Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận kinh tế quốc tế 2 phân tích cường độ thương mại giữa việt nam và RCEP giai đoạn 2008 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.34 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay Việt Nam được coi là một trong những quốc gia đang phát triển, được hội
nhập với các mối quan hệ thiết lập rộng rãi và chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực.Hội nhập tham
gia vào ASEAN từ 1995 đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu và thu được
những lợi ích thiết thực về kinh tế-thương mại, văn hoá-xã hội, hỗ trợ đắc lực cho phát
triền kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tham gia liên kết kinh tế nội khối ASEAN cũng như
các thỏa thuận Thương mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác một mặt giúp Việt Nam
thu hút đầu tư và kinh doanh từ bên ngoài, mặt khác, cũng là cầu nối để Việt Nam tiếp cận
các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực.
Điển hình nhất là thông qua tham gia AFTA, quan hệ kinh tế thương mại của Việt
Nam tiếp tục được nhân lên trong và ngoài ASEAN với các thỏa thuận FTA của ASEAN
với các đối tác quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc, New
Zealand (sắp tới là Hongkong, EU, Mỹ) ... và các khuôn khổ thương mại đa phương sâu
rộng đặc biệt là RCEP.
Được biết, đàm phán Hiệp định Đối tác Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa ASEAN
(có Việt Nam) và 6 đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New
Zealand) bắt đầu từ năm 2013 và hiện đang đi vào giai đoạn cuối.
Khi hoàn tất, RCEP sẽ tạo ra một khu vực mậu dịch tự do rộng lớn, bao trùm nhiều
đối tác xuất khẩu lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà RCEP mang
lại, Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi cần có bước đi cần trọng, đúng
hướng để nền kinh tế nước ta ngày một phát triển và có chỗ đứng trong nên kinh tế Thế
Giới hiện nay. Do đó nhóm em đã quyết định lựa chọn đề tài “ Phân tích cường độ
thương mại giữa Việt Nam và RCEP”

1


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái quát về xuất nhập khẩu Việt Nam
1.1. Khái niệm
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất nhập


khẩu không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Cụ thể:
Xuất khẩu là hoạt động bán những sản phẩm sản xuất trong nước ra nước ngoài
nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh
và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Nhập khẩu là hoạt động mua những sản phẩm của nước ngoài về trong nước, nhằm
làm đa dạng hóa sản phẩm của thị trường nội địa, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa
trong và ngoài nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với việc mua bán một sản phẩm
nào đó trong thị trường nội địa, vì hoạt động này diễn ra trong một thị trường vô cùng
rộng lớn, đồng tiền thanh toán có ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển ra ngoài phạm vi
quốc gia. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động buôn bán, giao dịch quốc tế đều phải
tuân thủ theo các thông lệ quốc tế.

2


1.2. Phân loại các nhóm hàng xuất khẩu
Nhằm mục đích đo đạc và thống kê quá trình xuất khẩu một cách dễ dàng, các tổ
chức thống kế thường phân chia các hàng hóa xuất khẩu thành từng nhóm với những đặc
điểm giống nhau. Tuy nhiên mỗi một tổ chức, quốc gia lại có sự phân chia khác nhau giữa
các nhóm ngành, dưới đây là 10 nhóm ngành được phân chia theo UN Comtrade:

COD
E
0
1
2

3
4
5
6
7
8
9

NHÓM HÀNG
Food and live animals

Ý NGHĨA
Thức ăn và động vật sống

Beverages and tobacco
Đồ uống và thuốc lá
Crude materials, inedible,
Vật liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu
except fuels
Mineral fuels, lubricants
Nhiên liệu khoáng, dầu nhờn và các vật liệu liên quan
and related materials
Animal and vegetable oils
Dầu và mỡ động vật
and fats
Hóa chất
Chemicals
Manufact goods classified
Hàng sản xuất được phân loại chủ yếu theo nguyên liệu
chiefly by material

Machinery and transport
Máy móc thiết bị vận tải
equipment
Miscellaneous
Các mặt hàng khác
manufactured articles
Commod. & transacts. Not
Hàng hóa giao dịch không được phân loại
class. Accord. To kind

Bảng 1: Bảng phân loại các nhóm hàng xuất khẩu
1.3. Tổng quan về xuất nhập khẩu tại Việt Nam
Sự kiện tham dự WTO và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1997 đến 2016
Ngày 11/1/2007 tại Geneva, tại đây Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại
thế giới WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên chính thức. Cùng với việc được gia
nhập vào tổ chức thành viên của WTO thì Việt Nam cũng chính thức phải thực hiện
những cam kết do chính WTO đưa ra.
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO, đây được coi là một bước
ngoặt trọng đại và một khởi đầu đầy tốt đẹp từ năm 2007, mặc dù sự kiện này đã được
3


biết trông đợi từ trước (năm 1995, Việt Nam đã chính thức xin gia nhập vào Tổ chức mậu
dịch Thế Giới, hay còn được gọi với tên theo Anh ngữ là WTO), chính thức đặt một cột
mốc mới trong tiến trình thương mại, xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Thế Giới. Kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ kể từ sau khi gia nhập WTO,
nhưng lại gắn sự lớn mạnh nhanh chóng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài so với khu
vực kinh tế trong nước.

Kim ngạch thương mại của Việt Nam giai đoạn 1997- 2016


Trong những năm gần đây, cán cân thương mại Việt Nam có sự tăng trưởng vượt bậc
cả về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Những điểm khác biệt chủ yếu trên cán cân
thương mại tổng thể được tổng hợp như sau:
Thứ nhất: Có xu hướng gia tăng mạnh mẽ của tổng kim ngạch thương mại của Việt
Nam, đặc biệt giai đoạn 2007 - 2016, tổng kim ngạch đạt 2211,2 tỷ USD (gấp gần 5,3 lần
giai đoạn 1997 - 2006). Cũng trong giai đoạn 2007 - 2016, giá trị xuất khẩu đạt 1072,93
tỷ USD (gấp 5,5 lần giai đoạn 1997 - 2006) và giá trị nhập khẩu đạt 1138,27 tỷ USD (gấp
5,1 lần giai đoạn 1997 - 2006).
Thứ hai: Kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu đã dẫn đến thâm hụt cán
cân thương mại của Việt Nam tăng lên đột biến năm 2007. Giá trị nhập siêu tăng vọt từ
5,06 tỷ USD năm 2006 lên mức 14,12 tỷ USD năm 2007 và đạt 18,02 tỷ USD vào năm
4


2008. Như vậy, chỉ trong hai năm 2007 - 2008, giá trị nhập siêu đã gấp 1,27 lần cả giai
đoạn 2000 - 2006. Giai đoạn 2009 - 2011 giá trị nhập siêu của Việt Nam vẫn tiếp tục ở
mức cao nhưng có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, năm 2012, cán cân thương mại đột
biến thặng dư 748 triệu USD và con số này đã tăng lên 2,37 tỷ USD vào năm 2014. Năm
2015, cán cân thương mại lại rơi vào thâm hụt 3,55 tỷ USD và đến năm 2016 bất ngờ đổi
chiều và đạt đỉnh thặng dư từ trước đến nay là 2,52 tỷ USD.
Kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu đã dẫn đến thâm hụt cán cân
thương mại của Việt Nam tăng lên đột biến năm 2007. Giá trị nhập siêu tăng vọt từ 5,06
tỷ USD năm 2006 lên mức 14,12 tỷ USD năm 2007 và đạt 18,02 tỷ USD vào năm 2008.
Như vậy, chỉ trong hai năm 2007 - 2008, giá trị nhập siêu đã gấp 1,27 lần cả giai đoạn
2000 - 2006. Giai đoạn 2009 - 2011 giá trị nhập siêu của Việt Nam vẫn tiếp tục ở mức cao
nhưng có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, năm 2012, cán cân thương mại đột biến thặng
dư 748 triệu USD và con số này đã tăng lên 2,37 tỷ USD vào năm 2014. Năm 2015, cán
cân thương mại lại rơi vào thâm hụt 3,55 tỷ USD và đến năm 2016 bất ngờ đổi chiều và
đạt đỉnh thặng dư từ trước đến nay là 2,52 tỷ USD.

Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2017
Kim ngạch xuất khẩu năm 2017 ước tính đạt 214,1 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm
2016. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 58,5 tỷ
USD, tăng 16,2%; khối doanh nghiệp FDI ước đạt 155,2 tỷ USD (tính cả dầu thô xuất
khẩu), tăng 23,0% so với cùng kỳ. So với chỉ tiêu theo Quốc hội giao là 7-8%, xuất khẩu
năm nay đã đạt tốc độ gần gấp 3 lần.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2017 ước đạt 211,18 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm
2017. Trong đó, khối doanh nghiệp trong nước đạt 84,6 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ,
khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 93,22 tỷ USD, tăng 26,1%.
Tốc độ tăng của nhập khẩu năm 2017 thấp hơn tốc độ tăng của xuất khẩu. Cán cân
thương mại đạt thặng dư 2,92 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay. Trong đó, Việt
Nam xuất siêu chủ yếu với các nước phát triển, có yêu cầu cao đối với hàng hóa nhập
5


khẩu như Hoa Kỳ (xuất siêu 32,4 tỷ USD), EU (xuất siêu 26,1 tỷ USD), Australia và New
Zealand (xuất siêu 142 triệu USD).
Nhập siêu chủ yếu đến từ khu vực thị trường châu Á, đặc biệt là từ các nước thuộc
khối ASEAN (ước nhập siêu 6,3 tỷ USD, trong đó nhập siêu từ Thái Lan là 5,7 tỷ USD),
Hàn Quốc (nhập siêu 31,8 tỷ USD); Trung Quốc (nhập siêu 23,2 tỷ USD); Đài Loan
(nhập siêu 10,2 tỷ USD).
2. Khái niệm và quá trình hình thành RCEP
2.1. RCEP là gì?
Hiệp định thương mại RCEP là hiệp định thương mại tự do (FTA) gồm 10 nước
thành viên ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt
Nam, Lào, Myanmar, Campuchi ) và 6 quốc gia mà RCEP đã ký hiệp định thương mại tự
do (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc, New Zealan )
RCEP viết tắt của từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (tiếng Anh:
Regional Comprehensive Economic Partnership). Là một hiệp định thương mại tự do
(FTA) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 6 quốc gia mà RCEP đã ký hiệp định

thương mại tự do. Hiệp định này được kỳ vọng sẽ hoàn tất việc ký kết trước năm 2015,
hướng tới mục tiêu hình thành Hiệp định thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu
cho Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA).
2.2. Tính cấp thiết hình thành RCEP
Buổi thỏa luận đầu tiên diễn ra tại hội nghị cấp cao RCEP 2011 tại Indonesia, tiến
trình đàm phán RCEP chính thức bắt đầu tại hội nghị cấp cao RCEP 2012 tại Cambodia.
Được khởi xướng vào tháng 2012, RCEP nhằm mục đích tăng cường hội nhập kinh tế
giữa RCEP và 6 nước đối tác là Australia, Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản
và New Zealand. Như vậy, 16 quốc gia thành viên RCEP đã chiếm hơn một nửa thị
trường toàn cầu.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trọng tâm của RCEP là sự tham gia của RCEP và
các đối tác đối thoại mang tính sâu rộng hơn dựa trên sự cải thiện đáng kể các hiệp định
thương mại tự do hiện có giữa các bên. RCEP cũng được kỳ vọng là một thỏa thuận
6


thương mại tự do thế hệ mới, cung cấp cơ sở để giải quyết các vấn đề thương mại mà các
nước phải đối mặt trong tương lai. Lý tưởng hơn, RCEP có thể là một mô hình thế kỷ 21
cho việc hội nhập giữa các quốc gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị
và văn hoá.
Đặc biệt, trong bối cảnh Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang lâm vào
bế tắc, hiệp định RCEP có tham gia của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi
đang có sự phát triển năng động nhất trên toàn cầu, là một biện pháp cần thiết nhằm
chống lại chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng. Hiệp định RCEP sẽ đem lại một sự thúc đẩy
đáng kể đến GDP toàn phần cho tất cả các quốc gia thành viên, mặc dù chưa đến mức mà
Hiệp định TPP đem lại lợi ích cho một số quốc gia chú trọng thương mại của châu Á.
Hiệp định RCEP có thể không thúc đẩy tăng trưởng sản lượng như TPP có thể làm, nhưng
những lợi ích sẽ được chia sẻ công bằng hơn khắp châu Á.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong mục này nhóm sẽ sử dụng 2 chỉ số chủ yếu là Trade Intensity Index (TII) (chỉ

số cường độ thương mại) and Revealed Comparative Advantage (RCA) Index (chỉ số lợi
thế so sánh tương đối) để phân tích sự tương đồng và bổ sung cho nhau tron g thương mại
giữa Việt Nam và các nước RCEP.
Chỉ số cường độ thương mại (TII) được sử dụng để xác định xem giá trị thương mại
giữa
hai quốc gia lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị kì vọng trên cơ sở tầm quan trọng trong thương
mại thế giới. Nó được định nghĩa là thị phần xuất khẩu của một quốc gia đến đối tác chia
của nó cho thị phần xuất khẩu thế giới đến đối tác. Nó được xác định bằng công thức:

=
Trong đó Xij và Xwj là giá trị xuất khẩu của quốc gia và xuất khẩu của thế giới sang
quốc gia j và Xit và Xwt là tổng xuất khẩu của quốc gia và tổng xuất khẩu thế giới tương
ứng. Một chỉ số nhiều hơn (ít hơn) chỉ ra một luồng thương mại song phương lớn hơn
(nhỏ hơn) hơn giá trị kì vọng
Chỉ số cường độ thương mại được chia thành Chỉ số cường độ xuất khẩu - Export
Intensity Index (EII) và Chỉ số cường độ nhập khẩu - Import Intensity Index (III) để tìm
7


ra mô hình xuất khẩu và nhập khẩu. Theo Kojima (1964) và Drysdale (1969), chỉ số
cường độ thương mại được tính lại như sau
EII Việt Nam và RCEP =
Trong đó:
XVR: Việt Nam xuất khẩu sang RCEP
XV: Tổng xuất khẩu của Việt Nam
MR : Tổng nhập khẩu của RCEP
Mw : Tổng nhập khẩu thế giới
MV = Tổng nhập khẩu của Việt Nam
III giữa Việt Nam và RCEP =
Trong đó

MVR = Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam từ RCEP
MV = Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
XR = Tổng kim ngạch xuất khẩu của RCEP
XW = Tổng kim ngạch xuất khẩu trên thế giới
XV = Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
Chỉ số cường độ thương mại được tính cho Việt Nam và các nước RCEP trong giai
đoạn từ 2008 đến 2017 lấy dữ liệu từ UN COMTRADE.

8


Chỉ số lợi thế so sánh (Revealed Comparative Advantage) cho thấy mức độ cạnh
tranh của một sản phẩm trong xuất khẩu của các quốc gia so với thị phần sản phẩm trong
thương mại thế giới,được tính toán theo công thức:
RCAij

=

Trong đó:
RCAij : Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu trong xuất khẩu của quốc gia i đối
với sản phẩm j
Xij : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của quốc gia i
Xi: Tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia i
Xwj:Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j toàn cầu
Xw: Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu.
Nếu tỷ trọng xuất khẩu của nước i đối với sản phẩm k lớn hơn tỷ trọng sản phẩm đó
trong tổng xuất khẩu của thế giới, tức là RCA ij > 1 thì quốc gia i được coi là lợi thế so
sánh đối với sản phẩm j. Hệ số này càng lớn chứng tỏ lợi thế so sánh càng cao. Ngược lại
nếu RCAij < 1 thì quốc gia i không có lợi thế so sánh về trong sản xuất, xuất khẩu sản
phẩm j.

Trong nghiên cứu hiện tại, RCA được tính cho các quốc gia thuộc RCEP trên 10 nhóm
hàng hóa chính trong 10 năm để xác định lợi thế cụ thể trong thương mại.

9


CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ CƯỜNG ĐỘ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC NƯỚC RCEP GIAI ĐOẠN 2008-2017
1. Chỉ số TII giữa Việt Nam và RCEP giai đoạn 2008-2017
1.1. Cường độ thương mại giữa Việt Nam và RCEP
Chỉ số TII giữa Việt Nam và RCEP được tính toán dựa trên số liệu của UN Comtrade
về giá trị xuất nhập khẩu của các nước trong giai đoạn từ năm 2008-2017 . Kết quả tính
toán được tổng kết trong bảng dưới đây:
Years
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017

Vietnam's EII

RCEP's EII

Vietnam's III


RCEP's III

with RCEP

with Vietnam

with RCEP

with Vietnam

2.0370
1.8482
1.6714
1.6910
1.7817
1.7088
1.6288
1.8246
1.9465
1.9191

1.9560
1.9675
1.9490
1.9905
1.9744
2.2545
2.3148
2.0611

2.0327
1.9272

2.5710
2.6106
2.6564
2.7357
2.7616
3.1080
3.2138
2.8288
2.7693
2.6414

1.4834
1.3395
1.1835
1.2116
1.2536
1.2368
1.1651
1.2580
1.3520
1.3044

Bảng 2: Bảng chỉ số TII giữa Việt Nam và RCEP
Nhìn vào bảng 1, có thể thấy rẳng cường độ nhập khẩu cũng như cường độ xuất
khẩu của Việt Nam qua từng năm từ năm 2008 đến năm 2017 đều lớn hơn 1. Điều này đã
chỉ ra rằng, xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam có cường độ rất mạnh đối với khu vực
các nước RCEP so với phần còn lại của thế giới. Việt Nam cũng là một nước thành viên

của RCEP, nên việc cường độ xuất nhập khẩu của Việt Nam và RCEP là mạnh có thể dễ
hiểu được. Bên cạnh đó, theo lý thuyết đối tác thương mại tự nhiên (The natural trading
partner theory) cũng cho thấy các quốc gia thường có xu hướng giao dịch với các nước
láng giềng và các đối tác gần gũi trong liên minh kinh tế, do cắt giảm được các chi phí
giao dịch, thuế quan,… Các chỉ số này có thể bị giảm xuống, nếu như Việt Nam không
phải là một nước thành viên của RCEP và khoảng cách giữa Việt Nam và RCEP tăng lên.

10


Ta cũng có thể thấy được cường độ xuất khẩu của Việt Nam nhỏ hơn cường độ xuất khẩu
của RCEP ở hầu hết các năm. Điều này đồng nghĩa với việc cường độ nhập khẩu của Việt
Nam từ các nước RCEP là lớn hơn so với cường độ nhập khẩu của RCEP từ Việt Nam.
Tại Việt Nam, chỉ số cường độ xuất khẩu (EII) là nhỏ hơn chỉ số cường độ nhập khẩu
(III). Tương tự, đối với RCEP chỉ số EII lớn hơn chỉ số III. Như vậy có thể nói xuất khẩu
của RCEP đến Việt Nam lớn hơn so với nhập khẩu.
1.2. Cường độ thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên RCEP
Để có một cái nhìn chi tiết hơn, ta tiếp tục các chỉ số TII giữa Việt Nam và các nước thành
viên của RCEP. Số liệu về giá trị xuất nhập khẩu của các nước được sử dụng để tính toán
là số liệu được cung cấp bởi UN Comtrade. Kết quả tính toán được tổng hợp ở bảng dưới
đây:
Year
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015

2016
2017

Aus
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III
EII
III

Bru

5.8778
1.3216
3.2987

1.2759
3.1308
1.1757
2.3349
1.3037
2.0755
1.0864
2.2441
1.1256
2.3949
1.4046
1.6777
1.3170
1.5290
1.3046
1.3339
1.1765

0.2752
0.0030
0.3595
0.0042
0.5176
0.1308
0.4012
2.6539
0.4804
7.1218
0.3875
7.6745

0.3400
1.1351
1.1719
0.7068
0.3260
1.1563
0.3807
0.6075

Cam

China

Indi

Indo

Japan

27.2980
7.4632
27.0988
4.1758
20.8722
3.0233
26.7152
3.7526
23.0606
2.9761
16.6718

2.1000
10.9786
1.7810
8.3434
2.1513
10.2705
2.0361
-

0.9990
2.0696
1.0137
2.3199
1.0436
2.5351
1.1983
2.5583
1.3976
2.5406
1.2481
3.1337
1.2241
3.4743
1.7415
2.7617
2.0358
2.5715
2.1852
2.4202


0.2955
1.9316
0.3515
1.7399
0.5904
2.0041
0.6441
1.9555
0.6097
2.0021
0.8311
2.4829
0.7451
2.5362
0.6832
1.9989
0.7581
2.0429
0.7330
2.1594

1.4154
2.3456
1.4453
2.1749
1.6400
2.0943
2.4691
2.0114
2.1516

1.8996
1.9824
1.8760
2.3121
1.7341
2.2557
1.7324
2.0122
1.8970
1.5734
1.6372

3.0599
1.9316
2.7451
1.9499
2.4805
1.8781
2.5840
1.9623
2.6500
2.1577
2.3530
2.1496
2.2668
2.1714
2.3497
2.0180
2.3091
1.7982

2.2309
1.6567

Laos

Malay

Mya

N.Zea

13.9148
11.1384
18.5185
16.7615
21.7705
19.6150
11.6249
16.8838
11.1525
20.6494
13.7640
17.3235
8.8033
15.4206
-

3.6736
2.3180
3.7745

2.5012
3.1922
3.0863
3.3138
2.7693
4.0880
2.5926
3.9857
2.5693
2.7395
2.3886
2.6316
2.1654
2.3303
2.6558
2.1530
2.2491

1.8884
1.4155
1.2705
1.7589
1.1087
1.2588
1.7437
0.9849
1.8361
1.1010
1.5674
0.5133

1.9807
0.5533
2.3601
0.7179

0.9020
1.2462
0.8047
1.3919
1.1132
1.7067
1.0288
1.4997
1.0758
1.5692
1.3252
1.4431
1.1949
1.3675
1.1202
1.0190
1.1249
0.9373
1.1604
1.0376

Bảng 3:Bảng chỉ số TII giữa Việt Nam và các nước thành viên RCEP

11


7
1
6
1
6
1
2
2
2
1
1
1
2
0
1
1
2
1
2
1


Cường độ xuất khẩu của Việt Nam đến các nước thành viên của RCEP là khá lớn,
nó được thể hiện ở chỉ số EII hầu như đều lớn hơn 1 trong giai đoạn 2008-2017. Cụ thể
với các nước thuộc bán đảo Đông Dương (Lào, Campuchia và Việt Nam) chỉ số EII đều
rất lớn (hầu như lớn hơn 10). Cường độ xuất khẩu của Việt Nam đến Brunei và Indonesia
có thể nói là thấp nhất trong các nước RCEP với chỉ số EII hầu như nhỏ hơn 1. Bên cạnh
đó, New Zealand cũng là một điểm đến mà cường độ xuất khẩu của Việt Nam ở mức thấp,
tuy nhiên chỉ số EII lại đang ngày được cải thiện qua từng năm. Đối với các nước còn lại,
chỉ số EII dao động ở mức trung bình qua các năm. Có một điều dễ thấy rằng vào năm

2008, chỉ số EII có sự chênh lệnh khá lớn giữa các quốc gia trải từ 0.27 đến 27, tuy nhiên
chỉ sau 10 năm EII có xu hướng tiến về ngưỡng trung bình, do đó khoảng chênh lệch
được thu hẹp còn từ 0.38 đến 2.6. Trong vòng 10 năm, cường độ xuất khẩu của Việt Nam
đến các nước RCEP có xu hướng chia đều cho các nước, các nước mà Việt Nam có cường
độ xuất khẩu lớn tại năm 2008 giảm dần, còn đối với các nước mà Việt Nam có cường độ
xuất khẩu thấp thì ngày các tăng.
Việt Nam đang nhập khẩu một lượng rất nhỏ từ Brunei, điều đó được thể hiện qua
chỉ số III của Việt Nam rất thấp. Một lượn lớn xuất khẩu của Việt Nam đến từ các nước
phát triển, có nền khoa học công nghệ hiện đại, có thể kể đến như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan. Nhập khẩu của Việt Nam cũng cao đáng kể đối với các nước thuộc
bán đảo Đông Dương do có chung đường biên giới. Đối với các quốc gia còn lại, III biến
động ở mức trung bình qua từng năm. Cũng giống chỉ số EII, trong vòng 10 năm III cũng
có xu hướng tiến về trung bình, cường độ nhập khẩu của Việt Nam đang được chia đều
cho các nước thành viên của RCEP.
Nhìn chung, cường độ xuất nhập khẩu của Việt Nam đến các nước thuộc RCEP
đều khá lớn. Sự chênh lệch giữa chỉ số EII và III là lớn vào năm 2007, tuy nhiên ngày
càng được thu hẹp qua từng năm, và dần trở lên cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu
của Việt Nam. Điều này là có thể hiểu được, do nhưng năm gần đây việc kí kết các hiệp
định song phương giúp cho việc thúc đẩy xuất khẩu cũng như nhập khẩu của Việt Nam
đối với các thị trường còn mới.

12


2. Lợi thế so sánh tương đối của Việt Nam và RCEP.
Dựa vào kết dữ liệu thu được từ UN Comtrade, nhóm tác giả tính toán, thu được giá trị trung bình RCA của các nước
thuộc RCEP trong giai đoạn 2008-2017 cho 10 nhóm hàng hóa như trong bảng 3 dưới đây:
Aus

Bru


Cam

Chin
a

Indi
a

Indo

Japa
n

Laos

Mala
y

Mya

N.Zea

Phil

Korea

Sing

Thai


Viet

Food and live animals

1.86

0.01

0.45

0.44

1.51

1.07

0.09

2.31

0.52

4.47

8.69

0.98

0.15


0.23

2.15

2.74

Beverages and tobacco

0.68

0.02

0.21

0.09

0.28

1.87

11.13

9.66

5.14

15.8
0


9.41

9.65

9.60

8.73

0.89 10.13

7.20

0.04

0.77

0.17

1.09

0.56

4.36

4.85

1.63

4.70


2.87

2.95

3.87

3.41

1.04

2.25

2.59

8.68

0.00

0.14

1.43

0.85

1.18

1.95

0.78


1.15

0.31

1.67

1.16

1.35

1.05

0.96

0.21

0.00

0.16

0.03

0.31 11.15

24.32

4.76

10.96 11.31


3.20

25.0
4

20.10

20.1
6

8.51

5.36

0.61

0.24

0.05

0.67

1.47

0.96

3.18

1.89


0.52

0.67

0.41

1.65

2.46

2.10

0.41

0.82

0.67

0.05

0.19

1.75

2.71

2.41

1.05


0.57

0.56

1.44

0.32

1.04

0.99

1.49

0.49

1.40

0.28

0.11

0.26

2.30

0.75

1.18


0.66

0.31

0.21

0.39

0.32

0.38

0.48

0.51

0.19

0.16

0.18

0.08

6.93

2.14

1.16


0.10

0.31

0.22

1.15

1.20

1.67

0.62

0.14

0.40

0.84

0.08

0.85

0.03

0.02

0.03


0.30

0.43

7.54

2.28

6.17

0.80

5.14

8.80

6.37

6.19

2.61

7.17

RCA mean

Crude materials, inedible,
except fuels
Mineral fuels, lubricants
and related materials

Animal and vegetable oils
and fats
Chemicals
Manufact goods classified
chiefly by material
Machinery and transport
equipment
Miscellaneous
manufactured articles
Commod. & transacts. Not
class. Accord. To kind

Bảng 4: Lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước thành viên RCEP

13


Xét về ngành xuất khẩu Thực phẩm và động vật sống, Australia, Ấn Độ, Indonesia,
Lào, Myanmar, New Zealand, Thái Lan , Vietnam là những nước có RCA > 1, đồng nghĩa
với việc các nước này có lợi thế so sánh đối với mặt hàng thuộc ngành này. Việt Nam với
chỉ số RCA trung bình là 2,74, cao hơn phần lớn các nước khác trong RCEP, chỉ đứng sau
Myanmar (4,47) và New Zealand (8,69). Điều này cho thấy Việt Nam có lợi thế về xuất
khẩu hơn phần lớn các nước trong RCEP trong ngành thực phẩm và động vật sống. Điều
kiện thời tiết cùng với truyền thống lâu năm trong sản xuất nông nghiệp chính là những
yếu tố góp phần cho thuận lợi này của Việt Nam. Việt Nam có thể tận dụng lợi thế này để
đẩy mạnh phát triển ngành và xuất khẩu sang các nước có chỉ số RCA trung bình thấp như
Brunei (0,01), Campuchia (0,45), Trung Quốc (0,44), Nhật Bản (0,09), Malaysia (0,52),
Triều Tiên (0,15), Singapore (0,23).
Tương tự ngành Thực phẩm và động vật sống, ngành Đồ uống và thuốc lá tại Việt
Nam cũng có chỉ số RCA trung bình > 1 (10,13), cao hơn phần lớn các nước khác trong

RCEP, chỉ đứng sau Nhật Bản (11,13) và Myanmar (15,80). Đây cũng là chỉ số cao nhất
trong số các ngành xuất khẩu của Việt Nam, chứng tỏ đây là một ngành mũi nhọn. Việt
Nam cần đẩy mạnh đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến Đồ uống và thuốc lá, tích cực
chuyên môn hóa sản xuất nhằm tăng lợi thế so sánh đối với các quốc gia khác trong nhóm
RCEP.
Đối với vật liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu, RCA có giá trị lớn hơn 1 ở các
nước như: Australia, Myanrma, New Zealand, Phiplipin, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan
và Việt Nam, Nhật Bản, Lào, Malaysia. Những quốc gia khác còn lại như: Brunei, Trung
Quốc, Indonesia đều có RCA nhỏ hơn 1. Chỉ số RCA của Việt Nam đạt ngưỡng 2.25 chỉ
ra rằng, đối với nhóm hàng hóa này, Việt Nam có lợi thế so sánh hơn các nước có RCA
nhỏ hơn 1. Tồn tại lại thế so sánh của Việt Nam đã khẳng định rằng Việt Nam có thể xuất
khẩu vật liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu sang một số nước khác trong khu vực
không có lợi thế so sánh về mặt hàng này (Trung Quốc, Nhật Bản,..). Như vậy có thể nói
rằng: tồn tại sự bổ sung thương mại về nhóm hàng vật liệu thô, không ăn được của Việt
Nam đối với 1 số nước trong RCEP. Việt Nam nên tích cực chuyên môn hóa sản xuất mặt
hàng này, nhằm cạnh tranh và xuất khẩu sang các nước trong RCEP.
14


Nhiên liệu và dầu nhờn và các loại nguyên liệu liên quan là các sản phẩm dựa trên
tài nguyên tùy thuộc vào nguồn lực tự nhiên của đất nước. Nhưng các ngành công nghiệp
có thể được thành lập để xử lý và tinh chỉnh các sản phẩm này. Đối với nhóm hàng hóa
nhiên liệu và dầu nhờn, RCA cao ở Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Australia, Nhật Bản và
thấp ở Campuchia, Malaysia, Singapore và Trung Quốc. Sự khác biệt về chỉ số RCA đã
chỉ ra rằng các nước Brunei, Ấn Độ, Indonesia có lợi thế cạnh trạnh về nhiên liệu và dầu
nhờn, học có thể xuất khẩu mặt hàng này sang các nước không có lợi thế cạnh tranh như
Campuchia, Malaysia, Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam có chỉ số RCA ở mức trung
bình =0.96, được đánh giá là một nước có giàu tài nguyên thiên nhiên, việc chỉ dừng lại ở
con số 0.96 cho thấy khoa học công nghệ của Việt Nam trong lĩnh vực này chưa hề phát
triển. Nếu Việt Nam tích cực đầu tư vào phát triển khoa học công nghệ cho ngành này,

giúp chỉ số RCA vượt ngưỡng 1 và với lợi thế nguồn tài nguyên, Việt Nam có thể đạt
được lợi thế so sánh ở nhóm mặt hàng này và có thể xuất khẩu.
Indonesia và Trung Quốc là những nước máy móc và thiết bị vận tải lớn và cho
thấy lợi thế so sánh của nó ở nhóm ngành này. Các quốc gia còn lại của RCEP đều không
có lợi thế ở lĩnh vực này, với các chỉ số RCA rất thấp. Điều này cho thấy các nước thuộc
khu vực Đông Nam Á, trừ Indonesia đều không có năng lực phát triển trong ngành công
nghệ cao này. Trong ngành công nghệ cao này, Trung Quốc và Indonesia đã phát triển
công nghệ cũng như năng suất và xuất khẩu phần lớn sang các nước khác. Chỉ số RCA
của Trung Quốc là 2.3 còn của Indonesia là 1.18, cũng đã chỉ ra rằng mặc dù Indonesia có
lợi thế so sánh về nhóm sản phẩm này, nhưng Trung Quốc vẫn là nước có sức mạnh lớn
hơn. Trong khi đó các quốc gia như Việt Nam, Thái Lan, Brunei, hay Malaysia còn phải
đi một chặng đường dài để có thể có lợi thế so sánh, xuất khẩu mặt hàng này. Như vậy do
có lợi thế so sánh hơn so với các quốc gia trong khu vực, Trung Quốc và Indonesia cần
thúc đẩy chuyên môn hóa hơn nữa mặt hàng này và xuất khẩu sang các nước trong khu
vực.
Đối với hàng sản xuất được phân loại chủ yếu theo nguyên liệu, lợi thế so sánh
thuộc về các nước: Việt Nam, Philipin, Singapore, Myanrma, Nhật Bản, Indonesia và
Trung quốc với các chỉ số RCA >1. Các nước không có lợi thế so sánh là: Australia,
Brunei, Campuchia, Lào, Malaysia, New Zealand. Các nước có lợi thế so sánh trong lĩnh
15


vực này có thể xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác có không có lợi thế so sánh. Việt
Nam cũng là một trong nhưng nước cơ lợi thế so sánh, nên cần phải có chính sách phát
triển thích hợp, nhằm giữ vững lợi thế và phát triển xuất khẩu.
Tính toán RCA cho thấy Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp dầu
mỡ động thực vật. Trong giai đoạn từ năm 2008 – 2016, Việt Nam vẫn luôn thể hiện được
lợi thế của mình trong việc xuất khẩu mặt hàng thuộc ngành này, tuy nhiên đến năm 2017
thì có dấu hiệu chững lại. Trong khi đó, một số quốc gia khác thuộc RCEP có chỉ số RCA
rất cao, tiêu biểu phải kể đến Nhật Bản (24,32), Philippines (25,04). Bên cạnh đó, cũng có

nhiều nước không có lợi thế so sánh trong ngành này, như Brunei (0,00), Trung Quốc
(0,03).
Hầu hết chỉ số RCA của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong ngành công
nghiệp hoá chất đều nhỏ hơn 1, đồng nghĩa với việc họ không có lợi thế cạnh tranh trong
ngành này. Nhật Bản và Singapore là những quốc gia có chỉ số RCA cao (lớn hơn 2). Sự
khác biệt này đến từ sự phát triển về kỹ thuật và khoa học công nghệ giữa các quốc gia
trong nhóm RCEP, từ đó hai quốc gia này có lợi thế cạnh tranh trong ngành công nghiệp
hóa chất. Họ có thể xuất khẩu sang các nước khác có chỉ số RCA < 1. Việt Nam, với chỉ
số RCA = 0,82 là một quốc gia không có lợi thế ở trong ngành này. Cần có những biện
pháp phát triển kỹ thuật, khoa học công nghệ, tăng năng suất trong khâu sản xuất, góp
phần làm tăng lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong ngành này.
Nhận xét: Việt Nam là một trong những nước có lợi thế cạnh trạnh trong nhiều lĩnh
vực như:






Thức ăn và động vật sống
Đồ uống và thuốc lá
Vật liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu
Hàng sản xuất được phân loại chủ yếu theo nguyên liệu
Dầu và mỡ động vật

Tuy nhiên do là một nước đang phát triển, chưa có nền khoa học kĩ thuật tiên tiến, nên
năng suất cũng như hiệu quả chưa cao. Do đó cần những giải pháp thích hợp, nhằm phát
triển những loại hàng hóa trên.

16



CHƯƠNG III: KHÓ KHĂN THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
1. Khó khăn và thách thức
1.1. Nhóm hàng thức ăn và động vật sống
Qua hơn 20 năm xây dựng và đổi mới, ngành công nghiệp thực phẩm đã từng bước
đáp ứng nhiều sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế, phục vụ nhu cầu trong nước, thay thế
nhập khẩu và tham gia xuất khẩu. Nhiều sản phẩm đã có sức cạnh tranh cao trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Hiện nay, ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam đạt 20% PIB (tổng sản lượng nội
địa). Thời gian qua, để giải quyết việc làm, tận dụng thế mạnh về nguồn nhân lực, phù
hợp với hoàn cảnh và tiềm lực nước ta trong những năm đầu phát triển công nghiệp, Việt
Nam đã chú trọng phát triển ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng.
Bộ Công Thương đã xếp ngành công nghiệp thực phẩm vào nhóm ngành đang có lợi
thế cạnh tranh và có định hướng, chiến lược phát triển trên cơ sở sử dụng công nghệ tiên
tiến, hiện đại, khai thác sử dụng tối đa nguyên liệu trong nước, tạo sản phẩm đa dạng, bảo
đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, có khả
năng cạnh tranh cao, để hình thành ngành kinh tế mạnh, hội nhập vững chắc với khu vực
và thế giới.
Từ năm 2010, ngoài việc tạo dựng được các thương hiệu lớn, chiếm lĩnh thị trường
nội địa, ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam còn phải đạt mục tiêu tập trung đẩy
mạnh xuất khẩu một số sản phẩm, trong đó đặc biệt là thực phẩm chế biến sẵn sử dụng
trực tiếp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với tiềm năng. Nguyên nhân
có nhiều, song tựu trung lại bao gồm: Liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất, thu gom đến
phát triển vùng nguyên liệu, chế biến; công nghệ sản xuất vẫn còn lạc hậu, kiểm soát an
toàn thực phẩm còn bất cập, đầu tư còn hạn chế; sản xuất nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào có
chất lượng không cao, thiếu ổn định..
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động như hiện nay, các rào cản kỹ thuật,

những đòi hỏi về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước ngày càng khắt khe
và yêu cầu cao; thị trường trong nước cũng ngày càng xuất hiện nhiều hàng hóa nhập
17


khẩu từ nước ngoài, vì vậy, cần phải có sự chung sức đồng lòng của các cơ quan quản lý,
doanh nghiệp và người tiêu dùng mới có thể hiện thực hóa được những mục tiêu, định
hướng phát triển của ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam.
1.2. Đồ uống và thuốc lá
Trong những năm qua, ngành công nghiệp đồ uống luôn duy trì tốc độ tăng trưởng
chậm và dự kiến năm 2017 có khả năng tăng trưởng thấp hơn cả tốc độ tăng trưởng GDP.
Triển vọng tăng trưởng năm 2018 được dự báo sẽ không thay đổi nhiều so với năm 2017.
Nguyên nhân lý giải tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp đồ uống giảm sút, là do ảnh
hưởng từ chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với quản lý mặt hàng bia rượu.
Hiện nay, khung pháp lý trong lĩnh vực thuế và hải quan mới được áp dụng đang gây
khó khăn cho doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam phải đẩy mạnh cải thiện các khung pháp
lý và thủ tục hành chính hơn nữa thu hút thêm dòng vốn đầu tư từ nước ngoài và phát
triển nền kinh tế nói chung.
VBA Việt Nam cho biết sẽ kiến nghị xây dựng chính sách mang tính ổn định, lâu dài
(ít nhất 10 năm). Đặc biệt, mỗi chính sách đưa ra cần đánh giá các tác động, tránh ảnh
hưởng DN và tập trung tháo gỡ khó khăn cũng như có sự linh hoạt, tạo điều kiện phát
triển cho DN.
Trong 9 tháng đầu năm 2018, bên cạnh những thuận lợi của môi trường kinh tế vĩ
mô, hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc lá vẫn còn nhiều khó khăn. Mức độ cạnh tranh
của ngành ngày càng gay gắt. Giá một số mặt hàng nguyên liệu, phụ liệu thuốc lá có xu
hướng tăng, trong khi đó diện tích vùng trồng cây thuốc là đang bị thu hẹp.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, sản lượng thuốc lá bao các loại đạt khoảng
4.354,1 triệu bao 1, tăng nhẹ so với cùng kỳ 2017 (4,9%). Hiện nay, thị trường tiêu thụ
đang có xu hướng chuyển đổi tiêu dùng theo hướng trung cấp và mức độ cạnh tranh
ngành càng khốc liệt. Ở phân khúc cao cấp, hoạt động phân phối, tiêu thụ các sản phẩm

cao cấp nhãn quốc tế gặp nhiều khó khăn và có dấu hiệu chững lại sau thời gian tăng
trường, tăng mạnh năm 2017.
Hoạt động xuất khẩu sản phẩm thuốc lá điếu cũng gặp nhiều khó khăn do xu hướng
quản lý chặt chẽ thị trường tiêu thụ thuốc lá điếu của các quốc gia. Từ ngày 01 tháng 01
năm 2018, hàng vi tang trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu đã bị xử lý hình
18


sự được quy định tại Bộ luật Hình sự sửa đổi số 12/2017/QH14. Đây là tín hiệu tích cực
đối với ngành thuốc lá, tạo môi trường thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
sản phẩm thuốc lá điếu hợp pháp.
Hiện, ngành thuốc lá vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới do thuế suất
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá điếu và tình trạng nhập lậu thuốc lá vẫn
còn diễn biến phức tạp.
1.3. Vật liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu
Chính thức có hiệu lực từ ngày 14/1 vừa qua, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ giúp tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa các
nền kinh tế thành viên và thúc đầy thương mại đầu tư trong khu vực các nước châu Á –
Thái Bình Dương. Bên cạnh tác động đáng kể được mong đợi trong Hiệp định này, cũng
như những ngành khác, ngành Vật liệu xây dựng được dự báo sẽ mở ra nhiều thách thức
và khó khăn.
Với những cam kết mang tính toàn diện, tiêu chuẩn cao và cân bằng, CPTPP sẽ giúp
tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa các nền kinh tế thành viên và thúc đẩy thương
mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Theo tính toán của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho thấy, CPTPP sẽ giúp GDP Việt Nam tăng thêm 1,7 tỷ USD, hơn 4 tỷ
USD xuất khẩu, tăng tương ứng 1,32% và 4,04% đến năm 2035. Không chỉ mở ra những
cơ hội mới về giao thương, CPTPP với những tiêu chuẩn cao còn tạo thêm động lực để
Việt Nam cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Cùng với cơ hội, CPTPP cũng mang tới những tác động tiêu cực cho các doanh

nghiệp ngành thép, dù những tác động này là rất nhỏ và nếu có ảnh hưởng thì lĩnh vực
thép xây dựng sẽ chịu tác động mạnh hơn cả. Còn với mặt hàng tôn mạ, đây vốn được coi
là mặt hàng thế mạnh của Việt Nam trong nhiều năm qua, do vậy được đánh giá cơ hội
cho ngành tôn mạ sẽ lớn hơn.
Bởi nhu cầu thép trong nước vẫn chưa cho thấy dấu hiệu tích cực do một số dự án
đầu tư công tạm dừng và chưa rõ thời điểm triển khai lại, thị trường bất động sản vẫn trầm
lắng. Nguồn cung lớn hơn cầu về phôi thép, thép xây dựng, tôn mạ và tiếp tục gia tăng
dẫn đến cuộc cạnh tranh về giá. Khoảng cách giá nguyên liệu và sản phẩm cũng ngày
19


càng thu hẹp khiến hiệu quả của các doanh nghiệp sản xuất từ thép dài và thép dẹt sẽ bị
sụt giảm nhiều trong năm 2019.
Mặc dù hội nhập, nhiều hiệp định thương mại tự do được ký kết nhưng xu hướng
bảo hộ thương mại và hàng rào phi thuế quan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ
đến ngành thép. Việc áp các mức thuế chống bán phá giá từ các thị trường Mỹ, Canada,
EU, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, ́n Độ... khiến cho xuất khẩu thép của Việt Nam gặp
nhiều khó khăn.
Thách thức về xã hội, sự cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho
một số doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng trong nước lâm vào tình trạng khó khăn
do nhiều doanh nghiệp nước ngoài sẽ tìm kiếm thị trường tại Việt Nam. Thực tế khác cho
thấy những năm qua, vật liệu xây dựng Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường các nước
thành viên khác của CPTPP chưa nhiều do chúng ta vẫn thiếu những sản phẩm xuất sắc.
Do đó, khi CPTPP có hiệu lực, áp lực cạnh tranh không chỉ riêng về ngành vật liệu xây
dựng trong năm 2019 được đánh giá sẽ tương đối gay gắt.
1.4. Nguyên liệu khoáng, dầu nhờn và các vật liệu liên quan
Hiện nay, công nghiệp khai khoáng ở nước ta chỉ tập trung chủ yếu là khai thác than
ở Quảng Ninh, sắt ở Trại Cau (Thái Nguyên), đồng ở Sinh Quyền (Lào Cai), vàng Bồng
Miêu, titan ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Bình Thuận..., còn ở các địa phương
khác thì khai thác chế biến quy mô rất nhỏ như chì, kẽm, thiếc, antimoan, crôm… và một

số nguyên liệu khoáng như đá vôi, đá trắng, cao lanh… Những cơ sở nhỏ thường không
đem lại nguồn thu cho ngân sách nhiều do sản lượng thấp, sản phẩm thô, công nghệ lạc
hậu và khai thác chế biến không hiệu quả. Một số dự án lớn đang được triển khai như:
Titan Bình Định, Bình Thuận, sắt Quý Xa, sắt Thạch Khê… đang ít nhiều gặp phải các
vấn đề về môi trường, công nghệ chế biến, nguồn vốn và thị trường tiêu thụ. Đặc biệt,
công nghiệp khai khoáng là ngành đòi hỏi đầu tư dài hạn lại chịu nhiều rủi ro. Dài hạn là
vì trước khi đầu tư cơ sở sản xuất, chế biến ra sản phẩm, các dự án liên quan đến khai
khoáng còn phải trải qua giai đoạn điều tra, thăm dò địa chất để đánh giá hàm lượng và
trữ lượng của mỏ. Tiếp theo là công tác thiết kế khai trường và nhiều công đoạn khác,
hoặc gặp rủi ro khi chính sách có thể thay đổi hay liên quan đến thuế tài nguyên, nhiều
khoản lệ phí thu theo quy định của địa phương (mỗi nơi mỗi kiểu thu).
20


Ngoài ra, mỗi khi giá cả của các nguyên liệu cơ bản tăng chóng mặt, thì thị trường
ngành khai khoáng Việt Nam cũng trở nên sôi động. Trung Quốc tích cực mua các loại
nguyên liệu thô và việc khai thác lậu, xuất lậu sang Trung Quốc diễn ra hàng ngày. Những
tháng cao điểm, quặng sắt xuất khẩu từ các cảng đạt từ 70.000 – 100 tấn/tháng. Các dự án
đầu tư vào khai thác quặng sắt, địa phương yêu cầu dự án đầu tư phải làm ra sản phẩm
gang hoặc phôi thép, thép thành phẩm mới được chấp thuận mà không phải tỉnh nào cũng
đủ điều kiện để làm.
Muốn phát triển công nghiệp khai khoáng và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
khoáng sản trên địa bàn các địa phương, nên chăng, thứ nhất: Các dự án khai thác mỏ, cần
thực hiện theo đúng Luật Khoáng sản và theo cam kết của các doanh nghiệp, nếu dự án
không triển khai đúng tiến độ sẽ bị thu hồi; các dự án hết hạn sẽ không được gia hạn. Thứ
hai: Với thực trạng khá lộn xộn ở nhiều địa phương như hiện nay, thì việc cấp phép mỏ
mới cho các doanh nghiệp nên dừng để tập hợp, quy hoạch lại các điểm mỏ, lập danh sách
theo nhóm nguyên liệu và tổ chức đấu thầu theo nhóm. Thứ ba: Lựa chọn nhà đầu tư có
năng lực tài chính, có kinh nghiệm trong ngành khai khoáng, có dự án đầu tư chế biến và
có khả năng tiêu thụ sản phẩm. Thứ tư: Yêu cầu nhà đầu tư lập đề án và triển khai đánh

giá thăm dò địa chất, quy hoạch các điểm mỏ làm nguồn nguyên liệu và báo cáo kết quả
đánh giá thăm dò địa chất. Với kết quả thăm dò địa chất, nếu nhà đầu tư tiếp tục dự án thì
yêu cầu lập dự án khả thi về chế biến, lựa chọn sản phẩm, quy mô, công nghệ và giải pháp
bảo vệ môi trường. Thứ năm: Nhà đầu tư triển khai dự án đã được phê duyệt, UBND tỉnh
giám sát tiến trình thực hiện dự án. Thứ sáu: Công nghiệp khai khoáng là ngành non trẻ,
đầu tư vào các dự án khai khoáng là rất lớn, hiệu quả kinh tế lại không cao, giá cả quốc tế
luôn biến động giảm khiến hiệu quả dự án giảm… vì thế, nên thu thuế tài nguyên theo dự
án được duyệt và Nhà nước thu thuế tài nguyên cho một, hai, hoặc ba năm đầu tiên ngay
trước khi cấp phép khai thác. Từ các năm sau sẽ thu theo từng năm.…
Hy vọng, với một số giải pháp trên được chỉ ra, sẽ góp phần mang lại cho ngành
công nghiệp khai khoáng nước nhà những tín hiệu vui, đó là: Nguồn nguyên liệu vốn ít ỏi,
phân tán được đánh giá đúng trữ lượng, được tập trung sử dụng hiệu quả; nguồn nguyên
liệu tập trung sẽ giúp cho việc lựa chọn công nghệ, quy mô lớn và giảm chi phí sản xuất;
Nguyên liệu được chế biến sâu, không còn xuất thô, giá trị thương mại cao hơn, tận thu sử
21


dụng có hiệu quả. Theo đó, các dự án đảm bảo có nguồn bao tiêu sản phẩm, tránh được
những tác động về biến động giá trên thị trường.
1.5.

Dầu và mỡ động thực vật
Điểm yếu nhất của ngành dầu động thực vật là trên 90% nguyên liệu phải nhập

khẩu. diện cho cơ quan chủ trì soạn thảo quy hoạch phát triển ngành dầu thực vật Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Thứ trưởng Bộ Công Thương Bùi Xuân
Khu cho rằng, khó khăn của ngành không phải là đầu tư thêm nhà máy sản xuất mà bài
toán khó nhất chính là phải cân nhắc, tính toán đến vùng nguyên liệu..
Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành năm 2008 đạt 6.620 tỷ đồng, chiếm 4,62%
Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành thực phẩm, đồ uống và 1,02% giá trị sản xuất

công nghiệpcủa toàn ngành công nghiệp, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ
đồng/năm (năm 2008 là 1.647 tỷ đồng).Sản phẩm của ngành không những đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tham gia xuất khẩu.
Trong đó, doanh nghiệp lớn nhất của ngành là Công ty Dầu thực vật hương liệu mỹ
phẩm Việt Nam (Vocarimex) và các công ty con, công ty liên doanh, liên kết chiếm
78,74% năng lực sản xuất dầu tinh luyện và 23,24% năng lực sản xuất dầu thô của toàn
ngành.
Đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngành, ông Phạm Văn Liêm, Viện Nghiên cứu
chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) khẳng định, nhìn chung khả năng
cạnh tranh của sản phẩm dầu thực vật chưa cao, do sản phẩm dầu ăn phải chịu sự cạnh
tranh mạnh với các sản phẩm dầu ăn từ các nước ASEAN.
Trong giai đoạn 2000 - 2008, nhập khẩu dầu của Việt Nam tăng trung bình
12,6%/năm, trong khi xuất khẩu ngày càng giảm dẫn tới ngành dầu đang nhập siêu khá
lớn. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu đã trên 700 triệu USD. Dự báo, nếu không có
chương trình phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu hữu hiệu, đến năm 2015 phải nhập
khẩu trên 1 tỷ USD nguyên liệu dầu thô và hạt có dầu.
Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là dầu cọ (chiếm 77,88% trong cơ cấu nhập khẩu) từ
Malaysia và Indonesia, nhưng do chênh lệch về thuế giữa dầu thô và dầu tinh luyện không
cao (theo cam kết của AFTA) nên đa phần doanh nghiệp thường nhập dầu tinh luyện về
22


sản xuất thành phẩm và cung ứng ra thị trường. Hệ lụy kéo theo là không khuyến khích
được các nhà đầu tư phát triển các nhà máy trích ly dầu thô.
Theo tính toán, mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người của Việt Nam năm
2008 mới là 7 kg/người, tương đương với mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người
của Trung Quốc năm 1995.
Nếu coi mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người năm 1995 của Trung Quốc
và năm 2008 của Việt Nam là cơ sở, thì mức tăng trưởng tiêu thụ dầu thực vật bình quân
đầu người tương đồng của Việt Nam sẽ vào khoảng 8%/năm trong giai đoạn 2008 - 2018

và 3,5%/năm trong giai đoạn 2018 - 2025, tương đương với mức tiêu thụ bình quân đầu
người là 15,2 kg/người vào năm 2018 và 19,4 kg/người vào năm 2025. Như vậy, tiềm
năng phát triển của ngành tại thị trường nội địa còn rất lớn.
Một nguồn nguyên liệu giàu tiềm năng là cám gạo ở đồng bằng sông Cửu Long có
tổng khối lượng rất lớn (400-500 ngàn tấn/năm) nhưng khó thu mua với số lượng lớn và
chi phí vận chuyển về nhà máy cao nên dự án nhà máy dầu cám ở Cần Thơ vẫn không đạt
được hiệu quả cao (năm 2008 mới chỉ thu mua được 80 ngàn tấn).
1.6. Hóa chất
Những năm gần đây, số lượng hóa chất nông nghiệp tại Việt Nam được nhập khẩu
về ngày càng tăng cao. Điều này khiến nhiều người không khỏi “giật mình”, nhất là khi
Tập đoàn Hóa chất dù nắm vai trò chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như vận
hành các nhà máy sản xuất phân bón, hóa chất lại đang làm ăn thua lỗ.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, giá trị nhập khẩu hóa chất nông
nghiệp tại Việt Nam về các sản phẩm hoá chất từ ngày 1/1-15/1/2017 đã trên 140 triệu
USD, 168 triệu USD sản phẩm hóa chất. Những số liệu này dự báo xu hướng nhập khẩu
hóa chất sẽ ngày càng tăng cao, khi mới nửa tháng đầu năm 2017, con số nhập khẩu đã
lên tới triệu đô.
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, hết năm 2016, Việt Nam đã chi hơn 6,9 tỷ
USD để nhập khẩu hóa chất nông nghiệp và các sản phẩm hóa chất. Trong đó riêng nhập
khẩu nguyên liệu hóa chất để điều chế các hoạt chất khác chiếm 3,2 tỷ USD. Đáng chú ý,
thị trường nhập khẩu hóa chất nông nghiệp tại Việt Nam chủ yếu là từ Trung Quốc.
Cụ thể, trong năm 2016, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng hóa chất và sản phẩm hóa
chất là 1,8 tỷ USD, riêng hóa chất nhập để điều chế các hợp chất khác đạt 1,02 tỷ USD.
23


Đây là năm đầu tiên Việt Nam chi nhập khẩu nguyên liệu hóa chất đạt kim ngạch hơn
1,02 tỷ USD. Như vậy, trung bình mỗi ngày Việt Nam phải bỏ ra hơn 112 tỷ đồng để nhập
khẩu hóa chất từ Trung Quốc.
Hạn chế của nhập khẩu hóa chất nông nghiệp tại Việt Nam

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho ngành hóa chất vì khả năng
cung ứng nguyên liệu đầu vào còn thấp. Đây cũng là một trong những điểm yếu của
ngành hóa chất nông nghiệp ở nước ta. Trung Quốc luôn là thị trường chính cho công tác
nhập khẩu hóa chất nông nghiệp tại Việt Nam. Nó chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch
nhập khẩu hóa chất của nước ta năm 2016.
Thực tế trong thời gian qua việc nhập khẩu hóa chất nông nghiệp từ Trung Quốc
đang diễn ra một cách tràn lan. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh an toàn thực phẩm
trong nước. Không những thế nó còn gây ra trở ngại rất lớn cho công tác quản lí, kiểm tra
việc sử dụng các loại hóa chất này. Có thể bạn chưa biết hóa chất nông nghiệp tại Việt
Nam cũng được nhập khẩu từ các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Mỹ,
Canada,.. Nhưng số lượng nhập từ các nước này rất thấp do chi phí nhập khẩu rất cao.
Nguyên nhân một phần là bởi năng lực sản xuất phân bón ở nước ta còn thấp. Hóa chất
nông nghiệp tại Việt Nam được sản xuất nội địa mới chỉ đạt được 45% nhu cầu trong
nông nghiệp. Không những vậy, chủng loại hóa chất cũng không đa dạng. Vì vậy trong
thời gian tới, các doanh nghiệp trong nước sẽ đặt ra mục tiêu tăng sản lượng với mức
trung bình 10%/năm.
Trước thực trạng hóa chất nông nghiệp tại Việt Nam cũng như tình trạng nhập khẩu
hóa chất hiện nay nó đặt ra yêu cầu mới để nước ta vươn lên làm chủ. Nó đòi hỏi sự ra tay
vào cuộc của các cấp quản lý cũng như đòi hỏi ý thức và đạo đức sản xuất của người nông
dân.
1.7. Máy móc thiết bị vận tải
Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 657 triệu USD, giảm 1,5% so với tháng
trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong năm 2018 đạt 7,96 tỷ USD, tăng 13,5%
so với năm 2017.
Có tới 8 ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đạt trên 100%,
trong đó ngành hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng trưởng 526,3% so với cùng
kỳ năm trước đạt 937,93 tỷ USD và trở thành ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam sang Ấn Độ tính đến thời điểm hiện tại.
24



Các mặt hàng khác có tốc độ tăng trưởng ấn tượng gồm xuất khẩu sản phẩm mây
tre, cói thảm tăng 1549%; xuất khẩu sản phẩm từ sắt thép tăng 272,3% đạt 73,15 triệu
USD; xuất khẩu Phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 227,9% đạt 118,12 tỷ USD; xuất
khẩu sản phẩm từ chất dẻo tăng 145,4%; xuất khẩu sản phẩm từ cao su tăng 135,2% …
Xuất khẩu điện thoai di động và linh kiện tiếp tục giữ được đà tăng trưởng, trong 5 tháng
đầu năm 2018 xuất khẩu ngành hàng này đạt 308,82 tỷ USD tăng 47,5% so với cùng kỳ,
đây là ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ 2 sau Máy móc thiết bị.
Chiều ngược lại, nhập khẩu từ Ấn Độ trong 5 tháng đầu năm chỉ tăng 0,5% so với cùng
kỳ năm trước, đáng chú ý, nhập khẩu Bông các loại trở thành ngành hàng có kim ngạch
lớn nhất đạt 243 triệu USD, tăng 41,8%. Các mặt hàng khác có kim ngạch nhập khẩu tăng
so với cùng kỳ năm trước gồm Linh kiện phụ tùng ô tô tăng 247,4%; Quặng và khoáng
sản khác, tăng 184,7%; Kim loại thường tăng 153,4%; chất dẻo nguyên liệu tăng 121,4%.
Theo số liệu của Bộ Công Thương Ấn Độ, tính trong 4 tháng đầu năm 2018, thương mại
song phương Ấn Độ - Việt Nam đạt 4,46 tỷ USD tăng 21,31% so với cùng kỳ, trong đó,
xuất khẩu từ Ấn Độ đạt 2,26 tỷ USD giảm 8,48% so với 2,46 tỷ USD; nhập khẩu từ Việt
Nam đạt 2,20 tỷ USD tăng 82% so với 1,21 tỷ USD cùng kỳ.
Nhưng mặt khác việc nhập khẩu máy móc đang là điểm đáng báo động của việt
Nam khi Theo số liệu mới nhất được Tổng cục Hải quan cập nhật đến hết tháng 9/2018,
cả nước chi hơn 24,6 tỷ USD nhập hàng máy móc, công nghệ và thiết bị nguồn cho công
nghiệp, kim ngạch nhập khẩu giảm gần 90 triệu USD.
Điều đáng nói, trong 5 nước có kim ngạch nhập khẩu hàng máy móc lớn nhất vào
Việt Nam, thì 4 nước còn lại đều giảm hoặc giữ ổn định, chỉ duy nhất kim ngạch nhập mặt
hàng này từ Trung Quốc lại tăng 400 triệu USD so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, giá trị nhập mặt hàng của Trung Quốc đạt 8,6 tỷ USD, tăng hơn 400 triệu USD so
với cùng kỳ năm trước; trong khi đó nhập máy móc của Đức về Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD,
tăng 320 triệu USD so với cùng kỳ năm trước; giá trị nhập máy móc từ Hàn về Việt Nam
giảm cực mạnh 2,3 tỷ USD.
Trong khi đó, giá trị nhập máy móc của Mỹ, Nhật về Việt Nam chững lại ở con số
700 triệu USD (Mỹ) và 3,2 tỷ USD của Nhật Bản. Trên thực tế, kim ngạch nhập khẩu máy

móc, thiết bị của Trung Quốc vào Việt Nam luôn chiếm từ 30% tại Việt Nam trong 2 năm
trở lại đây. Năm 2017, tổng kim ngạch nhập mặt hàng này cả nước đạt 33,8 tỷ USD, kim

25


×