Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II mô hình kinh tế chia sẻ tại việt nam và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế chia sẻ theo định hướng xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.89 KB, 28 trang )

2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ
VÀ KINH TẾ XANH
1.1 Kinh tế chia sẻ
1.1.1 Khái niệm kinh tế chia sẻ
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế chia sẻ, hay nói một cách
khác là không có một định nghĩa chung cho tất cả mọi trường hợp hay mọi quốc gia. Mức
độ rộng hẹp của các định nghĩa cũng khác nhau, cũng như các định nghĩa có thể xuất phát
từ các góc nhìn khác nhau. Kinh tế chia sẻ (sharing economy) còn được gọi theo nhiều tên
khác nhau như kinh tế cộng tác (collaborative economy), kinh tế theo cầu (on-demand
economy), kinh tế nền tảng (platform economy), kinh tế truy cập (access economy), kinh tế
dựa trên các ứng dụng di động (app economy),… (theo Cristiano Codagnone and Bertin
Martens, 2016). Ranh giới giữa các khái niệm có sự đồng nhất ở một số khía cạnh, tuy
nhiên nhìn chung, tất cả các tên gọi khác của mô hình kinh tế chia sẻ đều có bản chất là:
“một mô hình kinh doanh mới của kinh doanh ngang hàng, tận dụng lợi thế của phát
triển công nghệ số giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách
hàng thông qua các nền tảng số”. Đây là hệ thống kinh tế đề cao chia sẻ và hợp tác hơn tư
hữu. Con người thay vì sở hữu để thỏa mãn nhu cầu của mình thì sẽ tìm những nguồn lực
trong cộng đồng. Nền kinh tế chia sẻ đang phát triển vì nó tái phân phối tài nguyên đang
không được sử dụng hiệu quả (sản phẩm mua rồi nhưng không dùng, máy móc không được
khai thác tối đa thời gian sử dụng) sang chỗ mà nó được dùng hiệu quả hơn. Việc tái phân
phối này thực sự cần thiết để tiết kiệm tiền của người dùng và tài nguyên của xã hội.
1.1.2 Lịch sử ra đời của nền kinh tế chia sẻ
Nền kinh tế chia sẻ được bắt đầu manh nha khái niệm năm 1995, khởi điểm tại Mỹ
với mô hình ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng không rõ rệt. Nó khởi đầu
bằng dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc tìm người,… và
giúp cho những cá nhân có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền quảng cáo.
Mô hình kinh doanh này thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào
khủng hoảng năm 2008, người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với bối
cảnh khó khăn.


Việc “chia sẻ” những tài nguyên sẵn có bằng các ứng dụng công nghệ cùng những
khoản lợi nhuận khổng lồ đem lại cho nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho thuê và sử dụng


3
tài nguyên, đã khiến mô hình kinh doanh này nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới
Mỹ, lan rộng khắp châu Âu và toàn thế giới.
Trên thực tế, mô hình chia sẻ đã có từ rất lâu: thư viện, thuê xe, câu lạc bộ, phòng
luyện tập, xe ôm, chia sẻ trong làng xã, thị trấn. Tuy nhiên từ giữa thế kỉ 20, việc chia sẻ
trở nên đắt đỏ và rắc rối hơn việc sở hữu, do sự bùng nổ của sản xuất hàng loạt (cách mạng
công nghiệp). Từ đó xuất hiện chủ nghĩa tiêu dùng: xây dựng trên ý tưởng tin rằng việc tiêu
dùng sẽ giúp người dân thấy hạnh phúc, việc tiêu dùng giúp nền kinh tế phát triển mạnh
hơn. Giờ thì xu hướng lại đảo ngược trở lại do việc chia sẻ dần trở nên rẻ hơn.
Nền kinh tế chia sẻ thuộc một xu hướng lớn hơn bắt đầu từ thời Internet: xu hướng
đảo ngược chủ nghĩa tiêu dùng. Khi Internet được lan rộng, các trang như eBay và
Craigslist giúp kết nối những người có và những người cần một cách hiệu quả hơn. Chia sẻ
và tái phân phối tài nguyên bắt đầu rẻ đi so với mua đồ mới và vứt đồ cũ đi. Mọi người
không chỉ là người mua mà còn có thể bán thông qua thương mại ngang hàng, giúp những
thứ được lãng phí do không dùng đến được tận dụng thông qua nền tảng công nghệ. Thông
qua nền tảng này con người bắt đầu thay đổi quan hệ với những thứ mình tư hữu, họ nhận
ra những thứ có thể được truy cập mà không cần sở hữu, thứ đắt đỏ trong việc duy trì, thứ
không thực sự cần thiết, thứ không được dùng thường xuyên,… đều nên thuê chứ không
nên mua. Điều này thay đổi tâm lý “tư hữu”. Những công ty Product Service bắt đầu phát
triển mô hình tính phí theo sử dụng, thay vì theo sở hữu (ZipCar) từ 10 năm về trước. Bây
giờ có hàng trăm công ty chia sẻ tài sản: Airbnb, RelayRides, DogVacay, LiquidSpace,…
Các công ty này sử dụng công nghệ điện thoại, GPS, 3G, thanh toán Online khiến cho mô
hình nền kinh tế chia sẻ hoạt động với hiệu suất cao, tiết kiệm chi phí, tăng lợi ích cho
người cung ứng, người có nhu cầu và người trung gian. Đồng thời việc tiết kiệm vốn của
công ty (không phải mua ô tô, xây khách sạn) mà sử dụng vốn cộng đồng (xe ô tô của
người tham gia, nhà ở của người tham gia) giúp các công ty có thể lan nhanh ra toàn thế

giới.
Tóm lại, nền kinh tế chia sẻ là một biểu hiện của việc áp dụng công nghệ nhằm giảm
sự lãng phí trong tiêu dùng, hướng tới cộng đồng, thành phố thông minh – tài nguyên được
dùng một cách hiệu quả.


4
Hình 1. So sánh tăng trưởng của mô hình kinh tế chia sẻ và truyền thống

1.1.3 Các loại hình kinh tế chia sẻ
Theo phương pháp phân loại dựa theo hình thức người sở hữu tài sản và người quyết
định giá của Judith Wallenstein và Urvesh Shelat (2017), mô hình kinh tế chia sẻ được chia
ra làm ba loại chính: Mô hình nền tảng tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng vừa sở hữu tài
sản, vừa quyết định giá thành dịch vụ), mô hình nền tảng phi tập trung (đơn vị cung cấp
nền tảng chỉ tạo ra môi trường kết nối, người cung cấp dịch vụ là người sở hữu tài sản và
cũng là người quyết định giá thành dịch vụ), mô hình nền tảng hỗn hợp (chủ tài sản cung
cấp dịch vụ với giá do nền tảng đưa ra và nền tảng cũng đóng một phần vai trò trong việc
đảm bảo chất lượng sản phẩm được cung ứng ra ngoài thị trường).


5
1.2 Kinh tế xanh
1.2.1 Khái niệm kinh tế xanh
Có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế xanh. Liên minh châu Âu (2010) cho rằng
“Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng thông minh, bền vững và công bằng”. Nhóm Liên
minh kinh tế xanh (2012) định nghĩa kinh tế xanh là “nền kinh tế tạo ra chất lượng cuộc
sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong giới hạn sinh thái của trái đất”. Phòng Thương mại
quốc tế (2012) xem xét kinh tế xanh từ góc độ kinh doanh và cho rằng “Kinh tế xanh là nền
kinh tế mà tăng trưởng kinh tế và trách nghiệm môi trường đi đôi với nhau và tương hỗ cho
nhau, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội”. Báo cáo của Vụ Liên hiệp quốc tế

(2012) về các vấn đề kinh tế và xã hội tổng hợp các định nghĩa của nhiều quốc gia và chỉ ra
điểm chung là một nền kinh tế xanh cần hướng tới việc giảm các tác động tiêu cực của hoạt
động kinh tế tới môi trường và xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay, định nghĩa của UNEP (2011) được coi là định nghĩa chính
xác và đầy đủ nhất về kinh tế xanh. Cụ thể, kinh tế xanh là “nền kinh tế vừa mang lại
hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về
môi trường và suy giảm sinh thái. Đó là nền kinh tế ít phát thải cacbon, sử dụng hiệu
quả tài nguyên và đảm bảo công bằng xã hội”. Theo đó, UNEP khẳng định rằng xây dựng
nền kinh tế xanh không mâu thuẫn với phát triển kinh tế, ngược lại, nó có thể tạo ra động
lực cho phát triển kinh tế, tạo ra các việc làm mới, phù hợp hơn với bối cảnh mới. Xây
dựng nền kinh tế xanh là con đường để hướng tới phát triển bền vững một cách kinh tế
nhất. Trên con đường đó, kinh tế, xã hội, sinh thái và công nghệ được kết hợp với nhau và
phải được quản lý bởi một hệ thống quản trị tốt. Đặc biệt cần lưu ý, xanh hóa nền kinh tế
không chỉ là xanh hóa các ngành của nền kinh tế, mà quan trọng là phải đảm bảo 4 yếu tố
sau đây:
Thứ nhất, nâng cao sự thịnh vượng của con người bằng cách đảm bảo dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, giáo dục và nghề nghiệp tốt hơn.
Thứ hai, tăng cường bình đẳng xã hội thông qua việc chấm dứt nghèo đói dai dẳng và
đảm bảo công bằng kinh tế, tài chính và xã hội.
Thứ ba, giảm các rủi ro môi trường thông qua việc giải quyết các vấn đề về biến đổi
khí hậu, axit hóa đại dương, phát thải các chất ô nhiễm và hóa chất nguy hại, cũng như việc
gia tăng chất thải và quản lý không tốt chất thải;


6
Thứ tư, giảm suy giảm sinh thái bằng việc quản lý chặt hơn các nguồn nước sạch và
các tài nguyên thiên nhiên.
1.2.2 Tác động của kinh tế xanh
a. Kinh tế xanh góp phần xóa đói giảm nghèo
Hướng tới nền kinh tế xanh được coi là một trong những phương thức nhằm xóa đói

giảm nghèo và cải thiện tổng thể chất lượng cuộc sống. Theo Trương Quang Học và Hoàng
Văn Thắng của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (2014), trong một kịch
bản đầu tư xanh, 2% GDP toàn cầu được phân bổ để “làm xanh” các lĩnh vực năng lượng,
giao thông, xây dựng, chất thải, nông nghiệp, thủy sản, nước và rừng. Kinh tế xanh sẽ cung
cấp các nguồn năng lượng có khả năng hỗ trợ cho 1,4 tỷ người hiện đang thiếu điện và cho
hơn 700 triệu người khác đang không được tiếp cận với các dịch vụ năng lượng hiện đại.
Công nghệ năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các chính sách
hỗ trợ năng lượng hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể việc cải thiện đời sống và sức khỏe cho
một bộ phận người dân có thu nhập thấp, đặc biệt là cho những người hiện đang không có
khả năng tiếp cận với năng lượng. Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về phát triển
bền vững, Rio+20 năm 2012, đã nhất trí thông qua một văn kiện quan trọng có tựa đề
“Tương lai mà chúng ta mong muốn” và quyết định dành 323 tỷ USD cho sáng kiến của
Tổng Thư ký Ban Ki-Moon mang tên “Năng lượng bền vững cho tất cả” với mục đích đảm
bảo cho hơn 1,3 tỷ người tại các nước nghèo được tiếp cận năng lượng sạch và hiệu quả
vào năm 2030.
b. Kinh tế xanh giảm nhẹ biến đổi khí hậu
Theo tính toán của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc
gia Hà Nội (2014), chỉ cần đầu tư khoảng 1,25% GDP toàn cầu vào việc nâng cao hiệu quả
sử dụng năng lượng trong các ngành và phát triển năng lượng tái tạo, bao gồm cả nhiên
liệu sinh học thế hệ hai, mức độ tiêu thụ năng lượng trên toàn thế giới có thể giảm đi 36%
vào năm 2030 và lượng khí CO2 thải ra hàng năm sẽ giảm từ 30,6 tỷ tấn năm 2010 xuống
20 tỷ tấn năm 2050. Thêm vào đó, nhờ vào nông nghiệp xanh, kịch bản kinh tế xanh ước
tính có thể giảm nồng độ khí nhà kính xuống 450ppm vào năm 2050, một mức độ được
o

cho là hợp lý và đủ để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 2 C.
c. Kinh tế xanh duy trì và tăng cường vốn tự nhiên


7

Theo UNESCO (2011), các khoản đầu tư xanh trong các lĩnh vực lâm nghiệp và
nông nghiệp sẽ giúp đảo ngược xu thế suy giảm đất lâm nghiệp hiện nay, tái tạo khoảng 4,5
tỷ ha nguồn tài nguyên quan trọng này trong vòng 40 năm tới. Đầu tư vào nông nghiệp
xanh vừa nâng cao năng suất, sản xuất ra nhiều lương thực hơn vừa giúp giảm lượng đất sử
dụng cho nông nghiệp và chăn nuôi 6% và cải thiện chất lượng đất nông nghiệp lên 25%
vào năm 2050. Ngoài ra, đầu tư để tăng nguồn cung cấp nước, mở rộng khả năng tiếp cận,
cũng như cải thiện quản lý sẽ cung cấp thêm 10% nguồn cung nước toàn cầu cả trước mắt
và lâu dài, thêm vào đó có thể góp phần duy trì nguồn tài nguyên nước ngầm và nước mặt.
d. Kinh tế xanh có thể tạo ra việc làm
Nền kinh tế xanh có khả năng tạo ra việc làm trong một loạt các lĩnh vực mới nổi và
nhiều tiềm năng, chẳng hạn như nông nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông công
cộng, cải tạo các khu công nghiệp, tái chế...Một công việc tốt được hiểu là công việc có
năng suất lao động cao, cùng với hiệu quả về cải thiện môi trường sinh thái và ổn định
lượng khí thải ra ở mức thấp, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng và bảo vệ môi
trường - khí hậu. Đã có rất nhiều những việc làm xanh như vậy được tạo ra, đặc biệt là
trong ngành năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, để đảm bảo một quá trình chuyển đổi nhịp
nhàng sang nền kinh tế xanh, cần thiết phải có nỗ lực phối hợp trong việc tạo ra việc làm.
Các chính sách về xã hội sẽ cần phải được phát triển cùng với các chính sách về môi
trường và kinh tế. Để đảm bảo một quá trình chuyển đổi nhịp nhàng, nhà nước cần tập
trung vào các vấn đề quan trọng, như đầu tư vào những kỹ năng mới, không thể thiếu cho
một nền kinh tế toàn cầu, cacbon thấp; hay nghiên cứu các chính sách cần thiết để điều
chỉnh việc làm trong các lĩnh vực chủ chốt như năng lượng và giao thông vận tải.
e. Kinh tế Xanh bảo vệ sự đa dạng sinh học
Suy giảm đa dạng sinh học làm giảm phúc lợi của một bộ phận dân số thế giới, trong
khi một bộ phận dân số khác gặp phải những vấn đề trầm trọng hơn vì đói nghèo. Nếu tình
trạng này tiếp tục, nó có thể gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của các hệ sinh thái điều hoà
khí hậu trong dài hạn và có thể dẫn đến những biến đổi không thể lường trước và có thể
không đảo ngược trong hệ thống trái đất và những thay đổi trong các dịch vụ hệ sinh thái.
Hơn nữa, hệ sinh thái là nguồn cung chủ yếu các nguyên liệu phục vụ cho phát triển kinh
tế. Bởi những lý do này mà việc gìn giữ và bảo vệ các hệ sinh thái là trọng tâm của

Chương trình nghị sự Kinh tế Xanh. Ngoài ra, đầu tư xanh cũng nhằm giảm những hệ quả


8
tiêu cực do các yếu tố bên ngoài gây ra bởi việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ví
dụ, đầu tư vào bảo vệ rừng không những duy trì một loạt các ngành và sinh kế của con
người mà còn bảo tồn 80% các loài trên cạn. Bằng cách thúc đẩy đầu tư vào lâm nghiệp
xanh, Chương trình nghị sự Kinh tế Xanh sẽ góp phần ổn định đời sống kinh tế của hơn 1
tỷ người hiện đang sinh sống bằng các sản phẩm từ gỗ, giấy và chất xơ, với tổng thu nhập
chỉ chiếm 1% GDP toàn cầu.
1.2.3 Xu hướng phát triển kinh tế xanh trên thế giới
Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Kim Ngọc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(2015), phát triển kinh tế xanh đang trở thành một xu hướng trên thế giới, giúp các nước
đối phó với các cuộc khủng hoảng hiện tại và ngăn chặn nguy cơ xảy ra các khủng hoảng
trong tương lai, bao gồm:
- Xây dựng và củng cố các thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế xanh.
- Phát triển những công nghệ sạch, sản xuất tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải
carbon.
- Quan tâm đến các vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế xanh.


9

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA
SẺ TẠI VIỆT NAM
2.1 Một số mô hình kinh tế chia sẻ tiêu biểu tại Việt Nam
2.1.1 Mô hình Airbnb, Triip.me
Mô hình Airbnb chia sẻ nhà ở cho người đi du lịch, tận dụng nguồn tài nguyên đang
lãng phí là những căn phòng không dùng đến. Mô hình này kết nối người cần thuê nhà với

những gia đình có phòng trống cần cho thuê thông qua ứng dụng di động. Đây là loại hình
dịch vụ tương đối mới, hoạt động theo mô hình nền tảng phi tập trung, tất cả việc thanh
toán chỉ sử dụng thẻ tín dụng và thông qua Airbnb. Từ đây, nhà trung gian này sẽ thu một
khoản phí đối với cả người cần đặt phòng và chủ nhà. Khoản phí đối với chủ nhà ở mức
3% tổng giá trị đặt phòng, phí thu khách đặt phòng ở mức 6 - 12% và mức phí này sẽ hiển
thị luôn trong quá trình khách sử dụng dịch vụ. Mức phí này vẫn đảm bảo người trả thấp
hơn đặt phòng khách sạn qua các kênh truyền thống.
Hình 2: So sánh công suất phòng và giá phòng giữa Airbnb và khách sạn 4-5 sao ở Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh

(Nguồn: AirDNA)
Mặc dù Airbnb mới xuất hiện trên thị trường trong 10 năm trở lại đây, theo thống kê
nền tảng này đã ghi nhận 5 triệu lượt đăng ký cho thuê trên 191 quốc gia trong khi 10 đơn
vị quản lý khách sạn lớn nhất thế giới hiện đang quản lý xấp xỉ 6,1 triệu phòng. Dữ liệu từ
AirDNA (website theo dõi hiệu quả hoạt động của Airbnb) cho thấy tính tới tháng 8 năm


10
2018, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận 21.994 đăng ký cho thuê trên Airbnb
trong khi số phòng của các khách sạn 4-5 sao hiện hữu trên địa bàn chỉ là 17.426 phòng.
Tuy nhiên, giá cho thuê trung bình của Airbnb tại Việt Nam vẫn đang thấp hơn đáng kể so
với giá cho thuê của khách sạn 4-5 sao (36 USD với 106 USD tại Hà Nội, 44 USD với 108
USD tại thành phố Hồ Chí Minh).
Điều đáng nói là những căn phòng hay chỗ ngủ này không phải do một chuỗi khách
sạn nào đó cung cấp mà do các cá nhân. Những người cần thuê và chủ cho thuê được “mai
mối” nhờ Airbnb - một công ty có trụ sở tại San Francisco (Mỹ). Sau giao dịch người thuê
và người cho thuê cũng có thể đánh giá lẫn nhau trên nền tảng này. Hiện nay, Airbnb được
định giá gần 20 tỷ USD (theo Hãng tin Bloomberg) và đã hiện diện ở rất nhiều nơi trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra còn nhiều dịch vụ cung cấp nền tảng (platform) tương tự được ứng dụng

rộng rãi, cụ thể là Triip.me. Mô hình này đã biến những người địa phương bình thường
thành một hướng dẫn viên du lịch nghiệp dư. Triip.me cho phép bất kỳ ai cũng có thể tạo
một gói sản phẩm du lịch, đưa lên và bán cho khách du lịch trên trang web hoặc ứng dụng
trên iPhone. Triip.me được hình thành và xây dựng từ một nhóm người trẻ và đam mê du
lịch, họ đến từ nhiều quốc gia với những nền văn hóa khác biệt nhau. Điểm chung lớn nhất
của Triip.me là nơi kết nối mọi người, chia sẻ kinh nghiệm về du lịch qua đó góp phần bảo
tồn văn hóa tại các địa phương,…
2.1.2 Mô hình Uber, Grab
Nền tảng Uber, Grab tận dụng nguồn tài nguyên ô tô, xe gắn máy ít được đưa vào lưu
thông và người lao động không kiếm được việc làm trong cộng đồng. Thời gian đầu, Uber
và Grab chỉ kinh doanh trong lĩnh vực xe hạng sang, sau đó mở rộng ra các lĩnh vực khác
như xe bình dân, xe SUV, vận chuyển,… Mức giá của Uber, Grab thường rẻ hơn các dịch
vụ cung cấp bởi công ty truyền thống. Hiện nay, theo một nguồn đáng tin cậy, các dịch vụ
này được định giá 18,2 tỷ USD.
Tham gia mô hình này, chủ sở hữu xe ô tô, xe gắn máy thực hiện việc đăng ký trên
nền tảng, làm bài kiểm tra khả năng lái xe. Khách hàng muốn đặt xe thông qua nền tảng
này sẽ click vào nền tảng Uber hay Grab, chọn địa chỉ nơi đi, nơi đến và nhấn nút đặt xe,
ứng dụng này sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một phương tiện gần với khách hàng nhất. Khi đã kết
nối, lái xe và người đặt xe liên lạc và thông báo điểm đón thông qua điện thoại di động.


11
Sau sử dụng dịch vụ, người lái xe và người sử dụng dịch vụ cũng có thể đánh giá lẫn nhau
trên nền tảng.
Hình 3. Thống kê số lượng taxi công nghệ và taxi truyền thống

(Nguồn: Sở Giao thông TP. Hồ Chí Minh (2017))

2.1.3 Dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ (peer-to-peer lending/P2P)
Là mô hình trong đó các đối tượng trong cộng đồng cho vay lẫn nhau, không thông

qua trung gian là ngân hàng. Ví dụ, các làng xã, khu dân phố thành lập quỹ chung dùng để
hỗ trợ cho người trong khu gặp việc khẩn cấp. Nền tảng đánh giá người vay thông qua dữ
liệu quá khứ và tập hợp dữ liệu thu thập được từ nhiều nguồn để đưa ra mức độ an toàn của
khoản vay. Các khoản vay trên nền tảng này thường có lãi suất thấp hơn nhưng người cho
vay lại thu được nhiều hơn gửi vào ngân hàng, theo công ty là do chi phí tổ chức của công
ty thấp hơn của ngân hàng. Đón nhận xu hướng cung ứng dịch vụ trên thị trường, ngày
05/6/2018, Công ty Cổ phần Đổi mới Công nghệ Tài chính Fiin đã chính thức ra mắt dịch
vụ cho vay ngang hàng tại Hà Nội. Đây là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
trong lĩnh vực P2P Lending sử dụng nền tảng công nghệ tiên tiến tại Việt Nam.
2.2 Tác động của mô hình kinh tế chia sẻ lên các thành phần của nền kinh tế Việt
Nam
2.2.1 Tác động của mô hình kinh tế chia sẻ lên người tiêu dùng
Theo Investopedia, mô hình kinh tế chia sẻ có thể có nhiều hình thức nhưng hiện nay
thường có điểm chung là sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp cho các cá nhân, tập
đoàn, phi lợi nhuận và chính quyền, từ đó cho phép tối ưu hóa các nguồn lực thông qua sự
tái phân phối, chia sẻ và tái sử dụng các năng lực dư thừa hàng hóa và dịch vụ.


12
Mô hình kinh tế chia sẻ đã tạo ra áp lực cạnh tranh đối với các loại hình kinh doanh
truyền thống, thúc đẩy sự đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế nói chung.
Đồng thời, mô hình này đem đến lợi ích cho không chỉ các nền kinh tế, các doanh nghiệp
mà còn tác động tích cực đến đời sống từng cá nhân, giúp nhiều người tận dụng tốt hơn
những thành tựu công nghệ thông tin để tối đa hoá lợi ích từ những nguồn lực có sẵn,
thông qua việc chia sẻ, tận dụng các nguồn lực dư thừa của nhau.
Do đó, mô hình kinh tế chia sẻ trong thời đại hiện nay được kỳ vọng mang lại nhiều
cơ hội phát triển khi người tiêu dùng có thể tiếp cận và khai thác sử dụng những tài sản mà
họ không sở hữu và không có điều kiện sở hữu riêng, trong khi đó, người sở hữu tài sản có
cơ hội để tăng thêm thu nhập.
Một số chuyên gia kinh tế ủng hộ mô hình chia sẻ mới nói rằng các dịch vụ giúp khai

thác được tối đa các tiềm năng còn ẩn giấu và phần lợi ích tăng thuộc về khách hàng. Một
nghiên cứu của trường Đại học George Mason (2014) nhận xét, nền kinh tế chia sẻ có thể
nâng cao ích lợi cho người tiêu dùng khi đưa ra nhiều lựa chọn cải tiến hơn, nhiều sự khác
biệt hơn, giá cả cạnh tranh hơn và chất lượng dịch vụ cao hơn. Nhà nghiên cứu Christopher
Koopman, tác giả của nghiên cứu trên, nêu rõ nền kinh tế chia sẻ cho phép người tiêu dùng
được hưởng những lợi ích lớn từ một khoản chi khiêm tốn. Nói ngắn gọn là tối đa hóa
được lợi nhuận. Theo ông, mọi người đang lãng phí những phòng ngủ, xe hơi, các đồ đạc
mà họ không dùng tới và với mô hình làm ăn mới này, các thứ dư thừa đó có thể sinh lợi và
chủ của chúng sẽ là những doanh nhân thực sự.
Cách thức vận hành mới của các dịch vụ chung này đang tái cấu trúc nhiều ngành
nghề kinh tế với những hứa hẹn về nâng cao tính hiệu quả và sự linh hoạt. Tuy nhiên, sự
phát triển chóng mặt của các loại hình chia sẻ như đi chung, mua chung, ở chung… đã làm
đảo lộn những mô hình cũ, đồng thời kéo theo nhiều phàn nàn rằng những dịch vụ này
thiếu tính an toàn cũng như nguy cơ rò rỉ thông tin người tiêu dùng vẫn còn đáng lo ngại.
2.2.2 Tác động của mô hình kinh tế chia sẻ lên các doanh nghiệp
Nền kinh tế chia sẻ đã trở thành một khía cạnh ngày càng quan trọng của các doanh
nghiệp toàn cầu nhờ những lợi ích mà nó mang lại. Kinh tế chia sẻ giúp tiết kiệm chi phí,
bảo vệ môi trường, tăng tính hiệu quả của nền kinh tế, giảm bớt sự lãng phí tài nguyên xã
hội và sự dư thừa năng lực của các sản phẩm dịch vụ.


13
Hiện nay, có ba yếu tố giúp cho việc chia sẻ quyền sử dụng các hàng hóa và dịch vụ
mới được thuận lợi như:
Thứ nhất, hành vi của khách hàng đối với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ được thay
đổi tính chất từ sở hữu đến chia sẻ.
Thứ hai, liên kết mạng lưới người tiêu dùng qua các mạng xã hội trực tuyến và thị
trường điện tử dễ dàng hơn.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin qua các thiết bị di động và các dịch vụ điện tử
làm cho việc sử dụng, chia sẻ các hàng hóa và dịch vụ trở nên thuận tiện hơn.

Nghĩa là, mô hình kinh tế này tạo ra những cơ hội để người tham gia có thể làm việc
toàn thời gian, bán thời gian hoặc làm việc tự do, từ đó đem lại thu nhập tăng thêm bên
cạnh công việc hiện có của người tham gia. Việc chia sẻ cũng đem lại cho người tiêu dùng
khả năng được tiếp cận với những dịch vụ/tài sản mà họ không thể sở hữu. Đồng thời, giúp
nâng cao phúc lợi xã hội, làm cho việc sử dụng tài sản vật chất và các nguồn lực nhàn rỗi
khác trở nên hiệu quả hơn, góp phần phát triển bền vững và giảm những tác động tiêu cực
đến môi trường. Các đối tượng được hưởng lợi từ mô hình kinh tế chia sẻ là những công ty
đã thành công, người sáng lập, chủ sở hữu, nhà đầu tư, nhân viên và người tiêu dùng.
Tại Việt Nam, mặc dù kinh tế chia sẻ chưa thực sự phát triển nhưng việc cho thuê
những tài sản ít sử dụng đã và đang tồn tại. Một khảo sát mới công bố của Công ty Nielsen
trong hơn 30.000 người tiêu dùng trực tuyến trên 60 quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương,
châu Âu, châu Mỹ Latinh, Trung Đông, châu Phi và Bắc Mỹ cho thấy, kinh tế chia sẻ đang
bắt đầu khởi phát, mở rộng trong các lĩnh vực và Việt Nam là một trong những nước có
tiềm năng lớn để phát triển mô hình này. Theo khảo sát của Nielsen, cứ bốn người Việt
Nam được hỏi thì có ba người cho biết thích ý tưởng kinh doanh về mô hình này; 76% cho
biết sẵn sàng tận dụng các sản phẩm và dịch vụ chia sẻ; Chỉ có 18% từ chối chia sẻ tài sản
cá nhân của mình.
Sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của 2 hãng cung ứng dịch vụ vận chuyển hành
khách nổi tiếng trên thế giới là Grab và Uber tại Việt Nam đã “tiếp lửa” cho sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế chia sẻ nước ta.
Sự xuất hiện của 2 hãng dịch vụ này cũng đã khiến cho các hãng vận tải hành khách
lớn như Mai Linh hay Vinasun, Taxi Group phải lập tức thay đổi cung cách vận hành. Nếu
như tháng 8/2015, Mai Linh giới thiệu ứng dụng di động cho phép gọi xe taxi không cần


14
thông qua tổng đài, thì đến cuối năm, Vinasun cũng nâng cao khả năng cạnh tranh bằng
cách tung ra ứng dụng gọi xe Vinasun.
Tuy nhiên, sự nở rộ của dịch vụ theo mô hình kinh tế chia sẻ nói chung và nền kinh
tế chia sẻ nói riêng tại Việt Nam cũng đang cho thấy mối lo ngại về sự cạnh tranh không

bình đẳng, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời và đúng đắn, thì lối mòn về những
cuộc biểu tình phản đối Uber hay làn sóng tiền ẩn phản đối kinh tế chia sẻ giống như nhiều
quốc gia trên thế giới sẽ tiếp tục diễn ra tại Việt Nam.
2.3 Thành tựu và hạn chế của mô hình kinh tế chia sẻ tại Việt Nam
2.3.1 Những thành tựu của mô hình kinh tế chia sẻ tại Việt Nam
Quy mô thị trường tăng trưởng một cách nhanh chóng: Đối với dịch vụ vận tải trực
tuyến. Theo số liệu thống kê của của Sở Giao thông Vận tải TP.HCM, đến năm 2017, có tới
tận 25.000 xe hợp đông điện tử dưới 9 chỗ ngồi đã được cấp phù hiệu và có đến 24.000
chiếc đang tham gia mạng lưới của Uber và Grab; trong khi đó, số xe taxi truyền thống chỉ
bằng 46% so với số xe tham gia mạng lưới của Uber và Grab (Cafebiz, 2017). Tại Hà Nội,
theo một báo cáo chỉ ra rằng, tính đến 20/12/2017, GrabTaxi có 11.474 xe tham gia thí
điểm trên địa bàn, chiếm 90,67% số lượng xe được cấp phép hoạt động trên địa bàn toàn
thành phố. Đối với dịch vụ cho thuê phòng ở, cho đến nay vẫn chưa có một cơ quan cụ thể
nào ở Việt Nam có một thống kê chính xác về số lượng đơn vị tham gia loại mô hình này.
Tuy nhiên, theo ông Kenneth Atkinson - Chủ tịch Grant Thornton, tính đến tháng 6/2017,
ước tính có khoảng 6.500 cơ sở tham gia Airbnb ở Việt Nam và có khoảng 80% số lượng
khách đặt phòng là người nước ngoài tại Việt Nam. Sau 2 năm thí điểm thì Uber, Grab đã
vận chuyển được hàng chục triệu lượt hành khách trong khi Nhà nước không hề mất tiền
để tài trợ phát triển loại hình này, mà hoàn toàn do xã hội hoá (Hiếu Công, 2018).
Kinh tế chia sẻ thuận tiện cho người sử dụng và ngày được đón nhận rộng rãi: Theo
một cuộc khảo sát của một công ty nghiên cứu thị trường và quảng bá toàn cầu Nielsen vào
năm 2014 đối với người tiêu dùng khu vực Đông Nam Á, cụ thể tại Việt Nam chỉ có 18%
người được hỏi từ chối chia sẻ tài sản cá nhân của mình, thấp hơn 14 điểm phần trăm so
với tỉ lệ trung bình trên toàn thế giới. Trong khi đó, số người được hỏi sẵnsàng tận dụng
các sản phẩm và dịch vụ chia sẻ tại Việt Nam lên tới 76%, cao hơn mức bình quân 66% của
toàn cầu (Nielsen, 2014). Bên cạnh đó, đối với dịch vụ vận tải trực tuyến, theo báo cáo 5
năm kể từ khi thành lập, Grab công bố đã thành công giúp khách hàng tiết kiệm rất nhiều


15

thời gian dành cho việc di chuyển, tại Việt Nam trung bình các hành khách của Grab đến
nơi với thời gian ít hơn một nửa khoảng 51% (Grab, 2017).
Ngoài tiết kiệm thời gian, Grab còn giúp khách hàng giảm 20 – 30% chi phí đi lại,
giảm 40% những lỗi giấy tờ khi quyết toán chi phí đi lại, minh bạch thông tin cho người
dùng (Grab, 2017). Thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế, đẩy mạnh sáng tạo trong kinh doanh: Cho đến nay, không chỉ có Grab và Uber
mà đã có khoảng 10 hãng taxi khác đã tham gia cung cấp ứng dụng đặt xe qua mạng, trong
đó có cả các hãng taxi lớn như Vinasun, Mai Linh tham gia. Không chỉ có thế, hiện nay
theo ông Hùng, Hiệp hội taxi Hà Nội đã có đề xuất xây dựng một trung tâm điều hành đặt
xe qua mạng và đang đặt công ty phần mềm thiết kế. Đây là một môi trường nền tảng dùng
chung cho tất cả hãng taxi, giúp mọi người khi đến Hà Nội có thể tải, truy cập phần mềm,
có thể lựa chọn hãng tuỳ thuộc vào tên tuổi hay giá cả đã hiển thị sẵn để cạnh tranh với
Grab đang ngày càng mở rộng thị phần. Mô hình taxi công nghệ ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống, đây là điều tất yếu, phù hợp với chỉ
đạo của Chính phủ trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
2.3.2 Những hạn chế của mô hình kinh tế chia sẻ tại Việt Nam
Kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ ở các nước trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, hiện nay xuất hiện một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý quản lý
nhà nước, khiến các cơ quan này còn khá lúng túng trong việc xác định bản chất và cách
thức vận hành, quản lý. Nhìn chung, hầu hết văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định
cụ thể liên quan đến kinh tế chia sẻ như trong Luật Đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp
2014, và các qui định pháp luật khác như Luật thuế, Luật thương mại điện tử (Luật giao
dịch điện tử 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành), các chính sách qui định về nghĩa vụ
tài chính và các chính sách khác. Một vài trường hợp cụ thể như là việc cấp giấy phép kinh
doanh còn gặp vướng mắc do hoạt động này vẫn chưa có trong danh mục ngành nghề kinh
doanh gây ra nhiều vấn tranh cãi như theo ông Nguyễn Anh Tuấn (CEO của Grab) cho
rằng, các doanh nghiệp hoạt động như Grab hay Uber chỉ là công ty công nghệ, dùng ứng
dụng công nghệ để giải quyết, cải thiện các vấn đề vận tải của xã hội. Tuy nhiên, trong
cuộc họp ngày 8/3 bàn dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 86 về kinh doanh và điều kiện
kinh doanh vận tải bằng xe và theo Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 86, Bộ Giao

thông Vận tải đề xuất xếp vận tải Uber, Grab như taxi truyền thống (Kiều Linh, 2018). Bên


16
cạnh đó là sự lúng túng trong việc quản lý hoạt động kinh doanh theo loại hình mới này bởi
vì các hoạt động này hoạt động đan xen và giao thoa với các hoạt động kinh doanh truyền
thống; giữa chức năng quản lý của các Bộ/ngành với nhau.
Hiện nay còn thiếu các chính sách đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa kinh tế truyền
thống và kinh tế chia sẻ trong từng ngành cụ thể, như sự bất bình đẳng trong đăng kí kinh
doanh, trong kiểm soát số lượng xe, trong việc xác định giá thành dịch vụ giữa Grab và các
doanh nghiệp taxi truyền thống. Có thể thấy rằng, các hãng taxi truyền thống đang bị kiểm
soát chặt chẽ và khắt khe hơn so với các taxi công nghệ, dẫn đến nhiều trường hợp như gia
tăng áp lực cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải vì số lượng xe Grab gia tăng ngày một
nhiều hay việc được đi vào những tuyến đường mà taxi truyền thống bị cấm,…
Hiện cũng còn thiếu các qui định về quản lý chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ để
bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là xác định rõ hơn nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại điện tử có liên quan đến kinh tế chia sẻ. Nghị định số
52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 về Thương mại điện tử hiện nay còn chưa bao
quát được hết các hành vi thương mại điện tử trong kinh tế chia sẻ. Trong khi đó để quản lý
hoạt động Thương mại điện tử cần kết hợp với một số Nghị định khác như Nghị định số 86
của Bộ Giao thông vận tải và các Nghị định khác. Luật bảo vệ người tiêu dùng số
59/2010/QH12 ngày 17/11/2010 cũng cần được xem xét, bổ sung để có phạm vi điều
chỉnh, bổ sung rõ trách nhiệm các bên liên quan đối với người tiêu dùng trong các giao
dịch liên quan tới kinh tế chia sẻ.
Còn thiếu các cơ chế chính sách qui định trách nhiệm rõ ràng hơn của các bên trong
kinh tế chia sẻ. Do quan hệ hợp đồng mới trong kinh tế chia sẻ là quan hệ “3 bên” nên các
chính sách kèm theo cần xử lý được mối quan hệ này thay vì xử lý quan hệ giữa hai đối tác
trong hợp đồng kinh tế như trước đây. Nếu không có các qui định rõ ràng có thể dễ dẫn đến
tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và cơ quan quản lý nhà nước không nắm được thông tin.
Trách nhiệm của các bên đối với nhà nước cũng cần được qui định rõ hơn, đặc biệt là với

các đối tác ở bên ngoài biên giới. Cụ thể là theo Luật Quản lý Ngoại Thương ngày 12 tháng
6 năm 2017 và Nghị định số 09/2018 ngày 15 tháng 1 năm 2018 về Hướng dẫn quản lý
ngoại thương quy định để hoạt động Thương mại điện tử có vốn đầu tư nước ngoài thì cần
có thêm giấy quyền kinh doanh đối với hoạt động cung cấp thương mại điện tử dưới dạng
website ngoài giấy đầu tư kinh doanh là một công cụ cho quản lý ngoại thương. Tuy


17
nhiên, rào cản thương mại này vẫn còn có lỗ hổng vì chỉ quy định cho website mà không
có quy định cho ứng dụng điện thoại. Ngoài ra, với các loại hình kinh tế chia sẻ, người
cung ứng dịch vụ cũng không được đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp; người
lao động tham gia vào hình thức kinh doanh này không sở hữu bất kỳ quyền lợi lao động
nào; không có một đơn vị nào đứng ra bảo vệ quyền lợi người lao động khi xảy ra vấn đề
tranh chấp với đơn vị cung ứng nền tảng. Làm tăng sự quan tâm của Nhà nước đến vấn đề
an sinh xã hội cho toàn dân, gia tăng sự bất bình đẳng. Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, nếu
luật pháp yêu cầu Grab hay Uber phải ký hợp đồng lao động với tất cả tài xế, các công ty
này sẽ đóng cửa vì chi phí sẽ tăng lên rất cao.
Hệ thống mạng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro để lộ ra lỗ hổng về thông tin cho người sử
dụng dịch vụ hay là các rủi ro về công nghệ trong quá trình sử dụng. Các qui định về an
toàn thông tin cũng còn thiếu liên quan đến việc trách nhiệm các bên khi thông tin bị rò rỉ,
mất mát, hay nghiêm trọng hơn là bán thông tin trái phép không được sự đồng ý của khách
hàng.
Khung pháp lý về hoạt động kinh doanh hiện nay vẫn “thuần túy” là các quy định
kinh doanh truyền thống, mà chưa có các quy định hay điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh “chia sẻ”, gây khó khăn trong việc phát triển các hoạt động kinh doanh chia sẻ nhằm
phát huy tối đa việc tận dụng các nguồn lực dư thừa của xã hội và sử dụng hiệu quả hơn
các tài sản sẵn có của xã hội. Cụ thể như để dễ kiểm soát, Bộ Giao thông vận tải quy định
một xe chỉ được ký một hợp đồng với mục tiêu chính là ngăn chặn tình trạng xe dù, bến
cóc. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định đó đối với loại xe vận tải hành khách trực tuyến theo
hợp đồng thì không hợp lý vì trong Bộ Luật dân sự cũng qui định không hạn chế quyền

giao kết một hợp đồng hay hai hợp đồng trong quá trình vận tải.
Về mặt thuế, đối với loại hình kinh doanh có đăng ký nào bất kể là theo mô hình kinh
tế chia sẻ hay theo mô hình kinh doanh truyền thống, Bộ Tài chính cũng có thể thu đủ theo
loại hình kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay đối với các doanh nghiệp có trụ sở ở nước ngoài
kinh doanh tại Việt Nam, có doanh thu tại Việt Nam, chỉ nộp được thuế thu nhập doanh
nghiệp theo phương thức trực tiếp do không quản lý được đầu vào ở nước ngoài và không
có trụ sở thường trú tại Việt Nam. Do vậy, gây ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp nước ngoài. Khoảng trống về nghĩa vụ thuế của các loại công ty này
trong kinh tế chia sẻ diễn ra tại Việt Nam cần được khắc phục. Hiện còn thiếu (hoặc


18
chưa hoàn thiện) các cơ chế, chính sách quản lý các giao dịch thanh toán điện tử xuyên
biên giới để có thể giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tác nước ngoài tham
gia vào các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Các quy định về thông tin trên mạng được quy định trong Luật Công nghệ thông tin
và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hay Nghị định 52/2013/NĐ-CP về TMĐT mới chủ
yếu đề cập đến các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước (có chi nhánh hay đầu
tư ở Việt Nam) mà chưa có quy định pháp lý nào đối với các cá nhân hay tổ chức nước
ngoài có hợp tác, kinh doanh tại Việt Nam (không có văn phòng, đại diện tại Việt Nam).
Do vậy còn thiếu các qui định liên quan đến trách nhiệm của các nền tảng như Uber,
Airbnb,… về cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý. Ví dụ theo quy định của Bộ
Công thương, chỉ với các trang web thương mại điện tử có tên miền Việt Nam thì mới phải
kê khai thông tin trực tuyến nên nhiều trang không có tên miền Việt Nam nhưng vẫn phát
sinh giao dịch tại Việt Nam nên không bị quản lý.


19

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ THEO ĐỊNH
HƯỚNG XANH
3.1 Những chính sách quản lý mô hình kinh tế chia sẻ hiện nay tại Việt Nam
Vận tải là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh và là lĩnh vực tiên phong áp
dụng kinh tế chia sẻ ở Việt Nam. Với sự ủng hộ, khuyến khích sử dụng các thành tựu
khoa học công nghệ và mô hình kinh doanh sáng tạo, hiệu quả trong kinh doanh tại Việt
Nam của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành “Kế hoạch thí điểm triển khai
ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách
theo hợp đồng” theo quyết định số 24/QĐ-BGTVT ngày 07/1/2016 cho loại xe ô tô
dưới 9 chỗ ngồi có lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, được cấp phù hiệu xe hợp đồng
theo đúng quy định tại Nghị định 86/2014/NĐ-CP và Thông tư số 63/2014/TT-BGTVT
với thời gian thí điểm là 2 năm tính từ tháng 1/2016 đến hết tháng 1/2018 tại 5 tỉnh,
thành phố lớn bao gồm: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Quảng Ninh.
Theo Quyết định số 24/QĐ-BGTVT ngày 07/01/2016, việc đăng ký loại hình kinh
doanh trên được coi là loại hình vận tải đặt xe bằng hợp đồng điện tử. Cho đến nay,
theo dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 86/2014/NĐ-CP, khi đơn vị kinh doanh quyết
định giá cước và điều hành lái xe thì được coi là đơn vị kinh doanh vận tải và có thể
được coi là hình thức kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng trong trường hợp
của các nền tảng ứng dụng công nghệ như Uber hay Grab với hình thức hợp đồng điện
tử. Bên cạnh đó, các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng, vận tải
khách du lịch bằng xe ô tô được qui định chi tiết tại Điều 17 của Dự thảo Nghị định sửa
đổi Nghị định 86/2014/NĐ-CP.
Về vấn đề bảo hiểm, Luật Giao thông đường bộ (2008) quy định: “Người kinh
doanh vận tải hành khách phải có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hành khách; phí bảo
hiểm sẽ được tính vào giá vé hành khách” (Điểu b, khoản 2, Điều 69 ).
Về cơ chế thu thuế đối với các mô hình kinh doanh theo loại hình mới này trong
lĩnh vực vận tải, Luật Doanh nghiệp (2014) quy định các doanh nghiệp hiện nay phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 20% và thuế GTGT 10%. Đối với tài xế cung ứng dịch



20
vụ trên thị trường, doanh nghiệp thu hộ thuế và nộp thuế GTGT 3% và thuế thu nhập cá
nhân 1,5% trên doanh thu cho các tài xế tham gia lái xe (Điều 76).
Đối với dịch vụ chia sẻ phòng ở tại Việt Nam: Mô hình này hiện nay đều phải
tuân thủ theo một số quy định về pháp luật về đăng ký kinh doanh như Luật Doanh
nghiệp (2014), và các quy định pháp luật chuyên ngành khác như Luật Du lịch (2017),
Luật Nhà ở (2014). Ngoài ra, do đây là một loại hình kinh doanh có điều kiện nên dịch
vụ chia sẻ/đặt phòng ở cũng tuân thủ theo các quy định cụ thể như sau: Dịch vụ chia sẻ
phòng ở là một trong những loại hình kinh doanh lưu trú du lịch, các loại cơ sở lưu trú
được cho phép quy định trong Luật Du lịch (2017) bao gồm: Khách sạn, biệt thự du
lịch, căn hộ du lịch, tàu thủy lưu trú dịch vụ, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho
khách thuê du lịch, bãi cắm trại du lịch, và các cơ sở khác,... (Điều 48). Điều kiện kinh
doanh đối với các dịch vụ lưu trú được quy định chi tiết tại Điều 49 trong Luật Du lịch
(2017). Trình tự thủ tục đăng ký đối với các đơn vị cho thuê là khách sạn, được quy
định rất rõ tại Điều 27 trong Luật Doanh nghiệp (2014) và các văn bản pháp qui hướng
dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp như: Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của
Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp; Thông tư 20/2015/TT-BKH ngày 1/12/2015 của
Bộ Kế hoạch Đầu tư hướng dẫn một số nội dung về trình tư, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, theo trong Luật Nhà ở
(2014): nếu đối tượng là cá nhân cung cấp nhà ở cho thuê thì không cần đăng ký kinh
doanh nhưng vẫn cần tuân thủ các quy định về chất lượng, an toàn cho bên thuê nhà ở,
có đầy đủ hệ thống điện, cấp, thoát nước, bảo đảm vệ sinh môi trường (Điều 118). Điều
kiện an ninh, trật tự; an toàn về phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường; an toàn
thực phẩm theo quy định của pháp luật thì cá nhân hay tổ chức phải thỏa mãn các điều
kiện quy định tại Luật phòng cháy và chữa cháy (2001), Luật sửa đổi bổ sung phòng
cháy và chữa cháy (2013), Luật an toàn thực phẩm (2010), Nghị định số 96/2016/NĐCP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số
ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành.Về
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, tại Điều 27 trong Nghị định 168/2017/NĐ-CP về
hướng dẫn thi hành Luật Du lịch có quy định chi tiết về điều kiện tối thiểu về cơ sở vật
chất kỹ thuật, dịch vụ đối với nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê phải có. Đối với



21
dịch vụ lưu trú nói chung, Bộ Tài chính đã có quy định rất rõ ràng cụ thể liên quan đến
quy định nộp thuế đối với loại hình này, cụ thể chi tiết theo quy định tại Thông tư số
92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015.
Tuy nhiên, mặc dù đã có quy định rất rõ ràng cụ thể về mức thuế suất nhưng cho
đến hiện nay, chưa có một thông tin nào phản ánh được Nhà nước đã thu thuế được của
loại hình dịch vụ này do chưa thể quản lý được Airbnb về số lượng và doanh thu. Để có
sự tuân thủ pháp luật chặt chẽ đúng quy trình đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ lưu
trú theo mô hình kinh tế chia sẻ thì cần có sự phối hợp tích cực của các bên tham gia
trong việc kê khai, cung cấp thông tin.
3.2 Kiến nghị giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về mô hình kinh tế chia sẻ
theo định hướng xanh
Mặc dù thuật ngữ kinh tế chia sẻ mới du nhập vào Việt Nam trong vòng 2-3 năm
trở lại đây, song nền văn hóa chia sẻ trong tiêu dùng thì đã quen thuộc với nhiều người,
các dịch vụ kinh doanh kiểu này cũng đã hiện hữu và dần trở nên quen thuộc với người
dân. Mô hình kinh tế chia sẻ có thể là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng
chưa chắc đã đóng góp cho sự phát triển xanh và bền vững mà nền kinh tế đang hướng
đến nhằm bảo vệ môi trường và tài nguyên, cải thiện đời sống người dân một cách toàn
diện và lâu dài nếu không có những định hướng đúng đắn của Nhà nước. Do vậy, để
phát triển nền kinh tế chia sẻ, hướng đến tạo dựng nền kinh tế xanh, bền vững tại Việt
Nam, cấp thiết cần thực hiện các giải pháp như sau:
3.2.1 Nhìn nhận tính tất yếu của mô hình kinh tế chia sẻ
Sự phát triển của kinh tế chia sẻ là một điều tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển
của công nghệ thông tin. Kinh tế chia sẻ không phải là một bộ phận tách rời hoặc một
thành phần kinh tế riêng trong nền kinh tế. Để làm được điều đó thì cần phải tạo điều
kiện cho các hoạt động kinh tế chia sẻ phát triển đi kèm với những chính sách khuyến
khích phù hợp để thúc đẩy phát triển đặc biệt với những mô hình kinh tế chia sẻ vì mục
đích xã hội và không nên cấm các hoạt động kinh tế này. Cần hoàn thiện khuôn khổ hệ

thống pháp luật và chính sách hiện hành để các hoạt động của kinh tế chia sẻ được quy
định và kiểm soát chặt chẽ tại Việt Nam, cụ thể trong các lĩnh vực như: đăng ký kinh
doanh, thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ khai báo thông tin, nghĩa


22
vụ đáp ứng các điều kiện kinh doanh chuyên ngành, nghĩa vụ về thực hiện chính sách
bảo hiểm. Đặc biệt, cần quy định rõ trách nhiệm giữa các bên trong kinh tế chia sẻ,
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý đối với mô hình kinh doanh
này. Đồng thời, cần có những đánh giá tác động của từng loại hình kinh tế chia sẻ tới
nền kinh tế để cơ chế quản lý phù hợp, cần quản lý những lĩnh vực có thể ứng dụng
được mô hình này, có lĩnh vực không cho phép để đảm bảo quyền lợi của người tiêu
dùng và tính ổn định về mặt kinh tế - xã hội.
3.2.2 Xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các hoạt động kinh tế chia sẻ
và truyền thống
Cần phải khẳng định tận dụng tối đa tài nguyên vốn và lao động là một việc cần
thiết, tuy nhiên, Nhà nước cần phải đảm bảo đề ra được các tiêu chuẩn phù hợp với
từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh cụ thể, cùng với đó, người cung cấp dịch vụ phải
có trách nhiệm đảm bảo tiêu chuẩn được đề ra. Do vậy, để phát huy được lợi ích của
mô hình kinh tế chia sẻ, Nhà nước cần có các chính sách thúc đẩy mô hình này theo
hướng nới lỏng các điều kiện kinh doanh truyền thống áp dụng chung cho cả khu vực
truyền thống và khu vực kinh tế chia sẻ đồng thời nâng cao kiểm soát quản lý đối với
mô hình kinh tế chia sẻ trong việc cung ứng dịch vụ để tịnh tiến dần sự công bằng giữa
truyền thống và công nghệ, gia tăng tính cạnh tranh, công bằng và đảm bảo phân phối
hài hòa lợi ích cho các các nhân trong xã hội, tiến tới sự phái triển ổn định, bền vững.
3.2.3 Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước nhằm bắt kịp với xu hướng
phát triển của mô hình kinh tế chia sẻ
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang từng bước thay đổi bộ mặt
của nền kinh tế, cấp thiết cần nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước để khuyến
khích và quản lý sự phát triển các hoạt động kinh tế chia sẻ hiện còn đang ở mức thấp,

hiểu rõ và đảm bảo những mô hình kinh tế chia sẻ phát triển theo đúng định hướng
xanh và bền vững. Tốc độ nâng cao năng lực cần nhanh chóng hơn để đáp ứng nhu cầu
về quản lý nhà nước, cụ thể:
Thứ nhất, cần đổi mới quản lý nhà nước theo hướng các Bộ, các ngành tăng
cường phối hợp với nhau trong công tác điều hành quản lý nhà nước và chia sẻ thông
tin


23
Thứ hai, cần có quy chuẩn chung về thu thập xử lý dữ liệu để có thể kết nối, lưu
trữ phân tích thông tin làm cơ sở đề ra các chính sách phù hợp trong bối cảnh công
nghệ xóa mờ ranh giới giữa các lĩnh vực, ngành nghề, thúc đẩy xây dựng Chính phủ
điện tử giai đoạn 2020- 2025. Đẩy nhanh và mở rộng việc thực hiện Đề án hóa đơn
điện tử cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, thực hiện sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng
quy định các tổ chức, cá nhân nước ngoài không có đại diện ở Việt Nam phải có trách
nhiệm cung cấp thông tin khi có cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu.
Thứ tư, tiến tới thực hiện xây dựng thí điểm mô hình thành phố chia sẻ, tương tự
như mô hình thành phố Seoul (Hàn Quốc), Barcelona (Tây Ban Nha), Singapore,…
3.2.4 Đảm bảo tính xác thực, minh bạch và an ninh của môi trường mạng Internet
Việc đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra và đảm bảo an toàn thông tin trên môi
trường mạng cần được thực hiện tốt trong bối cảnh các hoạt động kinh tế chia sẻ tăng
lên nhanh chóng, cụ thể:
Thứ nhất, cần có những chính sách hướng dẫn các cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước có trách nhiệm bảo mật thông tin như: không cung cấp thông tin cho bên thứ ba
ngoại trừ có yêu cầu của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và người có
thông tin cho phép và tuyên truyền nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc bảo mật thông
tin cá nhân của người khác.
Thứ hai, cần quy định rõ các giao dịch thanh toán xuyên biên giới đều phải thông
qua cổng thanh toán quốc gia thống nhất do một đơn vị làm chủ. Đơn vị này do Ngân

hàng Nhà nước cấp phép hoạt động hoặc trực tiếp quản lý, thanh kiểm tra.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế phù hợp để các bên trong hoạt động kinh tế chia sẻ
có thể kiểm soát được việc sử dụng thông tin của các nền tảng, các doanh nghiệp sử
dụng dữ liệu cá nhân, tổ chức của mình theo đúng thỏa thuận giữa các bên. Có vậy, môi
trường an ninh mạng mới được đảm bảo minh bạch, rõ ràng, quyền lợi của các doanh
nghiệp và người tiêu dùng được đảm bảo, hạn chế việc phát sinh các mâu thuẫn nảy ra
từ sự phát triển của mô hình kinh tế mới mẻ và tương đối phức tạp này.
3.2.5 Tăng cường nhận thức của các bên trong nền kinh tế chia sẻ, bao gồm cả Nhà
nước, doanh nghiệp và người dân


24
Mô hình kinh tế chia sẻ là mọi người xây dựng niềm tin thông qua một mô hình
cho phép các giao dịch trên môi trường mạng để thu được những lợi ích của việc chia
sẻ và việc việc xếp hạng đánh giá ngang hàng, xác thực và trách nhiệm của bên thứ ba,
bảo hiểm là cách phổ biến nhất để thiết lập sự tin tưởng như vậy giữa người dùng và
nền tảng cũng như trong số những người dùng. Cụ thể:
Thứ nhất, cần quy định rõ trách nhiệm của các cá nhân và doanh nghiệp về khai
báo thông tin về các hoạt động của kinh tế chia sẻ cho các cơ quan quản lý Nhà nước,
bao gồm các thông tin hoạt động, nghĩa vụ thuế, và các quy định quản lý chuyên ngành.
Thứ hai, cần xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin và dữ liệu giữa chính quyền các
cấp và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các hộ kinh doanh.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế, chính sách giảm thiểu rủi ro cho các bên trong hoạt
động kinh tế chia sẻ bao gồm cảnh báo sớm cho người cung cấp dịch vụ, bảo vệ người
tiêu dùng.
3.2.6 Khuyến khích các doanh nghiệp theo mô hình kinh tế chia sẻ tiết kiệm tài
nguyên, sử dụng năng lượng tái tạo
Với tốc độ phát triển vô cùng nhanh chóng của mình, mô hình kinh tế chia sẻ
đang ngày càng trở nên phổ biến và tác động mạnh mẽ lên thói quen tiêu dùng của
người dân và xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhằm định hướng nền kinh

tế tăng trưởng và phát triển xanh và bền vững, Nhà nước không thể bỏ qua việc đinh
hướng các doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ phát triển theo xu
hướng xanh. Để làm được điều này, cần thiết phải có các khung chính sách nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp này tiết kiệm tài nguyên, sử dụng năng lượng tái tạo,
cụ thể:
Thứ nhất, để các doanh nghiệp có thể vận hành dựa trên nguồn năng lượng sạch,
rõ ràng cần thiết phải có nguồn cung năng lượng tái tạo để đáp ứng lượng cầu của thị
trường. Như vậy, công tác đẩy mạnh xanh hóa cần cụ thể hóa bằng các khung chính
sách và kế hoạch hành động phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
tài nguyên, phát triển công nghiệp sạch, kiến tạo công nghệ xanh. Ngân sách nhà nước
phải ưu tiên mua sắm công nghệ của thị trường xanh.


25
Thứ hai, cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp theo mô hình kinh
tế chia sẻ theo xu hướng xanh hóa: miễn thuế, giảm thuế cho các doanh nghiệp kinh
doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ sử dụng năng lượng sạch, đơn cử như các doanh
nghiệp chia sẻ ô tô điện hoặc các phương tiện chạy điện khác; có các chương trình trợ
cấp hoặc ưu dãi phi thuế khác cho các doang nghiệp vận hành theo mô hình kinh tế
chia sẻ định hướng xanh, tiết kiệm năng lượng.


26

KẾT LUẬN
Với sự bùng nổ của kinh tế chia sẻ, nền tảng thương mại điện tử và khả năng kết
nối thuận lợi như hiện nay, doanh nghiệp và các cá nhân có thể trực tiếp thiết lập mạng
lưới phân phối, kinh doang theo mô hình kinh tế chia sẻ. Trong khi xu thế ứng dụng
công nghệ vào sản xuất kinh doanh là không thể đảo ngược thì vấn đề quan trọng với
Việt Nam hiện nay là làm thế nào để khai thác tối đa điểm mạnh của mô hình kinh tế

chia sẻ, đặc biệt là những lợi ích về tiết kiệm tài nguyên mà nó mang lại, đồng thời hạn
chế tới mức thấp nhất những bất cập. Do đó, cần thiết cần phải có những giải pháp điều
chỉnh và bổ sung kịp thời các văn bản pháp quy để quản lý tốt hoạt động kinh doanh
theo mô hình kinh tế chia sẻ và khai thác tối đa tiềm năng của mô hình này, qua đó giúp
nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển kinh tế theo
xu hướng kinh tế xanh và bền vững.
Thừa nhận tính tất yếu của kinh tế chia sẻ, đồng thời có những biện pháp đảm bảo
môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa mô hình kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống,
nâng cáo chất lượng đội ngũ quản lý trong thời đại công nghệ cũng như có những chính
sách khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình kinh tế chia sẻ tiết kiệm
tài nguyên, đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo là những giải pháp quan trọng nhằm
tạo dựng cho Việt Nam một nền kinh tế mới – nền kinh tế chia sẻ theo định hướng xanh
và bền vững.


×