong tương lai.
Trong một khoảng thời gian nghiên cứu không quá dài, cộng thêm việc kiến thức
còn có giới hạn nên tiểu luận của nhóm không tránh khỏi còn những lỗi sai. Mong cô
nhận xét, góp ý để tiểu luận của nhóm được hoàn thiện hơn ạ.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

I.

Sơ lược về APEC

1.

Lịch sử hình thành APEC
Đến đầu thập kỷ 80, hệ thống thương mại toàn cầu lại đứng trước những đe doạ
nghiêm trọng của tình trạng suy thoái kinh tế. Ứng phó với tình hình đó, nhiều nước đã


áp dụng các công cụ bảo hộ thương mại, những rào cản thương mại mới để bảo vệ ngành
sản xuất và thị trường nội địa, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hệ quả của tình trạng trên
là tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, tự do hoá thương mại bị đe dọa. Trào lưu khu vực hoá
phát triển mạnh mẽ, đi đầu là Khối cộng đồng kinh tế Châu Âu (EC) với thỏa thuận thành
lập một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết thành lập một liên minh tiền tệ với
một đồng tiền chung. Lo sợ EC trở thành một “pháo đài thương mại”, Hoa Kỳ cũng bắt
đầu chuyển hướng từ việc ủng hộ hệ thống thương mại đa phương sang thành lập những
thoả thuận thương mại song phương và khu vực, thể hiện bằng việc thành lập khu vực
thương mại tự do với Canada năm 1983 - nhân tố cơ bản để thành lập Khu vực thương


mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) sau này. Năm 1988, Hiệp định thương mại song phương
giữa Hoa Kỳ và Canada được ký kết và năm 1992 kết nạp thêm Mexico vào NAFTA.
Châu Á mặc dù đạt được thành tựu rất to lớn về khía cạnh kinh tế trong những thập niên
70s và 80s với sự phát triển nhanh chóng của những nền kinh tế như Nhật Bản và các
“con rồng Châu Á”, nhưng thực chưa có được một hình thức liên kết kinh tế chính thức,
liên chính phủ và toàn khu vực để đảm bảo quyền và lợi ích của các quốc gia Châu Á
trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ và khu vực hoá như Châu Âu và Bắc Mỹ. Lo ngại
rằng các đối tác thương mại chủ yếu của mình chỉ tập trung vào các thị trường trong nước
và gia tăng các hình thức bảo hộ thương mại, những nước có đặc điểm kinh tế phụ thuộc
nhiều vào thị trường bên ngoài là Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc đã nêu sáng kiến
thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với mục đích thực
hiện đối thoại chính sách nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của chủ nghĩa cô lập khu
vực và thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại, làm động lực/đầu tàu thúc đẩy đàm phán
trong GATT/WTO.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12 thành viên
thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương sáng lập tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và
Kinh tế tổ chức ở Can-bê-ra tháng 11/1989 theo sáng kiến của Australia. Các thành viên
sáng lập là Mỹ, Nhật, Australia, New Zealand, Canada, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines,
Singapore, Brunei, Indonesia và Malaysia. Tháng 11/1991 kết nạp thêm Trung Quốc, lãnh

thổ Hồng Kông và Đài Loan; tháng 11/1993 thêm Papua New Guinea, Mexico; tháng
11/1994 thêm Chile và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong 3 năm.
Tháng 6/1996, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và Hội nghị
Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancouver - Canada tháng 11/1997 đã quyết định kết
nạp Việt Nam, Nga và Peru là thành viên chính thức của APEC vào tháng 11/1998, nâng
tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức
tại Kuala Lampur, Malaysia, ngày 14/11/1998, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên APEC. Đồng thời APEC quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên
mới thêm 10 năm nữa để củng cố tổ chức. Đến nay có thêm 9 nền kinh tế đã xin gia nhập
APEC là: Ấn Độ, Pakistan, Ma Cao, Mông Cổ, Panama, Colombia, Sri Lanka, Ecuador,
Costa Rica. Trong số ba thành viên ASEAN chưa phải là thành viên của APEC,
Campuchia và Lào đã thông qua Việt Nam bày tỏ mong muốn gia nhập APEC. Năm 2007
khi thời hạn ngừng kết nạp thành viên mới hết hiệu lực, APEC sẽ thảo luận vấn đề kết
nạp thành viên mới.

2.

Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC

Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng kinh tế
liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút
sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo "sự thần kỳ" của Nhật Bản, các nền kinh tế công
nghiệp mới (NIES), ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á
thành khu vực phát triển kinh tế năng động bậc nhất thế giới.




Kinh tế khu vực: Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn đầu thế
giới về tốc độ phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào đầu những

năm 1990. Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á.
 Trong giai đoạn 1980-1992, xuất khẩu của các nước châu Á tăng nhanh nhất thế
giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10%, so với 4% của các nước châu Âu và
Mỹ La-tinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển vốn chiếm tới 2/3 thương
mại thế giới.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước châu Á tăng mạnh

 Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị
trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối đa những hàng rào ngăn trở sự
lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực.
 Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu cấp thiết để bảo đảm
cho sự phát triển kinh tế cao và ổn định.

Kinh tế toàn cầu hóa phát triển mạnh, thể hiện qua sự phân công lao động quốc
tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ của khoa học - công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin. Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, thương
mại, tài chính và dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Cùng với toàn cầu hóa và như
một sự ứng phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hóa cũng phát triển mạnh mẽ cả về
chiều rộng và chiều sâu.
 Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh tế khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ được đẩy
mạnh. Các nước thuộc Liên hiệp châu Âu đã thỏa thuận lập ra một thị trường
chung vào năm 1992 và ráo riết lập kế hoạch cho một liên minh tiền tệ với một
đồng tiền chung.
 Ở Bắc Mỹ, tháng 1 năm 1989 Mỹ và Ca-na-đa chính thức ký Hiệp định thành lập
Khu vực Mậu dịch Tự do song phương (AFTA).
 Châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn định tương đối về chính trị, và là một khu
vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa có một hình thức
liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ và toàn khu vực để bảo đảm lợi
ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng ngày càng mạnh của chủ nghĩa
khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ.


Chính trị: Sự điều chỉnh chiến lược của các quốc gia lớn vào cuối những năm 80
khi chiến tranh lạnh chấm dứt, đặc biệt là sự hội tụ về lợi ích kinh tế cũng như chính
trị giữa những nước lớn dẫn đến việc hình thành 1 cơ cấu kinh tế thương mại trong
khu vực.
Ta có thể thấy :Từ những năm 1970 -1980, nhất là cuối những năm 1980, trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đã thấy rõ xu thế là các nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc
lẫn nhau một cách chặt chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ nói riêng về thương mại, năm 1989


 Xuất khẩu hàng hóa của các nước châu Á - Thái Bình Dương sang Mỹ chiếm
25,8% tổng giá trị xuất khẩu của họ, trong khi đó xuất khẩu của Mỹ sang châu Á Thái Bình Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ.
 Xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước châu Á - Thái Bình Dương chiếm 33%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản và giá trị xuất khẩu của châu Á - Thái
Bình Dương sang Nhật Bản chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước
này.
 Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan,
cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp
chính sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ
giữa các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI

3.

Nguyên tắc và mục tiêu hoạt động


1.
Mục tiêu hoạt động
APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong
khu vực đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình
Dương. Các biện pháp được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản thương mại, đẩy
mạnh XK và xây dựng các nền kinh tế hiệu quả. Mục tiêu dài hạn của APEC được nêu rõ
trong Tuyên bố Bogor 1994 của các nhà lãnh đạo: “Thương mại và đầu tư tự do và thông
thoáng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC
phát triển và năm 2020 đối với các thành viên APEC đang phát triển”
Để thực hiện mục tiêu đó, các hoạt động của APEC dựa trên cơ sở 3 trụ cột:




Tự do hoá thương mại và đầu tư
Thuận lợi hóa kinh doanh
Hợp tác kinh tế và kỹ thuật

 Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tự do hoá thương mại và đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp tác kinh tế
trong APEC và các nền kinh tế thành viên thông qua việc giảm và xóa bỏ dần các hàng
rào thuế quan và phi quan thuế cản trở hoạt động thương mại và đầu tư.
Để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình và mục tiêu vạch ra trong
Tuyên bố Bogor, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện IAP theo đó,
các quốc gia sẽ đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá về thuế quan, phi
quan thuế, dịch vụ và đầu tư. Trong IAP, các nền kinh tế cần làm rõ chính sách thuế quan,


phi thuế quan và đưa ra cam kết về lộ trình liên tục cắt giảm thuế quan hoặc loại bỏ các
biện pháp và hàng rào phi quan thuế phù hợp với xu thế và nguyên tắc của WTO. Các

nền kinh tế đồng thời đưa ra các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, nới lỏng các quy
định và hạn chế tiếp cận thị trường dịch vụ, đồng thời xem xét tiến hành tự do hoá đầu tư.

 Thuận lợi hóa kinh doanh
Thuận lợi hóa kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch trong kinh doanh,
tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại. Điều cốt yếu là thuận lợi hóa thương
mại giúp các nhà XK ở Châu Á - Thái Bình Dương gặp gỡ và tiến hành kinh doanh hiệu
quả hơn, do vậy làm giảm chi phí sản xuất và dẫn tới tăng cường trao đổi thương mại,
hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, tốt hơn và cơ hội việc làm nhiều hơn.
Để giúp tạo thuận lợi hóa kinh doanh, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành
thực hiện các CAP trên cơ sở 9 nguyên tắc hoạt động của APEC (được đề cập ở phần
sau). CAP được thực hiện trên 15 lĩnh vực được lựa chọn là: Thuế quan, Phi Thuế quan,
Dịch vụ, Đầu tư, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Thủ tục Hải quan, Quyền Sở hữu Trí tuệ,
Chính sách Cạnh tranh, Mua sắm Chính phủ, Nới lỏng cơ chế chính sách, Quy tắc xuất
xứ, Cơ chế Giải quyết Tranh chấp, Đi lại của Doanh nhân, Thực hiện kết quả Vòng
Uruguay, Cơ chế tập hợp và đánh giá thông tin.

 Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
APEC đưa ra Chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) nhằm hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các thành viên APEC hướng tới sự phát triển
kinh tế bình đẳng, cân bằng và bền vững trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi nhất để
triển khai các chương trình hành động thực hiện mục tiêu Bogor.
Chương trình ECOTECH được thực hiện chủ yếu dưới dạng các dự án, chương trình hợp
tác trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đào tạo và nâng cao năng
lực cán bộ, trợ giúp kỹ thuật đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam trên
khía cạnh xây dựng và thực hiện chính sách.

b.

Nguyên tắc hoạt động

Cùng có lợi: Do tính đa dạng của các nền kinh tế trong APEC về chính trị, văn
hoá, kinh tế nên quá trình hợp tác phải bảo đảm được tất cả các nền kinh tế APEC,
bất kể sự chênh lệch mức độ phát triển, đều có lợi.
Nguyên tắc đồng thuận (consensus): Tất cả các cam kết của APEC phải dựa trên
sự nhất trí của các thành viên. Đây là nguyên tắc đã được các thành viên ASEAN
áp dụng và thu được nhiều kết quả.
Nguyên tắc tự nguyện: Tất cả các cam kết của các thành viên APEC đều dựa trên
cơ sở tự nguyện (Ví dụ như IAP). Cùng với nguyên tắc đồng thuận, đây là


nguyên tắc khiến cho APEC trở nên khác với GATT/WTO. Tất cả chương trình tự
do hoá và thuận lợi hóa thương mại của APEC không diễn ra trên bàn đàm phán
mà do các nước tự nguyện đưa ra.
Phù hợp với nguyên tắc của WTO/GATT: APEC cam kết thực hiện chế độ
thương mại đa phương của WTO và không phải là một liên minh thuế quan, một
Khu vực Tự do thương mại như NAFTA, AFTA.

c.
Các thành viên
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12 thành viên
thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương sáng lập tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và
Kinh tế tổ chức ở Can-bê-ra tháng 11/1989 theo sáng kiến của Ốt-xtrây-lia.

Các thành viên sáng lập là Mỹ, Nhật, Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Hàn Quốc,
Thái Lan, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po, Bru-nây, In-đô-nê-xia và Ma-lai-xia.
Tháng 11/1991 kết nạp thêm Trung Quốc, lãnh thổ Hồng Kông và Đài Loan; tháng
11/1993 thêm Pa-pua Niu Ghi-nê, Mê-hi-cô; tháng 11/1994 thêm Chi-lê và tạm ngừng
thời hạn xét kết nạp thành viên trong 3 năm; đến tháng 11/1998 kết nạp thêm Việt Nam,
Nga và Pê-ru, đồng thời APEC quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên
mới thêm 10 năm nữa để củng cố tổ chức. Đến nay có thêm 9 nền kinh tế đã xin gia nhập

APEC là: Ấn Độ, Pa-kit-xtan, Ma Cao, Mông Cổ, Pa-na-ma, Cô-lôm-bi-a, Xri-lan-ca, Êcua-đo, Cốt-xta-ri-ca. Trong số ba thành viên ASEAN chưa phải là thành viên của APEC,
Căm-pu-chia và Lào đã thông qua Việt Nam bày tỏ mong muốn gia nhập APEC. Năm
2007 khi thời hạn ngừng kết nạp thành viên mới hết hiệu lực, APEC sẽ thảo luận vấn đề
kết nạp thành viên mới.
Như vậy, cho đến thời điểm này, APEC có 21 thành viên, có 3 nền kinh tế lớn nhất thế
giới, 9 thành viên Nhóm 20 nền kinh tế lớn (G20) và nhiều nền kinh tế mới nổi, phát triển
năng động, đại diện khoảng 39% dân số thế giới, đóng góp 59% GDP và 49% thương mại
toàn cầu.

II.

Tình hình hoạt động của APEC

1.

11 nhóm cộng tác APEC


Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo, Bộ
trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11 Nhóm công
tác phụ trách các lĩnh vực sau:
 Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp,
 Năng lượng
 Nghề cá
 Phát triển Nguồn nhân lực,
 Khoa học và công nghệ
 Bảo vệ tài nguyên biển
 Doanh nghiệp vừa và nhỏ
 Thông tin và Viễn thông
 Du lịch

 Xúc tiến thương mại
 Vận tải
Phần lớn hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự
tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này,
các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới,
giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các Nhóm
công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn đàn nhỏ để
các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Những
nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các Nhóm công tác
soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên quan đến
phương hướng hoạt động của APEC.

2.

Ba nhóm đặc trách

Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra ba
Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về những lĩnh vực quan
trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có ba Nhóm đặc trách
của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới (Gender Focal-Points


Network), Nhóm chỉ đạo về thương mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group)
và Nhóm đặc trách về Chống khủng bố (Counter-Terrorism Task Force).
Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003
nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ giới
vào các hoạt động thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân của nhóm đặc trách
này là Nhóm Tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập giới (the SOM Ad Hoc Advisory
Group on Gender Integration - AGGI) tồn tại từ năm 1999 đến năm 2002.


Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999 với
vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại điện tử của APEC
thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán. Những
nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong thời gian vừa qua đã góp
phần nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào lĩnh vực thương mại điện
tử, và qua đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử
như In-tơ-nét để tiến hành trao đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi
giữa các nền kinh tế.

Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan chức
Cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà Lãnh đạo về
Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10 năm 2002 tại Mêhi-cô. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng giúp đỡ các nền kinh tế
thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện pháp cần thiết để chống khủng
bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và năng lực, và thúc đẩy quan hệ
hợp tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan
đến chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của Nhóm
đặc trách về Chống khủng bố là: Sáng kiến về Bảo đảm An ninh Thương mại trong
khu vực APEC (the Secure Trade in the APEC Region - STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ
tài chính cho các hoạt động khủng bố; tăng cường an ninh mạng; sáng kiến an ninh
năng lượng; và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.


3. Những tác động của APEC
Đến nay, APEC đã đạt nhiều thành tựu nổi bật và thực chất trên cả 3 trụ cột hợp tác.


Về tự do hóa thương mại, đầu tư, từ năm 1989 đến năm 2015, tổng giá trị
thương mại APEC tăng 7 lần (từ gần 3 nghìn tỷ USD lên khoảng 20 nghìn tỷ USD).
Mức thuế trung bình của khu vực giảm gần 3 lần (từ 17% xuống 5,6%).




Về thuận lợi hóa kinh doanh, chi phí giao dịch thương mại trong khu vực giảm
đáng kể qua các lần cắt giảm 5% vào các năm 2006, năm 2010 và 10% vào năm
2015.



Về hợp tác kinh tế - kỹ thuật, mỗi năm, APEC hỗ trợ kinh phí cho khoảng 150
dự án hợp tác và nâng cao năng lực với tổng giá trị lên đến 23 triệu USD.


Trong bối cảnh thế giới đang chuyển biến nhanh và sâu sắc dưới tác động của Cách mạng
công nghệ 4.0, hiện APEC đang triển khai các chiến lược, chương trình hợp tác lớn gồm:
Chiến lược tăng trưởng chất lượng đến năm 2020, Chương trình nghị sự mới về cải cách
cơ cấu đến năm 2020, Lộ trình cạnh tranh dịch vụ đến năm 2025, Kế hoạch kết nối tổng
thể đến năm 2025, Chương trình nghị sự phát triển bao trùm về kinh tế, tài chính, xã hội
đến năm 2030, Khuôn khổ phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số đến năm 2025.
Các thành viên đang trao đổi hướng tới xây dựng tầm nhìn APEC sau năm 2020 nhằm
góp phần duy trì vai trò của khu vực là động lực tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu,
nâng cao hiệu quả hoạt động, khẳng định vị thế diễn đàn kinh tế hàng đầu ở châu Á –
Thái Bình Dương, định hướng các hoạt động hướng tới người dân và doanh nghiệp hơn
nữa.

III.

Tác động của quá trình hội nhập APEC với sự phát triển của Việt Nam

1.


Tiến trình Việt Nam gia nhập APEC

Nhận thấy tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển kinh tế của các nước trong
khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng, phù hợp với đường lối hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và nhà nước ta, ngày 15/6/1996, Chính phủ Việt Nam đã nộp đơn xin
gia nhập APEC. Tiếp đó, theo yêu cầu của APEC, tháng 8/1996 ta đã gửi cho APEC "Bản
ghi nhớ hệ thống chính sách kinh tế thương mại của Việt Nam" (Aide Memoire). Trong
thời gian chờ quyết định chính thức kết nạp Việt Nam, ta cũng đã xin tham gia 3 Nhóm
Công tác để làm quen và nắm bắt tình hình hoạt động của tổ chức. Ngày 25/4/1997, Việt
Nam gửi đơn xin tham gia với tư cách khách mời vào Nhóm Công tác về Xúc tiến
Thương mại; Nhóm Công tác về Khoa học và Công nghệ Công nghiệp; và Nhóm Chuyên
gia về Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp của APEC. Đây là những Nhóm mà ta có khả năng
đóng góp, đồng thời có thể đem lại những lợi ích cụ thể cho ta.
Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại giao - Kinh tế, APEC đã tuyên bố
kết nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru. Việc trở thành thành viên chính thức của APEC là một
bước đi sâu hơn vào con đường hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần mở rộng
kinh tế đối ngoại, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện điện hoá đất nước mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong APEC, Việt Nam có nhiều đối tác quan trọng như các
nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Úc và Niu Di-lân. Một số thành viên APEC


đang dần trở thành đối tác chiến lược trong kế hoạch phát triển quan hệ kinh tế, thương

mại và đầu tư của Việt Nam.
Quán triệt chủ trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”, ngay sau khi gia nhập APEC, Việt Nam đã tích cực
tham gia vào nhiều chương trình, dự án hợp tác của APEC, tranh thủ được sự hỗ trợ và

giúp đỡ to lớn về vốn, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ cho các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất nhiều
sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Kết quả tham gia APEC
trong 10 năm qua là rất đáng khích lệ, chúng ta đã bước đầu tạo được uy tín và hình ảnh
tốt đẹp với các thành viên về một Việt Nam năng động, cởi mở và hội nhập qua gần 20
sáng kiến đưa ra tại các lĩnh vực khác nhau của APEC.

2.

Lợi ích và khó khăn của Việt Nam khi tham gia APEC

1. Lợi ích khi Việt Nam tham gia APEC
Năm 2018 đánh dấu 20 năm Việt Nam tham gia Diễn đàn APEC. Năm APEC 2018, Việt
Nam tham gia với vị thế được nâng cao, đặc biệt sau thành công của Năm APEC 2017 và


thành tựu tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế nổi bật thời gian qua.


Thứ nhất, mở thêm một diễn đàn phục vụ mục đích đổi ngoại đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ; khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử,
nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. APEC là tập hợp có thế và lực lớn với nhiều
thành viên có vai trò quan trọng kinh tế, chính trị (Mỹ, Trung Quốc, Nhật và Nga) mà ta
sẽ có vị trí thành viên hình dáng đóng góp vào luật chơi chung của cả khu vực. Quan hệ
với các thành viên APEC quan trọng với ta ca về kinh tế lẫn chính trị. Tham gia APEC là
tham gia cơ chế tiếp xúc đối thoại thường xuyên. không chính thức, đặc biệt ở cấp cao
với tất cai các nước lớn ở Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ mở ra nhiều cơ hội để ta có thể
trao đổi và giải quyết mọi vấn để, bao gồm cả vấn đề chính trị, an ninh để thúc đẩy quan

hệ song phương, trong đó có quan hệ với Mỹ, Trung Quốc.
Thứ hai, nắm bắt thông tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới để
định hướng và điều chỉnh chính sách trong nước. APEC là kho thông tin và cũng là trung
tâm trao đổi thông tin. Việc thu thập thông tin qua các hoạt động của APEC cũng như
việc thiết lập các mạng thông tin giữa các thành viên của APEC có lợi cho ta.
Thứ ba, tận dụng các chương trình hợp tác kinh tế-kỹ thuật. Chương trình này bao
trùm nhiều lĩnh vực hợp tác với trên 250 dự án đang triển khai, tập trung vào một số vấn
đề liên quan tới hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao
công nghệ, kinh nghiệm quản lý, phát triển hạ tầng, tiếp nhận thông tin, phát triển thị
trường… mà ta cần và rất có lợi cho các nước đang phát triển, được các nước này đề cao.
Những chương trình này đã tạo điều kiện cho ta tham gia phát triển bồi dưỡng nguồn
nhân lực và tiếp cận với công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất, nhằm nâng cao hiệu
quả cạnh tranh của nền kinh tế.


Thứ tư, nâng cao khả năng quản lý, kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại và đầu
tư, thâm nhập thị trường: Các đối tác kinh tế của ta chủ yếu là trong APEC và là thị
trường nhiều tiềm năng chưa được khai thác hoặc khai thông. Tham gia APEC ta có cơ
hội đối thoại chính sách với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các
nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm giải tỏa các rào cản thương mại, đấu tranh đòi
đối xử công bằng trong thương mại và trong quan hệ kinh tế với các nước.


Thứ năm, trao đổi kinh nghiệm, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triển nội lực của
các doanh nghiệp và điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, tăng tính cạnh tranh khu vực.
Thông qua hợp tác APEC Việt Nam có cơ hội nâng cao năng lực quản lý và sản xuất
trong nước, đẩy mạnh công cuộc cải cách cơ chế chính sách trong nước theo hưởng minh
bạch hơn, binh dàng và thuận lợi hơn cho các hoạt động kinh doanh, đồng thời ta cũng
khai thác được kinh nghiệm và các nguồn lực quốc tế nhằm xây dựng các khung pháp lý
theo định hướng nền kinh tế thị trường. Trong thời gian hợp tác vừa qua, ta đã huy động

được sự hỗ trợ của APEC vào rất nhiều chương trình xây dựng và cái cách pháp luật như:
Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Thương mại, Pháp lệnh Thương mại Điện tử
Thứ sáu, cơ chế hợp tác tự nguyện trong APEC là tiên đề tốt chuẩn bị cho việc hội
nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. APEC đóng vai trò là diễn
đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện. Các cam kết không mang
tính ràng buộc do đó không gây sức ép mà mang tính khuyến khích, thúc đẩy. Các diễn
đàn trong APEC cũng là cơ hội để các nước đang phát triển như Việt Nam kêu gọi sự trợ
giúp và linh hoạt của các nước thành viên.

b.
Khó khăn khi Việt Nam tham gia APEC
Mặc dù có nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng tham gia vào quá trình hợp tác APEC
cũng có nhiều khó khăn thách thức chính. trong đó có cá những thách thức chủ quan và
khách quan.
Thứ nhất, nhận thức về APEC trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của cán bộ,
giới doanh nghiệp, quần chúng nhân dân chưa nhiều. Vấn đề này một phần là do công tác
tuyên truyền, phổ biến về APEC mới chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế cà về nội dung
và đối tượng. Mật khác, một bộ phận lớn các doanh nghiệp còn tỏ ra thờ ơ, chưa nhận
thức đầy đủ về vai trò và lợi ích mà APEC mang lại cho chính bản thân họ.


Thứ hai, hệ thống pháp luật về thương mại còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế. Cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính sách vĩ mô có
liên quan khác của ta vẫn còn nhiều bất cập và không đồng bộ, chưa thực sự khuyến
khích được việc mở rộng quan hệ buôn bản, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật của Việt
Nam trong APEC: nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các
tổ chức quốc tế không phù hợp với thông lệ kinh doanh quốc tế và nguyên tắc của các tổ
chức quốc tế.
Thứ ba, hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện ta đang thiếu đội ngũ cán bộ giỏi có
chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trình độ cán bộ tham gia trực

tiếp vào công tác hội nhập cũng như thực hiện các cam kết quốc tế nhìn chung còn yếu
kém. Một trong số những nguyên nhân là từ trước tới nay ta chưa có một chính sách quy
hoạch đồng bộ và ưu tiên thích đáng. Vấn đề thực thi chính sách còn nhiều bất cập cũng
có một phần nguyên nhân là sự hạn chế về trình độ chuyên môn và năng lực thực thi pháp
luật. Cụ mẽ hơn, sự hạn chế hiểu biết về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học
thuyết, các quy định của thương mại quốc tế, các vấn đề nổi cộm trong thương mại quốc
tế đang gây trở ngại cho việc tham gia một cách xây dựng và chủ động trong hợp tác
APEC.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhìn chung còn yếu kém, mặt khác ta
chưa khai thác triệt để các cơ hội trong APEC để phục vụ cho các doanh nghiệp. Những
nỗ lực ban đầu là đáng kể nhưng chưa thể so sánh với tiềm năng cơ hội của quá trình hợp
tác này. Có thể nêu một vài hoạt động còn chưa được khai thác như sau:
Doanh nghiệp Việt Nam chưa thông qua hợp tác APEC để khai thác thông tin về
thị trường, về chính sách thương mại và chính sách đầu tư của các Thành viên APEC.
Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm tới tiến trình
này, hoặc chi coi đây là công việc của chính phủ mà chưa nghĩ tới việc khai thác nó
để phục vụ cho muc dich kinh doanh của mình;

Các hoạt động tham gia của doanh nghiệp rất hạn chế do điều kiện khó khăn về tài
chính. Chính vì vậy số lượng doanh nghiệp tham gia các hội chợ đầu tư, diễn đàn
doanh nghiệp trẻ hoặc các hoạt động giao lưu khác còn hạn chế.


Thứ năm, khó khăn mang tính khách quan trong hợp tác APEC là tỉnh bị động và lệ
thuộc của các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển. Những nền kinh tế này, chủ yếu là do
hạn chế về tiềm lực kinh tế. có lợi ích hạn chế hơn và có xu hướng bị lệ thuộc vào quan
điểm của các nước lớn. Ví dụ, các nước lớn có thể đưa vào chương trình nghị sự những
nội dung có lợi nhiều hơn cho mình (ví dụ như chống khủng bố) và thường có sự chuẩn
bị rất tốt để phát huy cơ hội đó, trong khi đó` các nước nhỏ hơn vẫn có cơ hội tương tự,
nhưng thường không có đủ năng lực để phát huy. Vấn đề chính ở đây là trong bối cảnh

nền kinh tế thế giới có nhiều biến động thì sự bị động và lệ thuộc sẽ hạn chế rất nhiều cơ
hội và lợi


3.

Quá trình hoạt động của Việt Nam và những đóng góp của Việt Nam
cho APEC

1.
Quá trình hoạt động của Việt Nam
Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại giao - Kinh tế, APEC đã tuyên bố
kết nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru.
Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất nhiều
sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Với gần 20 sáng kiến đưa ra
cho nhiều lĩnh vực khác nhau của APEC.
Năm 2006, Việt Nam chủ động đăng cai tổ chức năm APEC 2006. Đây là một đóng
góp hết sức quan trọng của Việt Nam đối với tiến trình hợp tác APEC.
Đến nay Việt Nam là thành viên tích cực và được đánh là một Việt Nam năng động,
cởi mở và hội nhập qua gần 20 sáng kiến đưa ra tại các lĩnh vực khác nhau của APEC. Và
các thành viên của APEC chiếm 75% vốn FDI, 50% nguồn viện trợ phát triển (ODA),
73% xuất khẩu và 79% nhập khẩu của Việt Nam.
Năm 2017, Việt Nam tiếp tục đăng cai tổ chức APEC 2017 tại Đà Nẵng. Nhóm Tầm
nhìn APEC được thành lập vào tháng 5/2018, trên cơ sở kết quả của Tuần lễ Cấp cao
APEC 2017 tại Đà Nẵng. Các thành viên đánh giá cao việc thành lập Nhóm Tầm nhìn
APEC và vai trò khởi xướng của Việt Nam, nhấn mạnh đây là một dấu mốc quan trọng
chuẩn bị cho APEC bước vào giai đoạn phát triển mới.

b.
Những đóng góp của Việt Nam cho APEC

Trong 10 năm qua những đóng góp mang tính nổi bật và thiết thực nhất được thể hiện
trên ba khía cạnh chủ yếu sau:
Với tư cách là thành viên, chúng ta tham gia đầy đủ và có trách nhiệm vào nhiều
chương trình hợp tác của APEC. Với một số chương trình nổi bật :


Đây là những chương trình hữu hiệu trong việc thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại
và đầu tư trong khu vực.
 Chương trình hành động tập thể (CAPs) trong các lĩnh vực Tiêu chuẩn và Hợp
chuẩn (SCSC)
 Thủ tục Hải quan, Kinh tế kỹ thuật (ECOTECH)
 Chương trình thẻ đi lại của doanh nhân APEC (ABTC) và Chương trình Hành
động Quốc gia của APEC (IAPs).



Ngoài những nội dung kinh tế thương mại truyền thống, ta còn tham gia vào các
lĩnh vực hợp tác mới của APEC như an ninh con người, y tế, giáo dục, du lịch...

Với tư cách là một nền kinh tế đang phát triển có một số kinh nghiệm phát triển
nhất định, ta đã đóng góp hiệu quả vào một số lĩnh vực như thủy sản, nông nghiệp,


phòng chống dịch cúm gia cầm, dịch bệnh... thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm và thông
tin với các nền kinh tế khác, nhất là với các nền kinh tế đang phát triển của APEC. Đồng
thời chúng ta cũng học được nhiều kinh nghiệm hay của các nền kinh tế phát triển hơn
trong APEC.
Ngoài lĩnh vực hợp tác cụ thể, ta cũng tham gia vào một số công tác điều hành chung
của APEC như tích cực tham gia vào các Ủy ban chủ chốt như Ủy ban Thương mại và
Đầu tư, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban chỉ đạo của các quan chức cao cấp (SOM) về hợp tác

kinh tế kỹ thuật; các tiểu ban quan trọng về tiêu chuẩn hợp chuẩn, thủ tục hải quan và các
Nhóm Công tác quan trọng như Đi lại của doanh nhân, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Y tế và
đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về chống khủng bố v.v...
Có thể nói đóng góp nổi bật và thiết thực nhất của Việt Nam đối với APEC là việc
Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Năm APEC 2006, trong đó một số kết quả của
hội nghị đã là những dấu ấn quan trọng trong tiến trình hợp tác APEC như Chương trình
Hành động Hà Nội về thúc đẩy thực hiện mục tiêu Bô-go và các cam kết cải cách APEC.
Việt Nam dù là một nước vào sau và còn kém phát triển so với các nước khác, tuy
nhiên vai trò của Việt Nam trong các vấn đề phát triển APEC vẫn giữ một vị trí quan
trọng, bình đẳng so với các nước thành viên khác.“ Quan điểm hợp tác trong APEC và
hội nhập quốc tế nói chung của Việt Nam là cố gắng phát huy vai trò chủ động, tích cực
và có trách nhiệm phù hợp với khả năng và điều kiện của đất nước. Trong bối cảnh thế
giới đang thay đổi sâu sắc với nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền thống, sau thành công
của Năm APEC 2006 đến nay, ta đã chú trọng hơn đến việc chủ động đề xuất nhiều sáng
kiến hợp tác mới trong hàng loạt lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, sở hữu trí tuệ,
chống tham nhũng, phòng chống dịch bệnh và đối phó với tình trạng khẩn cấp...” (Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm)
Ta đã tổ chức các Hội thảo “Đối thoại giữa các nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp
và các đối tác khu vực và quốc tế quan trọng của APEC về đối phó với tình trạng khẩn
cấp”; Hội thảo về “Chính sách quản lý xã hội đối với người di cư nhằm hạn chế sự lây
nhiễm của HIV/AIDS”. Ta đã đề xuất đăng cai tổ chức Hội thảo APEC về “An ninh hàng
không” tại Việt Nam năm 2009 và đã được các nền kinh tế thành viên APEC tán thành.
Kể từ năm 2006 đến nay, ta đã thực hiện được 26 dự án về hỗ trợ xây dựng năng lực
trong hợp tác APEC với tổng giá trị hơn 1,5 triệu đô la.
Chú trọng Tham gia công tác điều hành một số mặt hoạt động của APEC như tích cực
hoạt động trong Nhóm bạn của Chủ tịch, thực chất là hỗ trợ Chủ tịch APEC đề ra các
sáng kiến và định hướng chính sách chung trong APEC.
Chủ động tham gia nhiều sáng kiến hợp tác mới trong APEC như việc là một trong 3
thành viên nghiệm Quy tắc Ứng xử Doanh nghiệp với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong khuôn khổ hợp tác chống tham nhũng, tham gia diễn tập thử nghiệm Chương trình

phục hồi thương mại APEC.
Việt Nam tích cực đóng góp vào các quan tâm chung của APEC về duy trì đà hợp tác,
liên kết khu vực, tiếp tục thúc đẩy triển khai các kết quả quan trọng của Năm APEC


2017, nhất là xây dựng Tầm nhìn APEC sau 2020, phát triển bao trùm, phát triển nguồn
nhân lực trong kỷ nguyên số, thương mại điện tử qua biên giới, doanh nghiệp siêu nhỏ,
nhỏ và vừa xanh, bền vững, sáng tạo, khởi nghiệp, an ninh lương thực và biến đổi khí
hậu, phát triển nông thôn – đô thị, kết nối vùng sâu, vùng xa, kết nối tiểu vùng và nâng
cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, qua đó tiếp tục nâng cao vai trò, vị thế của nước ta

IV.

Ảnh hưởng của biển Đông đến APEC

1. Thực trạng
Vấn đề nhạy cảm nhất của Hội nghị APEC diễn ra ngày 17-11-2015 tại Manila
(Philippines) chính là xung đột trên Biển Đông, đặc biệt là việc Trung Quốc xây trái phép
các đảo nhân tạo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.


Về phía Philipine:

Trong hội nghị đó, Hội nghị APEC 2015 đã chứng kiến những cuộc tranh luận căng thẳng
về vấn đề Biển Đông. Các quốc gia có tuyên bố chủ quyền trong khu vực này, bao gồm
cả chủ nhà Philippines, đang lúng túng trước sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung
Quốc ở vùng biển này.
Trước đó nước chủ nhà Philippines tuyên bố nghị trình chính thức của APEC không đề
cập đến Biển Đông. Tuy nhiên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose
cho biết các nhà lãnh đạo sẽ thảo luận vấn đề này bên lề hội nghị.

“Chúng tôi không kiểm soát những gì các nhà lãnh đạo sẽ đưa ra bên lề hội nghị - ông
Jose nhấn mạnh - Những gì đang xảy ra ở Biển Đông gây bất ổn và đe dọa hòa bình, ổn
định khu vực, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển và thịnh vượng kinh tế
của các nước trong khu vực”.



Về phía Mỹ:

Phía Mỹ nhiều lần muốn vấn đề yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông được
đề cập tại các diễn đàn quốc tế. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+) vừa diễn ra tại Kuala Lumpur, Mỹ và Nhật Bản gây sức ép
để nước chủ nhà Malaysia đưa vấn đề Biển Đông vào tuyên bố chung dù Trung Quốc bày
tỏ ý nguyện trái ngược.
Phía Mỹ nhiều lần muốn vấn đề yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông được
đề cập tại các diễn đàn quốc tế. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+) vừa diễn ra tại Kuala Lumpur, Mỹ và Nhật Bản gây sức ép
để nước chủ nhà Malaysia đưa vấn đề Biển Đông vào tuyên bố chung dù Trung Quốc bày
tỏ ý nguyện trái ngược.


Trước hội nghị APEC, Mỹ đã triển khai tàu khu trục và máy bay ném bom B-52 tới tuần
tra gần các đảo nhân tạo Trung Quốc xây trái phép trên Biển Đông nhằm phủ nhận đòi
hỏi chủ quyền vô lý của Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ tại Philippines Philip Goldberg cũng cho
biết Tổng thống Obama sẽ thảo luận căng thẳng Biển Đông và quan hệ quân sự song
phương khi gặp Tổng thống Philippines Benigno Aquino.



Về phía Nhật:


Tại Manila, Tổng thống Aquino và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe dự kiến đồng ý một thỏa
thuận cho phép Tokyo cung cấp cho Manila thiết bị quân sự đã qua sử dụng, có thể bao
gồm máy bay tuần tra trên Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Nhật đồng ý cung cấp trực
tiếp tiếp bị quân sự cho một quốc gia khác.



Về phía Việt Nam:

Trong tuần này, Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với
Philippines, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ an ninh giữa hai quốc gia để đáp lại sự
quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trên Biển Đông.

2. Giải pháp

Nên đưa sự thật về sự bành trướng không ngừng, vô lý của Trung Quốc đối với
Biển Đông trên khắp các diễn đàn của APEC để tạo áp lực về phía dư luận cho Trung
Quốc

Các nước trong APEC nêu vấn đề này trước toà án quốc tế để có sự phân sử công
bằng hơn về vấn đề Biển Đông.





Nếu Trung Quốc có những hành động không hữu nghị thì APEC nên có những
biện pháp mạnh mẽ hơn về kinh tế cũng như chính trị để ngăn cản Trung Quốc bành
trướng hơn nữa

KẾT LUẬN

APEC đã mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức. Nhưng nhìn
chung, gia nhập APEC đã giúp cho Việt Nam có những bước chuyển mình mạnh mẽ về
kinh tế. Chính vì vậy, để có thể trở thành một quốc gia đáng tin cậy trong APEC, Việt
Nam phải có những giải pháp kịp thời và hợp lý để khắc phục những thách thức và đưa
kinh tế Việt Nam phát triển toàn diện trên mọi mặt. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh
tế đang phát triển với một tốc độ vượt bậc, Việt Nam càng phải cố gắng nhiều hơn, có
những hướng đi cụ thể cho việc phát triển kinh tế của đất nước, để sánh vai với các quốc
gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.
Về vấn đề biển Đông, là một quốc gia nhỏ bé về cả mặt kinh tế và chính trị, hạn chế và
yếu hơn nhiều mặt, nhiệm vụ của Việt Nam là phải cố hết sức để bảo vệ chủ quyền biển
đảo, giương cao khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam”, kêu gọi sự quan tâm
cũng như sự giúp đỡ của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, không cho Trung Quốc
thực hiện được âm mưu bá chủ của mình, giữ cho Việt Nam luôn hòa bình và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

/>03

2.

Việt Nam với những nỗ lực thúc đẩy hợp tác APEC,Vietnamese dilopmatic
missions
3.
/>4.
Diễn đàn Châu Á- Kinh tế Thái Bình Dương, Wikipedia
/>%C3%A1c_Kinh_t%E1%BA%BF_ch%C3%A2u_%C3%81_-_Th%C3%A1i_B
%C3%ACnh_D%C6%B0%C6%A1ng
5. Việt Nam kỷ niệm 15 năm gia nhập APEC, Báo điện tử vnexpress, 15/11/2013

5. />5. />9085619/nr091028145119/ns091029133217
5. />TietVeToChucQuocTe?diplomacyOrgId=61
5. />


×