Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II FDI và vấn đề bảo vệ môi trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.05 KB, 22 trang )

Phần 1.

Tổng quan về FDI

I. Khái niệm FDI
1. Khái niệm
Theo Wikipedia, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh:
Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty
nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh
này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư
từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài
chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản
mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi
nhánh công ty".
Nói đơn giản, vốn FDI được hiểu là hình thức đầu tư dài hạn
của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách
thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài sẽ nắm quyền quản lý cơ sở vật chất kinh doanh này.
2. Đặc điểm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment –
FDI ) là hình thức đầu tư nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của
nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế và phân công lao
động quốc tế.



1


Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư
nước ngoài.Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) “ Đầu tư nước
ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước
của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng tiêu dùng
của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính
chất kinh tế xã hội ”. Theo luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam ban
hành năm 1987 và được bổ sung hoàn thiện sau ba lần sửa đổi
“Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài
trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất
kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên
doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Qua xem xét các định nghĩa về đầu tư nước ngoài có thể
rút ra một số đặc trưng cơ bản của đầu tư nước ngoài như sau:
Một là, sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác .
Hai là, vốn được huy động vào các mục đích thực hiện các
hoạt động kinh tế và kinh doanh.
Mặc dù có nhiều khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung
FDI được xem xét như một hoạt động kinh doanh, ở đó có các
yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo nó bao gồm các yếu
tố khác. Các yếu tố đó không chỉ bao gồm sự khác biệt về quốc
tịch của các đối tác tham gia vào quá trình kinh doanh,sự khác
biệt văn hoá, luật pháp mà còn là sự chuyển giao công nghệ, thị
trường tiêu thụ…
Theo luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, FDI có thể được
hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân trực tiếp nước ngoài

đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bất cứ tài sản nào được
chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam
hoặc tự mình tổ chức các hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ
2


Việt Nam. Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu FDI là hình thức di
chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời là người
trực tiếp tham gia quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn
đầu tư.Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty(cá nhân)
nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ
toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, các chủ đầu tư phải đóng góp một khối lượng
vốn tối thiểu theo quy định của từng quốc gia. Luật Đầu tư nước
ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng
góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ hai, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ
thuộc vào mức độ đóng góp vốn. Nếu đóng góp 10% vốn thì
doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và
quản lý.
Thứ ba, lợi nhuận của các chủ đầu tư phụ thuộc vào kết
quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn
sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần.
Thứ tư, FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang
hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Thứ năm, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn
gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và
kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư

và phía nhận đầu tư.
Thứ sáu, FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh
doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phân chia theo
nhiều tiêu thức khác nhau:
3


Nếu căn cứ tính chất pháp lý của đầu tư nước ngoài trực
tiếp có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các loại hợp
đồng và hợp tác kinh doanh , doanh nghiệp liên doanh,doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có thêm hình thức
đầu tư khác đó là hợp đồng xây dựng – kinh doanh- chuyển giao
(BOT). Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp liên doanh và
doanh nghiệp 100% vốn là hình thức pháp nhân mới và luật Việt
Nam gọi chung là xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu căn cứ vào tính chất đầu tư có thể chia FDI thành hai
loại đầu tư tập trung trong khu chế xuất và đầu tư phân tán. Mỗi
loại đầu tư trên đều có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu công nghiệp ở từng quốc gia.
Nếu căn cứ vào quá trình tái sản xuất có thể chia đầu tư
trực tiếp nước ngoài thành đầu tư vào nghiên cứu và triển khai,
đầu tư vào cung ứng nguyên liệu, đầu tư vào sản xuất, đầu tư
vào tiêu thụ sản phẩm..
Nếu căn cứ vào lĩnh vực đầu tư có thể chia FDI thành các
loại như đầu tư công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ..
Theo luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các hình thức
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm 3 hình thức như sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Hàng đổi hàng – Phương thức đầu tư thu hút nước ngoài
quan trọng đối với các nước đang phát triển.
Hàng đổi hàng là phương thức đầu tư mà giá trị của trang
thiết bị cung cấp được hoàn trả bằng chính sản phẩm mà các
trang thiết bị đó làm ra. Phương thức này liên quan tới hai hợp
đồng quan hệ mật thiết với nhau và cân bằng nhau về mặt giá
4


trị.Trong một hợp đồng, nhà cung cấp đồng ý xây dựng nhà máy
hoặc cung cấp các công nghệ của nhà máy cho phía đối tác.
Trong hợp đồng khác, nhà cung cấp đồng ý mua lại sản phẩm
mà công nghệ đó sản xuất ra với khối lượng tương ứng với giá
trị thiết bị mà nhà máy đã đầu tư.
Hàng đổi hàng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh
tế của các nước đang phát triển đặc biệt là các nước đang
chuyển đổi. Thực tế đã chỉ ra rằng hàng đổi hàng có ý nghĩa
quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp chế biến
nông sản góp phần ổn định và phát triển kinh tế, tạo việc làm
cho người lao động ở các nước đang phát triển. Hàng đổi hàng
là phương thức đầu tư mới của các đối tác nước ngoài vào Việt
Nam.
3. Phân loại
3.1. Phân theo cách thức xâm nhập
a. Đầu tư mới
Đầu tư mới là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư
mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước
nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
b. Sáp nhập và mua lại

Mua lại là việc đầu tư hay mua trực tiếp một công ty đang
hoạt động hay cơ sở sản xuất kinh doanh. Ví dụ, khi hãng Home
Deport thâm nhập vào thị trường Mexico, nó mua lại các cửa
hàng và tài sản của một nhà bán lẻ các sản phẩm công trình
kiến trúc, Home Mart.
Sáp nhập là một dạng đặc biệt của mua lại mà trong đó
hai công ty sẽ cùng góp vốn chung để thành lập một công ty
mới và lớn hơn. Sáp nhập là hình thức phổ biến hơn giữa các
công ty có cùng quy mô bởi vì họ có khả năng hợp nhất các
hoạt động của mình trên cơ sở cân bằng tương đối.

5


3.2. Phân theo hình thức pháp lý
a. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký
giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Hình thức này không thành lập pháp nhân riêng và mọi hoạt
động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại.
b. Liên doanh
Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ
trước tới nay. Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất
là giai đoạn đầu thu hút FDI. DNLD là doanh nghiệp được thành
lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên
hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên nước ngoài để
đầu tư kinh doanh tại nước sở tại
c. 100% vốn nước ngoài
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức

truyền thống và phổ biến của FDI. Doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài nhưng
phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận
đầu tư).
3.3. Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước
ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam
BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình
đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
4. Ưu, nhược điểm của FDI
4.1.
Lợi ích của việc hút vốn FDI
a. Bổ sung nguồn vốn đầu tư quan trọng
Vốn FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng
nguồn vốn, nhất là trong giai đoạn khởi động nền kinh tế.
Nguồn vốn FDI chủ yếu là ngoại tệ mạnh và máy móc thiết bị
tương đối hiện đại nên đã góp phần tạo ra cơ sở vật chắt mới,
bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng thêm năng
6


lực sản xuất mới của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là công
nghiệp. Thống kê sơ bộ đến cuối tháng 12/2018 cho thấy, nếu
tính theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào
18 ngành lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là
lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước
ngoài nhất.

Cụ thể, lĩnh vực này đã thu hút tổng số vốn đạt 16,58 tỷ
USD, chiếm 46,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Trong khi đó, lĩnh
vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng
vốn đầu tư 6,6 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư
đăng ký 3,67 tỷ USD, chiếm 10,3% tổng vốn đầu tư đăng ký.
b. Mở rộng xuất khẩu
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP của cả nước
tăng từ 9,3% năm 1995 lên 19,6% năm 2017.Tỷ trọng thu ngân
sách nhà nước từ khu vực đầu tư nước ngoài cũng tăng đáng kể,
từ 1,8 tỷ USD trong giai đoạn 1994-2000 lên 23,7% tỷ USD
trong giai đoạn 2011-2015, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách
nhà nước. Riêng năm 2017, khu vực đầu tư nước ngoài đã đóng
góp hơn 8 tỷ USD, chiếm 17,1% tổng thu ngân sách nhà
nước. Thúc đẩy nội lực của DN trong nước để tăng tỉ trọng xuất
khẩu là mục tiêu được ưu tiên, song không thể phủ nhận và từ
chối dòng vốn FDI khi nguồn lực này đóng góp đến 71,7% giá trị
xuất khẩu năm 2018. Các nhóm hàng xuất khẩu dẫn đầu đa
phần thuộc về khối FDI: điện thoại và linh kiện đạt 50 tỉ USD,
chiếm 20,4% tổng giá trị; công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp ước tính 90,2 tỉ USD, chiếm 36,9%...
c. Tạo thêm công ăn việc làm
Đầu tư nước ngoài góp phần chủ yếu đẩy nhanh quá trình
hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế
trọng điểm, ngành công nghiệp mũi nhọn ở Việt Nam mở ra cơ
hội việc làm cho người lao động. Trong nhiều năm qua, các
doanh nghiệp FDI thu hút khoảng 3,6 triệu lao động làm việc
trực tiếp và 5-6 triệu lao động trong các khâu gián tiếp khác.

Theo kết quả Tổng điều tra lao động việc làm năm 2017 của
Tổng cục Thống kê (TCTK) thuộc Bộ KH&ĐT, nếu năm 1995 cả
7


nước mới có khoảng 330 nghìn lao động làm việc trong doanh
nghiệp (DN) FDI, thì năm 2007 đã tăng lên khoảng 1,5 triệu
người và đến cuối năm 2017 tăng lên gần 4 triệu lao động
(chiếm 26% tổng số lao động khu vực DN). Mặc dù không tạo ra
nhiều việc làm so với khu vực trong nước (chỉ chiếm khoảng 5%
tổng lao động đang làm việc), nhưng tốc độ tăng của lao động
khu vực FDI khá cao, đạt bình quân 7,6%/năm giai đoạn 2005 2017, cao gấp gần 4 lần tăng trưởng lao động của nền kinh
tế. Không chỉ đem lại số lượng việc làm tương đối lớn, có mặt
của các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng nâng cao
trình độ, kỹ năng của người lao động, khi họ được tiếp cận công
nghệ, trình độ quản lý tiên tiến như trong các nhà máy của
Samsung, Canon.
d. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy nền kinh
tế Việt Nam tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng có lợi, tăng thu Ngân sách. Đầu tư nước ngoài đã và đang
tạo ra những ngành và sản phẩm mới có kỹ thuật, công nghệ
cao, chất lượng cạnh tranh, hình thành những ngành công
nghiệp chủ lực như: viễn thông, dầu khí, điện tử, hóa chất,
thép, ô tô – xe máy, công nghệ thông tin, da giày, dệt may, chế
biến nông sản thực phẩm… FDI của Nhật Bản, Hàn Quốc đã
hình thành nên khu vực sản xuất chế biến, chế tạo của Việt
Nam với những tên tuổi như Honda, Toyota, Samsung...Các nhà
đầu tư Singapore thì hoạt động nhiều trong lĩnh vực bất động
sản, khu công nghiệp, giúp Việt Nam tạo dựng nên môi trường

và kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho phát triển công nghiệp. Vốn FDI
của Singapore, Đài Loan… còn “chảy” vào các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Việt Nam, góp phần phát triển công nghiệp chế
biến, chế tạo. Bên cạnh đó, FDI đã thu hút được nhiều tập đoàn
hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vận tải và điều hành khai thác
cảng biển đến Việt Nam như: Hutchison, PSA, DP World, SSA,
Maersk A/S, CMA-CGM... Thực tế cho thấy, nhờ các dự án FDI,
nhiều địa phương như Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Thanh
Hóa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai... đã “thay da đổi
thịt”, chuyển đổi nhanh chóng về cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa và có bước phát triển vượt bậc.

8


e. Khai tác hiệu quả tiềm năng tự nhiên sẵn có
Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc biến
những tiềm năng về đất đai, rừng biển Việt Nam trở thành hiện
thực. Các dự án thăm dò và khai thác dầu khí được triển khai
trên cùng biển và thềm lục địa Việt Nam trong những năm qua
đã biến tiềm năng dầu khí thành sản phẩm xuất khẩu dầu thô,
biến dầu thô từ số không thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị
lớn nhất của Việt Nam hiện nay.
f. Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế
FDI không để lại gáng nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài
khác như vay nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài...
Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp
điều hành sản xuất kinh doanh, hoàn toàn chịu trách nhiệm về
kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những điều kiện

ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như của ODA. Mặt
khác, FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà còn kèm theo đó là
công nghệ kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo
ra những sản phẩm mới môi trường mới cho nước được nhận
vốn. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi cho nước ta tiếp cận
và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu,
thích nghi nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới…
FDI có vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế
thế giới.
4.2.

Hạn chế của việc hút vốn FDI

Bên cạnh những mặt tích cực, FDI cũng có thể gây ra
những bất lợi cho nước tiếp nhận
a. Sự phụ thuộc về kinh tế của nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện chủ yếu
thông qua các công ty xuyên quốc gia. Điều này làm nảy sinh
nỗi lo rằng các công ty của nước nhận đầu tư sẽ tăng sự phụ
thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa vào các
công ty xuyên quốc gia. Không chỉ có phụ thuộc vào nước góp
vốn đầu tư, FDI còn phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Bên
cạnh lúc ta đang cần vốn thì sau một cơn khủng hoảng thì FDI
lại có xu hướng giảm đồng thời quy mô bình quân một dự án
9


cũng giảm hơn so với thời gian trước. Lấy ví dụ trong năm 2008
FDI vào Việt Nam là 64 tỷ USD nhưng đến năm 2009 lại chỉ còn

21,48 tỷ USD
b. Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều
Các nguồn vốn này thường mới đầu được dành cho các dự
án thuộc loại “gia công”, trong ngành công nghiệp, công nghiệp
nặng chiếm tỷ trọng lớn đặc biệt là công nghiệp nặng và chế
tạo. Không tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các ngành các
lĩnh vực làm cho nền kinh tế phát triển mất cân đối và vững
chắc đồng thời tạo phân biệt vùng miền càng trở nên rõ rệt.
Hơn thế, chi phí sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng là điểm
đáng lo ngại. Để thu hút vốn FDI, các nước nhận đầu tư phải áp
dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như giảm thuế hoặc
miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài hoặc việc phải giảm tiền cho họ thuê
mua nhà xưởng hay sử dụng các dịch vụ trong nước với chi phí
thấp. Ngoài ra, các nhà đầu tư thường tính giá nguyên liệu đầu
vào cao dẫn đến chi phí sản xuất của nước chủ nhà tăng cao,
giảm lợi thế cạnh tranh.
c. Mất đi nhiều việc làm truyền thống và chưa
coi trọng đào tạo người lao động
Hoạt động của các dự án có FDI cũng làm mất đi nhiều
việc làm truyền thống của dân cư vùng bị thu hồi đất và tạo
thêm áp lực xã hội cho nhiều địa phương có liên quan; Đặc biệt,
thu hút lao động của các doanh nghiệp FDI còn thiên về khai
thác nguồn lao động có giá nhân công rẻ, ít đào tạo, thậm chí
dùng cơ chế thử việc để liên tục thay lao động. Nhiều doanh
nghiệp có tỷ lệ lao động nữ rất cao, nhưng giá nhân công thấp
và có thể gây các bệnh nghề nghiệp (như lệch mắt khi chịu
trách kiểm tra chất lượng lắp điện tử tự động của nhà máy sản
xuất máy tính và linh kiện điện tử).
d. Ảnh hưởng về mặt chính trị - xã hội

Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có
mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài gây ra một số ảnh
hưởng bất lợi về kinh tế- xã hội như làm tăng chênh lệch về thu
nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân,
10


tăng mức độ chênh lệch phát triển giữa các vùng. Sự mất cân
đối này có thể gây ra mất ổn định về chính trị cũng như xã hội.
Hơn thế, trong một số các nhà đầu tư không phải không có
trường hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông
qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”.
e. Không ít doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi
trường tự nhiên và khai thác lãng phí tài
nguyên thiên nhiên
Trong quá trình kinh doanh ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp
FDI đã chú trọng khai thác nhiều tài nguyên tự nhiên (nhất là tài
nguyên không tái tạo như khai thác mỏ khoáng sản), gây tàn
phá môi trường tự nhiên. Thực tế đã cho thấy khi thực hiện các
dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn
bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng, hoặc
nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý, gây ra thiệt hại to lớn cho
nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư khi họ chưa có những
biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường đủ hữu hiệu.

11


Phần 2.


FDI và vấn đề môi trường ở Việt Nam

I. Thực trạng đầu tư FDI tới môi trường tại Việt Nam
1. Tích cực
FDI có tác động tích cực tới môi trường thông qua việc ra
đời những sản phẩm mới tiết kiệm năng lượng, giảm bớt sự phụ
thuộc vào những nguyên liệu hoặc nguồn năng lượng truyền
thống và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
hoặc các kinh nghiệm tốt về bảo vệ môi trường . Ngoài ra, sự có
mặt của các công ty đa quốc gia cũng có tác động lan tỏa đối
với các công ty trong nước thông qua việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến, kỹ năng chuyên môn và những yêu cầu áp dụng
tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt.
Hiện nay, FDI cùng với việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường
đang là một xu hướng đầu tư tất yếu đồng thời các quốc gia
nhận đầu tư ngày càng chú trọng đến việc tăng cường các chính
sách bảo vệ môi trường,vì vậy khi một nước nhận được các dự
án đầu tư FDI sạch sẽ có cơ hội đón nhận các công nghệ xử
lí,thân thiện với môi trường hiện đại .Vừa tăng được các lợi ích
về kinh tế,vừa đảm bảo môi trường.
Nhìn chung, FDI sẽ góp phần giúp tăng trưởng kinh tế tại
nước nhận đầu tư.Những lợi ích kinh tế này sẽ được sử dụng
một phần giúp giải quyết các vấn đề về môi trường theo các
phương cách khác nhau.
VD: Chile chỉ chiếm 0,5% đất rừng trên toàn thế giới và
1,9% ở Mỹ Latinh, đây là đất nước sản xuất bột giấy quan trọng
thứ hai trong khu vực sau Brazil. Ngành lâm nghiệp Chile bao
gồm khai thác gỗ, sản xuất các sản phẩm gỗ và bột giấy và
giấy.Các dòng vốn FDI đầu tư vào ngành lâm nghiệp vào Chile


12


đã làm có tác động tích cực,làmtăng diện tích rừng trồng của
quốc gia này.
Diện tích rừng trồng tăng 154,4% giữa năm 1979 và 1997
(từ 739,6 đến 1,881.9 nghìn ha). Từ năm 1997 đến năm 2005,
tổng diện tích rừng trồng tăng dưới 10%, đến 2,078.6 nghìn ha.
Ở Chile, rừng bản địa đóng góp giá trị gia tăng của ngành lâm
nghiệp là ít hơn là rừng trồng. Hiện nay, chỉ có 2,9% nguyên liệu
có nguồn gốc từ khu rừng nguyên sinh (trái ngược với những
năm 1960, khi họ là nguồn gốc của nguyên liệu chủ yếu lấy từ
các khu rừng nguyên sinh).
2. Tiêu cực
Nhiều doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm các quy
định về bảo vệ môi trường khi đầu tư sản xuất, kinh doanh vào
Việt Nam. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế
Trung ương: có khoảng 67% doanh nghiệp FDI thuộc ngành sản
xuất có giá trị gia tăng thấp, ngày càng có nhiều doanh nghiệp
FDI gây ô nhiễm mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Báo cáo của Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tại hội thảo: “Giảm thiểu
các tác động môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam” tháng 3/2016: kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI
năm 2011, có 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản
xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ không thực
hiện quy trình giảm phát thải nếu như đó không phải là yêu cầu
bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí cao… Trên
thực tế, nhiều khu công nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa
triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có
nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc

xuống cấp; hiện chỉ có khoảng 66% trong số 289 khu công
nghiệp trên cả nước có trạm xử lý nước thải tập trung. Đặc biệt,
13


tại Đồng bằng Sông Cửu Long có 75% khu và 85% cụm công
nghiệp chưa có xử lý nước thải tập trung.
Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam về cơ bản có
trình độ công nghệ sản xuất trung bình, tiêu tốn nhiều tài
nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn. Tính đến năm 2015,
dòng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đến từ các nước phát triển,
có nền khoa học công nghệ hiện đại như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ,
Mỹ, Canada, Nga… còn khá khiêm tốn mà chủ yếu đến từ châu
Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc…
Ngoại trừ các đối tác đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, còn lại về cơ
bản có trình độ công nghệ trung bình, hàm lượng công nghệ cao
còn rất ít, hiệu quả thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên
thiên nhiên, ít công nghệ nguồn; nguồn vốn FDI chỉ tập trung ở
ngành chế biến, chế tạo, dịch vụ, sử dụng nhiều lao động, vốn
lớn nhưng mức độ lan toả công nghệ thấp. Theo điều tra của
Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, tính đến năm
2013, chỉ 5% doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam có công
nghệ cao, 80% có công nghệ trung bình, còn lại 14% là sử dụng
công nghệ thấp, thậm chí có dây chuyền công nghệ xuất hiện
từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX; từ năm 2011-2015, dòng
vốn FDI tập trung nhiều nhất là lĩnh vực: dệt may, hóa chất,
điện tử, giấy, gang thép – tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường. Trong khi đó, từ năm 1988-2013 lĩnh vực cấp nước,
xử lý nước thải chỉ có 28/16.000 dự án FDI, bằng 0,2% và chiếm
0,36% tổng vốn đăng ký (710 triệu USD).

Một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự cố môi trường
nghiêm trọng, làm biến đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong
dư luận nhân dân. Người ta đã đề cập rất nhiều về FDI “chưa
14


sạch” tại Việt Nam liên quan đến vấn đề xử lý nước thải, các
khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc
sống, nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo
trộn, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên
nước, thuỷ sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực
sông… Điểm lại hoạt động của nguồn vốn FDI trong thời gian
qua cho thấy một số điểm đen như sự việc Công ty Vedan phá
hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển
hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.
Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc trốn nộp
phí môi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho là một cách
tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những
quy chuẩn về môi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan chức
năng của Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đó là
Miwon – sản xuất bột ngọt tại Việt Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới
900 m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng. Và gần đây nhất,
đường ống xả thải của Công ty Formosa Hà Tĩnh thuộc Tập đoàn
Formosa (Đài Loan) với công suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm
chứa độc tố phê-non, xy-a-nua,… kết hợp hy-đrô-xít sắt, tạo
thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho phép
đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh
Bắc miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiệt hại to

lớn về kinh tế – xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời
sống, tư tưởng của nhân dân, gây bức xúc dư luận và nhận được
sự quan tâm lớn của tất cả người dân. Tuy nhiên, không chỉ có
Vedan, Miwon, Formosa mà ngày càng có thêm nhiều doanh
nghiệp bị phát hiện đang ngấm ngầm phá hủy môi trường. Nơi

15


nào tập trung càng nhiều khu công nghiệp thì nơi đó môi trường
càng bị ô nhiễm nặng.
II. Nguyên nhân
Cơ chế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bằng mọi
giá, đánh đổi với chi phí cơ hội về môi trường.
Khu vực FDI hiện đóng vai trò đầu tàu xuất khẩu của Việt
Nam. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 71% xuất
khẩu và 59% nhập khẩu của Việt Nam. FDI có chiều hướng dịch
chuyển dòng vốn vào các ngành tiêu tốn năng lượng và tài
nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường như luyện
kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu
khoáng sản không gắn với chế biến sâu, sản xuất bột giấy, sản
xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm…
Bên cạnh đó, Việt Nam có xu hướng nới lỏng các tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường nhằm cạnh tranh với các nước khác
trong quá trình thu hút nguồn vốn này. Chính vì vậy, FDI đã gây
nên những tác hại rất lớn đối với môi trường, ví dụ: xả thải của
công ty Vedan, Miwon, sự cố biển do Formosa gây ra tại 4 tỉnh
miền Trung, khói bụi ô nhiễm của nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân
2, nhà máy giấy gây ô nhiễm ở Hậu Giang... Đặc biệt là tình
hình “xuất khẩu” ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước

đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước
đang phát triển có nguy cơ trở thành những nước có mức “nhập
khẩu” ô nhiễm cao, nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt
Nam… Hiện nay vấn đề xử lý nước thải tại Việt Nam chưa được
chú trọng, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài chưa quan tâm
đúng mức đến hệ thống xử lý chất thải. Các chương trình giám
sát, xử phạt vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện trong
khi ngày càng có nhiều dự án khai thác tài nguyên, vận chuyển
dầu với hiểm họa tràn dầu có nguy cơ gia tăng trong các năm
tới. Nhiều dự án nước ngoài đã gây ô nhiễm môi trường do công
nghệ lạc hậu, chạy theo lợi nhuận, tiết kiệm chi phí…không tính
đến khâu xử lý nước thải đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng. Dẫn báo cáo của Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2011, TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh - Phó Viện trưởng CIEM
thông tin, kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI cho thấy, có
16


đến 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản xuất ít phát
thải, 18% doanh nghiệp áp dụng các biện pháp giảm phát thải
cũng thấp. Khoảng 69% doanh nghiệp không thực hiện quy
trình giảm phát thải nếu như đó không phải là yêu cầu bắt buộc,
57,5% cho rằng không đầu tư vì chi phí cao. Trên thực tế, nhiều
khu công nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây
dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng không vận
hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp… Đặc biệt,
tại Đồng bằng Sông Cửu Long có 75% khu và 85% cụm công
nghiệp chưa có xử lý nước thải tập trung.
Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng những hạn
chế của Việt Nam về các quy chuẩn kỹ thuật để tuồn những

công nghệ lạc hậu, thâm dụng tài nguyên, thâm dụng năng
lượng và lao động nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Nguy cơ ảnh
hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thuỷ sản, khí
hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông, gây tàn phá môi
trường tự nhiên chú trọng đến việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo được như khoáng
sản, khai thác mỏ…Các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích
rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các động vật hoang
dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy.
III. Giải pháp
1. Thay đổi cơ chế chạy theo tăng trưởng GDP
Các chuyên gia cho rằng để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường khi thu hút đầu tư, cần thay đổi cách chạy theo tăng
trưởng GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) bằng một hệ thống tiêu
chí dùng chỉ tiêu GNI (Tổng sản phẩm quốc dân) có tiêu chí xã
hội môi trường để tăng trưởng bền vững. Cụ thể, GNI = GDP +
lợi nhuận từ nước ngoài chuyển về – lợi nhuận FDI chuyển về
nước họ.
2. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật
Bên cạnh chính sách khuyến khích đầu tư, Việt Nam đã
đưa ra nhiều thể chế, cơ chế để bảo vệ môi trường tương đối
hoàn chỉnh và phù hợp với luật pháp quốc tế. Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 có quy định liên quan đến đánh giá tác động
môi trường khá phù hợp với quy định trong luật pháp của Liên
17


minh châu Âu (EU), cung cấp cơ chế chính cho việc đánh giá và
giảm thiểu tác động môi trường từ các hoạt động đầu tư trong
nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Tuy nhiên, năng lực thể chế của Việt Nam trong việc thực
hiện có hiệu quả các khía cạnh pháp luật về môi trường còn
nhiều hạn chế, đặc biệt là những quy định đã được giới thiệu
gần đây (ví dụ như đánh giá tác động môi trường và giám sát
sau đánh giá tác động môi trường). Vì vậy, yêu cầu trước mắt
và cấp bách là định lượng và giải quyết những thiếu hụt năng
lực thể chế của các tổ chức quản lý môi trường tại Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Dự án Hỗ trợ Chính sách Thương mại và
Đầu tư của Liên minh châu Âu (EU-MUTRAP) giúp Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) thực hiện hai công trình
nghiên cứu về “Khung chính sách nhằm giảm thiểu tác động
môi trường của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam” và “Tình hình thực hiện các quy định của pháp luật
về giảm thiểu tác động môi trường của các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” là một hướng mở đáng ghi
nhận.
Ngoài ra phải có chế tài và khung rõ ràng, chấm dứt ưu đãi
tài nguyên giá rẻ, tăng cường giám sát các doanh nghiệp FDI về
tuân thủ các tiêu chí bảo vệ môi trường khói bụi, nước thải,
tiếng ồn ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn công nghệ đến thi
công vận hành.
Các nghiên cứu tập trung vào việc xem xét khung khổ
pháp luật, chính sách nhằm giảm thiểu các tác động môi trường
của các doanh nghiệp và liên doanh FDI, cũng như tình hình
thực hiện các quy định về pháp luật môi trường của các doanh
nghiệp đó. Từ đó, xây dựng chính sách và đưa ra những kiến
nghị phù hợp trong thời gian tới nhằm hỗ trợ Việt Nam giảm
thiểu tác động môi trường từ các dự án FDI, qua đó góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU.
Bảo vệ tài nguyên – môi trường là việc quốc gia hệ trọng

mà theo xu thế hiện nay còn quan trọng hơn cả nhu cầu phát
triển kinh tế của một đất nước. Điều này giải thích tại sao hiện
nay các quốc gia tiên tiến luôn cân nhắc hướng phát triển đất
18


nước phải ưu tiên xem xét đến các yếu tố về bảo vệ nguồn tài
nguyên khoáng sản có hạn, cũng như ảnh hưởng của việc khai
thác đối với môi trường tự nhiên – xã hội và văn hóa khu vực,
bởi nếu không sẽ có thể gây nên những ảnh hưởng xấu chưa
lường hết được cho các thế hệ tương lai. Bảo vệ môi trường vì
thế cũng phải được xếp vào loại chính sách quốc gia ưu tiên
hàng đầu.
Cũng đã có nhiều góp ý từ các chuyên gia cho rằng để
ngăn chặn bớt những hậu quả ô nhiễm môi trường có thể phát
sinh thêm trong tương lai do một số dự án đã được ký duyệt,
sắp sửa tiến hành hoặc thậm chí đã tiến hành mà chưa thẩm
định kỹ, Chính phủ nên thiết lập một định chế đặc biệt tạm gọi
là “Ủy ban Môi trường Quốc gia”, để tái thẩm định tính khả thi
của những dự án này, về phương diện môi trường, với sự tham
gia của các nhà khoa học có thực tài trong nước cùng sự tư vấn
hỗ trợ của các chuyên gia quốc tế.
3. Nói không với những dự án FDI có tác động xấu
đến môi trường
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong
sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, thể hiện ở việc chiếm tỷ
trọng lớn trong xuất khẩu, tạo ra nhiều việc làm, góp phần
chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhưng để phát triển bền vững thì cần phải
biết nói không với những dự án FDI có tác động xấu đến môi

trường. Việc thu hút đầu tư nước ngoài phải giảm thiểu tác động
tới môi trường.
Việc nói “không” với các dự án có nguy cơ ô nhiễm thực sự
là tín hiệu tốt cho định hướng phát triển của nền kinh tế. Các
địa phương đã tỉnh táo hơn trong việc lựa chọn dự án FDI. Các
dự án sử dụng nhiều lao động nhưng gây ô nhiễm môi trường
đều bị các địa phương cân nhắc từ chối.
Đơn cử, gần đây có địa phương đã từ chối 2 dự án FDI lớn,
trong đó có dự án dệt nhuộm lên tới 300 triệu USD, bởi vẫn còn
nhiều quan ngại mà DN chưa trả lời được, đặc biệt về vấn đề
ảnh hưởng môi trường. Hai dự án hàng trăm triệu USD mà địa
phương đó từ chối thể hiện quan điểm rất rõ ràng trong lựa
19


chọn nhà đầu tư, dự án đầu tư chất lượng, mà các địa phương
đang hướng tới.
FDI vẫn sẽ là động lực quan trọng của nền kinh tế Việt
Nam trong trung và dài hạn, ít nhất là cho tới khi đất nước dư
thừa tích lũy và đạt tới tầm phát triển khoa học công nghệ ở
mức tiệm cận các nước tiên tiến trên thế giới.

20


KẾT LUẬN
Cho đến nay, không thể phủ nhận những đóng góp tích cực
mà khu vực FDI mang lại cho nền kinh tế của Việt Nam sau 30
năm thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa thu hút đầu tư nước
ngoài. FDI đã mang đến một phương thức đầu tư kinh doanh

mới, có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của
nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước; thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động; góp phần quan trọng đưa
Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, mở
rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò tích cực từ khu vực
FDI thì nhiều dự án FDI cũng có tác động tiêu cực đến môi
trường sinh thái, một số dự án đã và đang gây ra những sự cố
môi trường nghiêm trọng.
Chính vì thế, chúng ta cần phải tích cực phát huy các tác
động tích cực, đồng thời hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
FDI đến môi trường bằng cách rà soát và ban hành đồng bộ các
văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, tăng
cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường đối với khu vực FDI, cấp phép đầu tư hướng vào các dự
án FDI “sạch”. Nên ưu tiên chọn những doanh nghiệp FDI từ
những nước phát triển có các chuẩn môi trường cao, nơi có qui
định chặt chẽ về công tác môi trường, tăng cường học hỏi kinh
nghiệm từ các nước phát triển trong thu hút FDI sạch gắn với
bảo vệ môi trường.
FDI là cần thiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở Việt
Nam, nhưng không vì thế mà chúng ta trở nên dễ dãi, hạ thấp
yêu cầu, tiêu chuẩn trong cấp phép các dự án FDI. Chính phủ và
chính quyền các địa phương phải biết dựa trên lợi ích căn bản
lâu dài của đất nước, lựa chọn đối tác, dự án phù hợp với quy
hoạch chung của quốc gia, của địa phương, của ngành nghề
lĩnh vực nhận đầu tư; phù hợp với định hướng phát triển bền
vững của Việt Nam, không đánh đổi môi trường sinh thái để thu
hút đầu tư FDI bằng mọi giá.


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.
6.

Wikipedia, Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Báo Dân Kinh Tế, Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nguyễn Thị Mai Hương, “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào ngành nông nghiệp Việt Nam: Thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ lâm nghiệp,
số 3, trang 148-157, 2017.
Chu Tiến Quang, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá
trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020”,
().
Top 10 quốc gia có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
nhiều nhất ở Việt Nam, ().
Tổng cục Thống kê, (gso.gov.vn).

22




×