Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế ii mối quan hệ giữa mỹ ấn độ và ảnh hưởng của new delhi đến cuộc chiến thương mại mỹ trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.05 KB, 17 trang )

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn
bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan
hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh
doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là một lĩnh vực quan
trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát
triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, thương mại quốc tế không chỉ mang ý
nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công
lao động quốc tế. Vì vậy, phải coi thương mại quốc tế như một tiền đề một nhân tố phát
triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và
chuyên môn hoá quốc tế.
Thương mại quốc tế một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất
nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác, phải tính đến lợi
thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tính toán cái có thể
thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế
để có đối sách thích hợp. Vì vậy để phát triển thương mại quốc tế có hiệu quả lâu dài cần
phải tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng lớn.
Phân công lao động từ xưa đã gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Sau
này khi phân công lao động xã hội đạt đến sự hoàn thiện nhất định, xã hội thực hiện quá
trình chuyên môn hóa đã trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội, vì nó tạo điều kiện cho người lao động tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất,
nâng cao tri thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng quản lý và hoàn thiện công
cụ lao động. Chính sự phát triển này đã kiến các nước tạo nên các mối quan hệ gắn kết
với nhau. Sự giao lưu tư bản, trao đổi mậu dịch, do đó, ngày càng phong phú. Sự phát
triển của hệ thống thông tin hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật thông tin vi điện tử và sự phát
triển của giao thông vận tải đã tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế gày càng
phát triển, làm tăng quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và đời sống của các dân
tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia càng làm nổi bật tính thống
nhất của nền sản xuất thế giới.
Sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế có thể lý giải bởi hiệu quả đạt


được của các quốc gia từ những mối quan hệ này. Thực tế cho thấy những lợi nhuận thu
được từ thương mại quốc tế nhờ khai thác sự chênh lệch về giá cả tương đối giữa các
nước, tuy rất quan trọng nhưng còn ít hơn nhiều so với lợi nhuận thu được nhờ tăng
cường tính đa dạng và chuyên môn
1 hoá theo nhãn hiệu của từng loại sản phẩm sản xuất ở
nhiều quốc gia khác nhau. Thương mại trong ngành không chỉ tạo ra các khả năng mở
rộng tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của người mua, mà đã trở thành yếu tố cơ bản, quyết
định động thái tăng trưởng kim ngạch ngoại thương hầu hết các nước thuộc mọi khu vực


khác nhau trong nền kinh tế thế giới. Thương mại trong ngành là biểu hiện phát triển cao
độ của sản xuất chuyên môn hoá trong giai đoạn hiện nay.
Dưới sự phát triển của thương mại quốc tế ngay từ thế kỉ XV, nhiều học thuyêt nổi
tiếng đã được công bố về lĩnh vực này. Từ quan điểm của A.Smith, hai lý thuyết khác
tiếp tục được xây dựng và phát triển, đó là lý thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học
người Anh David Ricardo trong thế kỷ 19 và lý thuyết Heckscher-Ohlin, một công trình
nghiên cứu sâu hơn lý thuyết của D.Ricardo của hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là
Eli Heckscher và Bertil Ohlin trong thế kỷ XX.
Quá trình nghiên cứu của các trường phát kinh tế khác nhau trong những thời kỳ
lịch sử khác nhau đã giúp ta có lời giải thích và góc nhìn về thương mại quốc tế, khẳng
định tác động tích cực của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế.

2


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THƯƠNG MẠI GIỮA MỸ - ẤN ĐỘ
1. Lịch sử mối quan hệ gắn kết Mỹ - Ấn Độ
Vào năm 1946, trước khi Ấn Độ giành độc lập từ Đế quốc Anh, Mỹ đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với chính phủ lâm thời của Ấn Độ. Ngay sau đó, Mỹ đã đặt đại sứ
quán của mình tại New Delhi và cho phép Ấn Độ đặt đại sứ quán ở Washington. Một năm

sau, khi Ấn Độ hoàn toàn giành được độc lập, Mỹ liền lập tức công nhận nền độc lập của
Ấn Độ.
Trong suốt khoảng thời gian của chiến tranh lạnh, quan hệ giữa Mỹ và Ấn Độ rơi
vào tình trạng xấu. Điều này xuất phát từ việc Mỹ luôn có động thái hỗ trợ, trợ giúp cho
Pakistan – quốc gia Hồi giáo đối nghịch với Ấn Độ. Để đáp trả trước các động thái này,
Ấn Độ công khai phản đối sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam và tiến hành
hợp tác với Liên Xô. Đỉnh điểm là vảo năm 1974, Ấn Độ thử thành công vũ khí hạt nhân
tại Pohran buộc Mỹ phải triển khai lực lượng quân sự tại Ấn Độ Dương và áp đặt các
biện pháp trừng phạt Ấn Độ về kinh tế, ngoại giao. Những biện pháp trừng phạt này
khiến cho Ấn Độ gặp nhiều khó khăn về phát triển các hoạt động kinh tế, đảm bảo cuộc
sống của người dân dẫn đến năm 1975 Ấn Độ rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế chính trị sâu sắc.
Sau năm 1975, Mỹ và Ấn Độ đã có mối quan hệ nồng ấm hơn lúc trước. Vào năm
1977, Mỹ nới lỏng lệnh cấm vận đối với Ấn Độ và trợ giúp 60 tỉ đôla cho nền kinh tế Ấn
Độ. Khi chiến tranh Lạnh kết thúc, Ấn Độ mở cửa nền kinh tế tạo điều kiện cho những
nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là những nhà đầu tư đến từ Mỹ tham gia đầu tư trực tiếp.
Từ đó cho đến nay, Mỹ và Ấn Độ luôn đạt được những thoả thuận hợp tác song phương
về kinh tế, thương mại, giáo dục, y tế và du lịch. Mặc dù giữa hai nước thường có bất
đồng về chính trị, mối quan hệ Mỹ - Ấn vẫn phát triển tốt đẹp ở hiện tại.
2. Liên minh Mỹ - Ấn trong nỗ lực lấn át Trung Quốc
Trong khi Trung Quốc đang “bấn loạn” vì cuộc chiến thương mại với Mỹ, “đau
đầu” vì vấn đề Triều Tiên và “nóng mặt” vì bị Anh – Mỹ thách thức các tuyên bố chủ
quyền phi pháp ở Biển Đông, Washington đã “âm thầm” bắt tay với New Delhi để tạo
thành một “gọng kìm” đối trọng với Bắc Kinh. Ngày 30/07/2018, Mỹ tuyên bố đầu tư
mới 113 triệu USD vào khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Trong số 113 triệu USD đó,
Ấn Độ là nước được hưởng lợi nhiều nhất. Trước đó, cả Mỹ và Ấn Độ đều đã đạt được
nhiều thoả thuận hợp tác kinh tế, thương mại và quân sự. Ở cấp độ chiến lược tổng thể, cả
3
Mỹ và Ấn Độ đều sẵn lòng phát triển mối quan hệ khăng khít hơn. Mỗi nước đều coi bên
kia không chỉ là đối tác vô cùng hữu ích trong việc kiềm chế những tham vọng của Trung
Quốc ở châu Á mà còn hướng tới sự phát triển chung giữa hai nước.



Sự hình thành liên minh Mỹ - Ấn bắt nguồn từ chiến lược Ấn Độ Dương – Thái
Bình Dương của Mỹ. Trong bối cảnh Trung Quốc đã và đang vươn lên trở thành một
cường quốc có sức ảnh hưởng không chỉ ở Đông Á mà còn vươn ra toàn Châu Á thậm
chí sang các lục địa khác, Mỹ đã đề ra chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự
do và rộng mở với mục tiêu là kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc và hạn chế sự ảnh
hưởng của Trung Quốc trong Châu Á. Ấn Độ được coi là một trong những nhân tố chủ
chốt của chiến lược này. Cho nên việc liên minh với Ấn Độ là bước đi quan trọng trong
việc thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở trên nhiều
lĩnh vực đặc biệt là hai lĩnh vực kinh tế và quân sự.
Chiến tranh thương mại Mỹ -Trung hiện nay đang diễn ra rất căng thẳng. Mỹ và
Trung Quốc luôn trong trạng thái cạnh tranh nhau, trả đũa nhau trong thương mại. Trong
chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, trên khía cạnh kinh tế,
Mỹ sẽ thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân; dẫn dắt, hướng vào các hoạt động
thương mại, đầu tư, kể cả phát triển kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, Mỹ cũng sẽ củng cố
các thiết chế tài chính để giữ các “luật chơi” chung. Bộ trưởng Bộ quốc phòng Hoa Kỳ
James Mattis nhấn mạnh: “Mỹ không đưa ra lời hứa suông cũng như không buộc các
nước đối tác đánh mất chủ quyền kinh tế”. Theo các nhà quan sát, đây là những bước đi
nhằm cạnh tranh trực tiếp đối với sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung
Quốc, nhấn mạnh việc đưa ra các “phương án thay thế” đối với các dự án đầu tư kết cấu
hạ tầng và kết nối kinh tế của BRI và không để “luật chơi” của Trung Quốc thắng thế
trong khu vực. Việc liên minh với Ấn Độ sẽ là một phần quan trọng trong việc khoá chặt
chiến lược BRI của Trung Quốc, bảo đảm vị thế nền kinh tế số một của Mỹ và gia tăng sự
ảnh hưởng của mình đối với nền thương mại thế giới.
Bản thân Ấn Độ cũng thực sự muốn liên minh với Mỹ. Đã từ lâu Ấn Độ luôn
muốn có tầm ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế Châu Á. Với việc Trung Quốc
đang ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng của mình sang phía Tây thì Ấn Độ cần phải một
chỗ dựa vững chắc để không bị tụt lùi so với đà tiến của Trung Quốc. Do vậy, Ấn Độ đã
quyết định liên minh với Mỹ và cùng Mỹ tao thế “gọng kìm” nhằm lấn át Trung Quốc.

3. Tình hình căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Ấn Độ dưới thời kỳ tổng thống
Donald Trump
Với việc kết hợp các biện pháp áp đặt thuế quan và chiến thuật đàm phán cứng rắn
trong cách tiếp cận thương mại, những chính sách thương mại của Tổng thống Mỹ
Donald Trump, được đánh giá gây căng thẳng thương mại với các quốc gia. Ấn Độ cũng
nằm trong số các quốc gia đang có căng thẳng thương mại với Mỹ. Trong những năm vừa
qua, cả hai nước đã có những động
4 thái đáp trả lẫn nhau trong thương mại.
Căng thẳng giữa New Delhi và Washington đã gia tăng trong những tháng gần đây
khi chiến lược "Mua hàng Mỹ, thuê người Mỹ" của Tổng thống Donald Trump đụng độ
với chiến dịch "Make in India" của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. Ấn Độ đã áp thuế


cao đối với hàng hoá của Mỹ tiêu biểu là các sản phẩm như dòng xe máy Harley –
Davison, rượu whisky. Ông Trump đã nhiều lần chỉ trích việc áp thuế của Ấn Độ đối với
hàng hóa của Mỹ, đặc biệt là các sản phẩm như các dòng xe máy của Harley-Davidson.
Tháng trước, ông Trump cũng đã nhắc đến mức thuế quan 150% của Ấn Độ đối với rượu
whisky nhập khẩu. “Ấn Độ đang áp thuế rất cao. Họ đánh thuế với chúng ta rất nhiều”,
ông Trump nói tại một sự kiện ở Nhà Trắng. Phía Mỹ đáp trả lại bằng cách thắt chặt
thương mại với Ấn Độ cũng như xem xét loại bỏ Ấn Độ khỏi một chương trình cho phép
nước này xuất khẩu các hàng hóa như đồ trang sức, phụ tùng xe và động cơ điện trị giá
5,6 tỷ USD mà được miễn thuế quan của Mỹ. Đó chính là Chương trình Ưu đãi thuế quan
phổ cập (Generalized System of Preferences – GSP) được Mỹ đưa ra từ năm 1976 nhằm
giúp các quốc gia đang phát triển tiếp cận dễ dàng hơn với người tiêu dùng Mỹ. Việc Mỹ
xem xét loại bỏ các nhượng bộ thương mại cho hàng hóa Ấn Độ sang Mỹ có thể gây ra
những tác động gia tăng, như có thể làm giảm sức hấp dẫn của Ấn Độ như một trung tâm
của ngành sản xuất. Điều này có thể khiến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn
Độ sẽ bị ảnh hưởng trong những năm tới. Điều này làm gia tăng thêm mức độ căng thẳng
thương mại giữa hai nước. Nhưng GSP cũng không phải là nguồn cơn duy nhất của
những căng thẳng. Ấn Độ là một trong số quốc gia bị Mỹ áp thuế thép và nhôm trong

năm ngoái. Để trả đũa, Ấn Độ cũng đã công bố các mức thuế đối với hàng hóa trị giá 240
triệu USD của Mỹ, dù hiện vẫn chưa áp dụng.
Không chỉ dừng lại như vậy, Ấn Độ đã có những biện pháp nhằm ngăn chặn các
công ty nước ngoài thâm nhập thị trường nội địa. Đơn cử như Walmart và Amazon, hai
công ty lớn của Mỹ trong ngành bán lẻ, thương mại điện tử. Từ đầu tháng 2 năm nay, các
quy định mới mà New Delhi đưa ra với mục đích ngăn chặn các nhà bán lẻ toàn cầu như
Amazon và Walmart có thể sử dụng sức mạnh tài chính và quy mô của mình để giảm giá
ở Ấn Độ chính thức có hiệu lực. Được biết, Amazon đã cam kết đầu tư hơn 5 tỷ USD vào
hoạt động kinh doanh ở Ấn Độ, trong khi vào năm ngoái, Walmart đã chi 16 tỷ USD để
thâu tóm Flipkart - nhà bán lẻ trực tuyến lớn nhất Ấn Độ. Mặc dù cả hai công ty đã yêu
cầu đẩy lùi thời hạn của các quy định mới này để họ có thêm thời gian tuân thủ nhưng đã
bị chính phủ Ấn Độ từ chối dưới áp lực từ các doanh nghiệp thương mại điện tử trong
nước. Đây thực sự là một đòn đau đánh vào tham vọng thâm nhập thị trường Ấn Độ của
hai ông lớn trong ngành bán lẻ của Mỹ. Nhiều thông tin cho biết Chính phủ Mỹ đã nỗ lực
vận động hành lang để Ấn Độ nới lỏng các quy định này và bảo vệ các khoản đầu tư của
Walmart và Amazon. Các nhóm thúc đẩy kinh doanh Mỹ - Ấn Độ đã chống lại các quy
định hạn chế thương mại điện tử ở Ấn Độ. Diễn đàn đối tác chiến lược Mỹ - Ấn gọi các
quy định này là “bước thụt lùi”, trong khi Hội đồng doanh nghiệp Mỹ - Ấn cảnh báo về
“những hệ lụy có hại” của các chính sách mới. Ngoài ra, việc Chính phủ Ấn Độ có kế
hoạch yêu cầu các công ty như 5Facebook hay Google phải lưu trữ dữ liệu của người dùng
Ấn Độ tại quốc gia này cũng đã gây ra phản ứng tương tự từ các công ty và cơ quan
thương mại Hoa Kỳ. Rõ ràng, việc Ấn Độ áp dụng những chính sách như vậy đã góp


phần khiền cho căng thẳng Mỹ - Ấn ngày càng gia tăng. Rất có thể phía Mỹ sẽ có những
động thái đáp trả mạnh mẽ hơn đối với Ấn Độ.
Mặc dù căng thẳng tiếp tục gia tăng giữa New Delhi và Washington, nhiều khả
năng Mỹ sẽ không sẵn sàng “châm ngòi” cho một cuộc chiến tranh thương mại (CTTM)
khác khi mà cuộc CTTM với Trung Quốc hiện nay còn đang ngổn ngang và mang lại cho
chính Mỹ không ít hệ lụy. Căn cứ vào tầm quan trọng chiến lược của Ấn Độ tại khu vực

Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung, Mỹ sẽ cố gắng hợp tác tốt hơn với Ấn Độ. Cuộc
CTTM Mỹ-Trung mang lại cho Ấn Độ thêm một động lực để tránh một cuộc CTTM với
Mỹ. Và nếu có một sự lan tỏa từ Trung Quốc sang các thị trường khác để tiếp cận thị
trường Mỹ trong bối cảnh CTTM thì Ấn Độ có vị thế rất tốt để Mỹ có thể khai thác và tận
dụng.

6


CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA ẤN ĐỘ TRONG CUỘC CHIẾN TRUNG- MỸ
1. Lợi ích mà Ấn Độ nhận được trong cuộc chiến thương mai Mỹ - Trung
Tờ “Economic Times” của Ấn Độ ngày 28/8/2019 đã dẫn một bản báo cáo của Bộ
Thương mại nước này cho biết, trong cuộc chiến mậu dịch Trung – Mỹ, các mặt hàng Mỹ
xuất sang Trung Quốc do chịu thuế suất cao nên sức cạnh tranh giảm sút. Nếu các thương
gia Ấn Độ biết nắm lấy thời cơ, tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc và chiếm lấy thị
trường khổng lồ này mà Mỹ để lại thì sẽ trở thành quốc gia được lợi chủ yếu trong cuộc
chiến tranh thương mại lần này.
Bài báo phân tích ít nhất 100 loại sản phẩm của Ấn Độ có thể chiếm chỗ hàng Mỹ.
Báo này viết, Ấn Độ có thể chiếm tỷ trọng lớn hơn trong thị trường bông, ngô, hạnh
nhân, tiểu mạch và cao lương của Trung Quốc; nho tươi, bông, thuốc sợi, các loại hóa
chất là thị trưởng trị giá hơn 100 tỷ USD trước đây Mỹ xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ
cũng đã xuất những hàng này sang Trung Quốc; đây là thời cơ để gia tăng lượng hàng
xuất khẩu này.

Báo Ấn Độ nói về khả năng hàng hóa nước họ chiếm chỗ hàng Mỹ trên thị trường Trung Quốc
Tờ “Economic Times” nhấn mạnh, sau khi Mỹ phát động chiến tranh thương mại,
Trung Quốc đã đáp trả bằng cách đánh thuế 15% đến 25% các sản phẩm Mỹ, trong khi
chỉ thu mức thuế bình thường từ 5% đến 10% những mặt hàng cùng loại nhập từ các
nước khác. Mặt khác, theo Hiệp định mậu dịch Châu Á – Thái Bình Dương ký năm




×