ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN:
TÂM LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
QUAN NIỆM CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC VỀ
MỐI QUAN HỆ PHẨM CHẤT - NĂNG LỰC
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Giảng viên hướng dẫn:
Ths. LÊ TUYẾT ÁNH
TP. HỒ CHÍ MINH - 2013
DANH SÁCH NHÓM THUYẾT TRÌNH
STT
Họ và tên
SĐT
Email
Đánh giá
1
Lê Thị Ngọc Ánh
01689936077
2
Nguyễn Bửu Duy
0996787977
3
Ngô Thị Tuyết Đông
0987716056
4
Dương Thị Ngọc Dàu
0909468388
5
Nguyễn Như Hùng
0986045659
6
Phạm Quốc Huy
01692870989
7
Trần Hiếu Huy
01657207520
8
Nguyễn Đăng Khoa
0988937740
9
Lương Ngọc Lan
01225627515
10
Nguyễn Thị Xuân Lan
01668366440
11
Nguyễn Thị Tuyết Lê
01656542269
Nguyenthituyetle.k35@gmail.
com
12
Nguyễn Thị Minh
Thúy
0908178456
13
Phạm Minh Trang
0933554829
14
Lê Thị Kim Tú
0902491954
1
Mục lục
Lời mở đầu 2
1. Phẩm chất của người giảng viên 4
1.1. Định nghĩa về phẩm chất của giảng viên 4
1.2. Phân loại phẩm chất của giảng viên 4
1.2.1. Phẩm chất tư tưởng chính trị: 4
1.2.2. Phẩm chất đạo đức: 5
2. Năng lực của người giảng viên 8
2.1. Định nghĩa về năng lực của giảng viên: 8
2.2. Phân loại năng lực của giảng viên: 8
2.2.1. Năng lực chung và năng lực riêng: 8
2.2.2. Chức năng của giảng viên : 9
3. Thực trạng về quan niệm phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học
ngày nay 11
3.1. Quan niệm phẩm chất quan trọng hơn năng lực 12
3.2. Quan niệm năng lực quan trọng hơn phẩm chất 14
4. Giải pháp để nâng cao phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học 16
4.1. Giải pháp để nâng cao phẩm chất của giảng viên đại học 16
4.2. Giải pháp để nâng cao năng lực của giảng viên đại học 18
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
2
Lời mở đầu
Hồ Chủ Tịch đã từng nói rằng: “Làm việc gì cũng phải có cái tâm và yêu nghề
thì chúng ta mới thành công được”. Để bước lên bục giảng dạy, một người giảng viên
trẻ luôn phải đặt ra cho mình rất nhiều yêu cầu như làm thế nào để học viên thích học,
làm thế nào để truyền đạt phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất cho học viên, làm thế
nào để học viên hứng thú với tiết học của mình… Lời dạy của Bác luôn là phương
hướng hành động, là kim chỉ nam để người giảng viên hoàn thành tốt công việc của
mình:
Thứ nhất, mỗi giảng viên, giáo viên thấm nhuần tư tưởng của Người: “Giáo dục
phải tạo ra được những người lao động mới” là người vừa có tài vừa có những phẩm
chất cách mạng, lòng yêu nước, có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên,
không sợ hy sinh gian khổ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, giản dị, và
sức khỏe để sẵn sàng đi xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Giảng
viên, giáo viên phải có ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân trong các hoạt động giáo
dục, nâng cao ý thức trách nhiệm để hoàn thành tốt nhất công việc của mình là sự thể
hiện rõ nhất việc “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Thứ hai, là rèn luyện tài, phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Bác dạy: “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến
bộ là thoái bộ. Xã hội ngày càng đi tới, công việc ngày càng nhiều, máy móc ngày càng
tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào
thải mình”.
Thứ ba, là rèn luyện đức, Bác từng nói: “Có tài mà không có đức thì vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Người thầy cần có thái độ, tác phong,
ngôn ngữ ứng xử chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối sống của mình.
Người thầy cần phải có cái tâm trong sáng, thể hiện ở đạo đức và hành vi hết lòng vì
học sinh, tận tâm dạy bảo học sinh, luôn tìm tòi, sáng tạo để tìm ra cách dạy hay nhất.
3
Người thầy phải công bằng, công tâm đối với học viên, không bị “khúc xạ” bởi những
cám dỗ vật chất tầm thường, kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã
hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự.
Thứ tư, là rèn luyện tâm, người thầy phải có tâm huyết với nghề. Nghề giáo là
nghề cao quý nhất trong mọi nghề cao quý! Tâm yêu nghề thể hiện ngay trong bài
giảng của mình, trong từng trang giáo án mà người thầy hàng ngày bổ sung kiến thức.
Tâm huyết với nghề còn được đánh dấu và ghi nhận bằng sự sáng tạo của người giáo
viên trong sự nghiệp “trồng người”. Câu khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu” làm
kim chỉ nam hành động đối với những người làm công tác giáo dục, đào tạo. Hết lòng
trong từng tiết giảng, công tâm trong từng điểm chấm đối với học viên là biểu hiện rõ
nét của ý thức trách nhiệm ở từng giảng viên.
Những điều nêu trên đã thể hiện rõ rằng để làm một người giảng viên vừa có
năng lực vừa có phẩm chất đạo đức tốt không phải là một chuyện dễ dàng, nhất là khi
xã hội ngày này có nhiều thay đổi, bao gồm cả sự tác động tiêu cực của chính nền kinh
tế thị trường đến phẩm chất cũng như là năng lực của giảng viên. Trong năng lực và
phẩm chất luôn tồn tại một mối quan hệ song hành, chúng tương hổ và bổ sung cho
nhau. Nếu có năng lực mà thiếu đi phẩm chất cũng không xứng đáng với tư cách của
một người làm thầy và ngược lại. Vậy quan niệm và thực trạng của giảng viên đại học
ngày nay đối với mối quan hệ này như thế nào và tác động của nó đến nền giáo dục
Việt Nam ra sao? Bài tiểu luận này của nhóm tác giả sẽ đi vào phân tích, đặt vấn đề
cũng như là đưa ra các đề xuất, biện pháp để góp phần giải quyết những mâu thuẫn tồn
đọng, góp phần xây dựng một đội ngũ giảng viên có năng lực và phẩm chất, đáp ứng
yêu cầu của một nền giáo dục tiên tiến, vững mạnh.
4
1. Phẩm chất của người giảng viên
1.1. Định nghĩa về phẩm chất của giảng viên
Phẩm chất là những biểu hiện bản chất đạo đức của con người đã được rèn
luyện trong cuộc sống, tạo thành nếp sống, nếp nghĩ, nếp hành động vì cộng đồng,
được cộng đồng đánh giá.
Phẩm chất nhà giáo là thế giới quan của họ (hay nói cách khác là phẩm chất
chính trị của nhà giáo), nền tảng định hướng thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên. Bên
cạnh đó, phẩm chất, đạo đức, nhân văn của người thầy giáo thể hiện qua lòng thương
yêu con trẻ, thương yêu học trò.
1.2. Phân loại phẩm chất của giảng viên
1.2.1. Phẩm chất tư tưởng chính trị:
A. Thế giới quan khoa học:
Trong phẩm chất nhân cách của người giảng viên, yếu tố trước tiên là thế giới
quan khoa học. Đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những
quyết định niểm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng
của người dạy đối với người học.
Thế giới quan của giảng viên là thế giới quan duy vật biện chứng bao hàm
những quan điểm duy vật biện chứng về những quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Nó chi phối thái độ và cách thức hoạt động của giáo viên đối với việc lưa
chọn nội dung và phương pháp dạy học - giáo dục, việc kết hợp giáo dục và nhiệm vụ
chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống cũng như cách nhìn
nhận và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của người. Thế giới quan khoa học không phải
là bản tính tự nhiên của nhà giáo, nó được hình thành trong quá trình học tập của họ và
dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau.
5
B. Lý tưởng nghề nghiệp:
Giảng viên không phải là thợ dạy mà là nhà giáo thực thụ. Nhà giáo cũng có
những tiêu chuẩn chung, trước hết họ đều là những người có lý tưởng nghề nghiệp. Lý
tưởng nghề nghiệp của nhà giáo nói chung và giảng viên nói riêng là đem lại hạnh
phúc cho người đi học. Nó là cái hồn, là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của nhà
giáo.
Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp, tận tụy hi sinh vì
công việc, cần cù, có trách nhiệm, có lối sống giản dị và thân tình. Lý tưởng nghề
nghiệp không có sẵn mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động tích
cực của nhà giáo. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề ngày càng được nâng
cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng sâu sắc.
1.2.2. Phẩm chất đạo đức:
A. Lòng tin yêu con người và lòng yêu nghề:
Yêu quý và tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý
của con người, riêng đối với người giảng viên thì đây là phẩm chất đặc trưng trong
nhân cách của họ. Có phẩm chất đặc trưng này, người giảng viên sẽ nhận ra đúng
những ưu điểm và hạn chế của người học để từ đó có những biện pháp dạy học và giáo
dục phù hợp.
Lòng tin yêu con người và lòng yêu nghề của nhà giáo được biểu hiện ờ những
điểm cơ bản sau:
- Say sưa làm viêc hết mình, khi cần sẵng sàng hi sinh cả lợi ích cá nhân cho công
việc dạy học và giáo dục.
- Có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện bằng
được kế hoạch đề ra.
6
- Gần gũi, yêu thương quan tâm đối với những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và
tin tưởng vào khả năng và sự tiến bộ của họ.
- Nhà giáo luôn học tập tu dưỡng để nâng cao trình độ giáo dục của mình.
B. Đạo đức lối sống:
Nhà giáo tác động đến người học không những bằng những hành động trực tiếp
của mình mà còn bằng sự mẫu mực, bằng thái độ và hành vi của chính mình đối với thế
giới xung quanh. Để làm được đều đó, nhà giáo phải biết lấy các quy luật khách quan
là chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác phải có những phẩm chất
đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Những phẩm chất đạo đức và những phẩm chất ý
chí đó là tinh thần nghĩa vụ, tinh thần nhân đạo, lòng tôn trọng con người, thái độ công
bằng, tính ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn; tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên
nhẫn, tính tự kiềm chế, biết chiến thắng thói hư tật xấu; kỹ năng điều kiển tình cảm,
tâm trạng của bản thân cho phù hợp với tình huống sư phạm.
Trong thời đại mới, một số phẩm chất nhân cách dưới đây không những cần
thiết đối với giảng viên mà còn cần được hình thành từ người học:
- Lý tưởng nghề nghiệp
- Tính trung thực trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp
- Lòng tin, trước hết tin vào đạo học và tin vào chính mình.
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có
phẩm chất đạo đức thể hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và
trong lối sống, trở thành tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú,
chuẩn mực cho người học noi theo.
Cái phẩm chất của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vô tư “tất cả vì học sinh thân
yêu”, giúp đỡ người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử,
giúp đỡ trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là cho
7
điểm cao, dễ dãi đối với người học trong học tập. Phẩm chất ấy còn được biểu hiện ở
sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính bản thân
mình và trong đồng sự.
Dựa trên cơ sở tiêu chuẩn của Harry Murray ở đại học Western Ontario, một giáo
viên có phẩm chất tốt thường có những biểu hiện của các hành vi đặc trưng như sau:
(1) Nhiệt tình :
- Sử dụng cử chỉ, điệu bộ để thu hút sự chú ý và hứng thú của học sinh
- Nói có hồn và diễn cảm
- Đi lại hoặc cử động trong khi giảng
- Có điệu bộ (bàn tay, cánh tay) thích hợp, không kể những cử chỉ, điệu bộ
do thói quen cá nhân làm xao lãng sự tập trung của học sinh
- Duy trì sự giao tiếp bằng mắt với học sinh
- Đi lại trong lớp
- Không đọc lại bài giảng y nguyên như trong tài liệu, giáo trình
- Mỉm cười trong khi giảng
(2) Quan hệ
- Gọi tên học sinh khi hỏi, trao đổi
- Thông báo những dịp trao đổi ngoài giờ học
- Sẵn sàng giúp đỡ học sinh khi có vướng mắc
- Chấp nhận những quan điểm khác biệt
- Trò chuyện với học sinh trước hoặc sau giờ học
8
- Chấp nhận sự đa dạng ở học sinh cũng như sự đa dạng về đặc điểm văn hoá
của họ
(3) Lãnh đạo
- Thái độ công dân gương mẫu, là người thận trọng và tôn trọng sự đa dạng
(trong văn hoá)
- Mẫu mực và yêu cầu học viên có thái độ thích hợp cho việc dạy và học
- Mẫu mực trong cách tiếp cận các ý tưởng, khái niệm và tài liệu
- Đưa ra những đòi hỏi phù hợp với tất cả các mức năng lực của người học
- Thể hiện sự tôn trọng đối với tính đa dạng và yêu cầu lớp học cũng có một
thái độ tương tự
2. Năng lực của người giảng viên
2.1. Định nghĩa về năng lực của giảng viên:
Năng lực là tổng hợp các khả năng của giảng viên trong các lĩnh vực hoạt động
chuyên môn bao gồm giảng dạy và nghiên cứu.
2.2. Phân loại năng lực của giảng viên:
2.2.1. Năng lực chung và năng lực riêng:
Năng lực chung là loại năng lực mà bất kì ai làm việc cũng phải có mới đạt kết
quả tốt đẹp như năng lực sáng tạo, năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp
tác…
Năng lực riêng hay gọi là năng lực sư phạm là loại năng lực chuyên biệt bao
gồm năng lực tìm hiểu sinh viên và môi trường giáo dục, năng lực giáo dục nhân cách,
năng lực đánh giá kết quả giáo dục, năng lực phát triển nghề nghiệp, năng lực kết hợp
giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Và các kĩ năng bao gồm kĩ năng tổ chức lớp
9
học, soạn giáo án cụ thể như: kĩ năng tạo tình huống có vấn đề, kĩ năng thuyết trình
khúc chiết – mạch lạc – hấp dẫn – lí thú, kĩ năng đặt câu hỏi, ra bài tập đúng lúc, đúng
chỗ, đúng trọng tâm, đúng bản chất sáng tạo và thiết thực, kĩ năng trình bày bảng logic,
trực quan, kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học.
Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ với năng lực chung. Năng lực sư phạm
được thể hiện rõ ở người giáo viên như: phẩm chất trí tuệ (quan sát, sáng tạo), phẩm
chất ngôn ngữ (thuyết phục, nghiêm túc, logic), phẩm chất tưởng tượng là khả năng đặt
mình vào vị trí học sinh và hiểu họ.
Những giáo viên có kinh nghiệm và thâm niên công tác nhiều năm, có trình độ
đại học sư phạm thì vẫn có thể thiếu năng lực cần thiết. Thâm niên công tác không thể
hiện trình độ cao của tay nghề sư phạm mà muốn nắm vững tay nghề sư phạm thì phải
có năng lực sư phạm.
Như vậy, giảng viên phải có tài năng chung biểu hiện trong các năng lực chung
cũng như các năng lực riêng, thể hiện ở đặc điểm ngôn ngữ tư duy, tưởng tượng; biểu
hiện trong các nét ý chí, tính cách của ngừơi giáo viên và bị lôi cuốn bới các hoạt động
chuyên môn khác.
2.2.2. Chức năng của giảng viên :
Hiện nay ở các trường đại học lớn ở các quốc gia phát triển, giảng viên đại học
được định nghĩa trong ba chức năng chính: Nhà giáo, Nhà khoa học, và Nhà cung ứng
dịch vụ cho cộng đồng.
A. Giảng viên là nhà giáo:
Đây là vai trò truyền thống, nhưng quan trọng và tiên quyết đối với một giảng
viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là một người Thầy giỏi. Thế nào là một người
thầy giỏi? Đó là một người uyên bác về kiến thức chuyên ngành mà mình giảng dạy? –
Đúng nhưng chưa đủ, uyên bác về kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần, chứ
10
chưa phải điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi. Theo các nhà giáo dục thế giới thì một
giảng viên tòan diện là người có (được trang bị) 4 nhóm kiến thức/ kỹ năng sau:
- Kiến thức chuyên ngành: Kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành và
chuyên môn học mà mình giảng dạy.
- Kiến thức về chương trình đào tạo: Tuy mỗi giảng viên đều đi chuyên
về một chuyên ngành nhất định, nhưng để đảm bảo tính liên thông, gắn
kết giữa các môn học thì giảng viên phải được trang bị (hoặc tự trang bị)
các kiến thức về cả chương trình giảng dạy.
- Kiến thức và kỹ năng về dạy và học: bao gồm khối kiến thức về
phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và dạy / học trong từng
chuyên ngành cụ thể.
- Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo
dục, giá trị giáo dục… Đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm
nền tảng cho các hoạt động dạy và học.
B. Giảng viên là nhà khoa học:
Ở vai trò thứ hai này, giảng viên thực hiện vai trò nhà khoa học với chức năng
giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học chưa
có lời giải.
Ba chức năng chính của một nhà khoa học bao gồm : Nghiên cứu khoa học, tìm
cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các
kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước
và quốc tế). Trong vai trò nhà khoa học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm vững
kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ năng viết báo khoa
học.
C. Giảng viên là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội:
11
Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng viên đại học Việt Nam đang thực hiện –
nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng viên. Ở vai trò
này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên, cho các
tổ chức xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà
trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như tham gia công tác
quản lý, công việc hành chính, tham gia tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ
thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên… Với ngành của mình, giảng viên làm phản biện
cho các tạp chí khoa học, tham dự về tổ chức hội thảo khoa học.
Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên gia cũng thực hiện
các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức năng này, giảng viên
đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa nhanh các kiến thức khoa học
vào đời sống cộng đồng. Viết báo thời sự (khác với báo khoa học) là một chức năng
khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao
dân trí.
3. Thực trạng về quan niệm phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học
ngày nay
Phẩm chất và năng lực là yếu tố có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời đối
với người làm công tác giảng dạy. Ở môi trường giáo dục Cao đẳng và đại học thì hai
mối quan hệ này lại càng được nâng cao hơn, tinh tế hơn bao giờ hết do người giảng
viên phải giáo dục một lớp thế hệ trẻ đang sung sức, nhiệt huyết và sáng tạo, những
sinh viên trẻ này cần ở người giảng viên sự tận tâm, năng lực cao để họ làm nền tảng,
cơ sở cho hành trang bước vào con đường sự nghiệp lớn trong tương lai.
Thời kỳ đổi mới đòi hỏi sản phẩm giáo dục phải có phẩm chất, có năng lực đáp
ứng nhu cầu xã hội. Vì lẽ đó, phẩm chất và nhân cách nhà giáo cũng được quy định
thêm bởi nhiều yếu tố, nhưng cốt lõi vẫn là tri thức và lòng yêu thương học sinh. Nhà
giáo có thâm niên hay mới vào nghề muốn tồn tại và phát triển nghề nghiệp thì phải
12
luôn có ý thức gia tăng hàm lượng tri thức trong tư duy và bồi đắp thêm tình thương
yêu, tinh thần trách nhiệm trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, thực trạng ngày nay cho thấy hiện đang tồn tại những quan niệm của
chính giảng viên, hay những giảng viên chỉ có một trong hai yếu tố kể trên mà mất đi
yếu tố còn lại. Vậy thì quan niệm đó sẽ như thế nào và ảnh hưởng ra sao ?
3.1. Quan niệm phẩm chất quan trọng hơn năng lực
Có thể nói, đạo đức luôn là nền tảng của xã hội và là cái gốc của mỗi con người.
Do vậy, dù ở bất cứ xã hội nào thì giá trị đạo đức cũng phải được duy trì và giữ vững.
Hiện nay, trong thời cơ chế thị trường, khi mà những giá trị về vật chất đang chiếm ưu
thế trong xã hội, thì nó có nguy cơ đẩy lùi những giá trị về tinh thần. Và trong thời hội
nhập trước sự giao lưu mạnh mẽ và du nhập của nền văn hóa bên ngoài vào nước ta thì
đạo đức hay phẩm chất luôn là thứ nên được đề cao, nhấn mạnh để tránh bị ảnh hưởng
bởi các giá trị phẩm chất không phù hợp.
Giá trị của đạo đức muôn thưở vẫn là chữ NHÂN, chữ NGHĨA. Như Nguyễn
Trãi đã từng nói:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Và chính Hồ Chủ tịch cũng đã từng nói : « Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ». Đúng vậy, người biết giữ
vững giá trị đạo đức là người sống trung thực, thẳng thắn, công bằng và có lòng vị tha,
biết vui cái vui của người, biết buồn cái buồn của người. Đặc biệt không bị đồng tiền
và lối sống xa hoa của nên kinh tế thị trường quyến rũ, biết đi lên bằng chính đôi chân
của mình. Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc
làm kịp thời và đúng đắn nhằm giữ vững giá trị đạo đức của dân tộc Việt Nam đang
trên đà suy thoái.
13
Câu nói “cô giáo như mẹ hiền” và “mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương
sáng cho học sinh noi theo” vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, ở các trường Cao đẳng
và Đại học trên cả nước, một số những giảng viên có quan niệm cho rằng phẩm chất,
tức là cái đức của người thầy, quan trọng hơn năng lực (tức cái tài). Tuy nhiên, xét về
góc độ tổng thể, đây là một quan niệm sai lầm của một bộ phận giảng viên của nước ta.
Đồng ý rằng trước những trào lưu, trước nền kinh tế thị trường và các luồng
giao lưu văn hóa đang ngày càng xâm nhập nước ta thì giảng viên giữ được các tư cách
đạo đức, giữ được cái phẩm chất của một người thầy là một điều cực kỳ đáng trân
trọng. Họ là những người sẽ ươm mầm nên những thế hệ tương lai có đạo đức, có suy
nghĩ, sống có trách nhiệm và chính bản thân họ cũng sẽ „miễn nhiễm‟ trước những tiêu
cực do cuộc sống mang lại như „mua bán điểm số‟, „bệnh thành tích‟.v.v…
Nhưng chỉ có phẩm chất sẽ là chưa đủ để tạo nên một người giảng viên thật sự.
Thế kỷ XXI - thời đại của tri thức và khoa học công nghệ, những nhà giáo phải năng
động, tích cực tiếp thu những kiến thức mới, không ngừng học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm của một số bộ phận
giảng viên còn có nhiều hạn chế dù về mặt ý thức họ là người nghiêm túc cố gắng làm
hết sức mình nhưng kết quả giảng dạy, giáo dục đều không đạt đến điều mong muốn,
không thể đáp ứng nổi yêu cầu “đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục” hiện nay.
Một người giảng viên phải đáp ứng được các chức năng cơ bản kể trên, trong đó
có chức năng của một nhà nghiên cứu khoa học, một nhà giáo. Thật vậy, là một người
sẽ đứng vai trò truyền đạt kiến thức cho sinh viên, những thế hệ tương lai của đất nước
mà người giảng viên lại thiếu đi năng lực nghiên cứu, năng lực truyền đạt thông tin
kiến thức đến với sinh viên thì đó sẽ là một vấn đề lớn.
Đại học là bậc học cung cấp cho sinh viên khối lượng kiến thức khổng lồ và
những kỹ năng tư duy, kỹ năng cuộc sống cần thiết khi ra trường. Chính vì thế vai trò
của một người giảng viên là rất lớn. Nếu chính giảng viên đó không đủ khả năng trình
độ thì việc truyền đạt kiến thức và tư duy dành cho sinh viên sẽ không thể thực hiện
14
được. Khi đó giảng viên chỉ đóng vai trò là một người „nói suông‟, tức là trong sách có
bao nhiêu thì giảng lại bấy nhiêu, thiếu đi sự tư duy sáng tạo, tìm tòi ra những phương
pháp, những vấn đề mới trong khoa học để truyền đạt lại. Lúc đó giảng viên đó sẽ rơi
vào lối mòn tư duy, sẽ làm việc một cách máy móc. Bản thân giảng viên cũng sẽ không
đủ sức để giải đáp những điều mới mẻ, không đủ sức để nghiên cứu phát hiện những lý
luận mới phục vụ cho kiến thức nhận loại và công tác giảng dạy của mình. Những
người giảng viên thiếu đi năng lực kể trên sẽ khiến cho nền giáo dục bị chậm phát
triển, rơi vào tình trạng lạc hậu và thế hệ tương lai của quốc gia cũng sẽ trở thành
những „cái máy móc‟ vô hồn thiếu tư duy, kiến thức và kỹ năng dù cho bản thân họ có
là những nhà giáo mẫu mực, có phẩm chất tốt đi chăng nữa.
Vì vậy năng lực là một yếu tố rất quan trọng của giảng viên bên cạnh yếu tố về
phẩm chất đạo đức.
3.2. Quan niệm năng lực quan trọng hơn phẩm chất
Đối với xã hội nói chung, năng lực của một cá nhân biểu hiện được rằng anh
(hay chị) ta có khả năng thực hiện được công việc đối với bản thân và xã hội hay
không. Năng lực của một người được chi phối bởi nhiều yếu tố, bao gồm : kiến thức và
kỹ năng. Với việc Việt Nam ngày càng hội nhập với thế giới thì điều này đòi hỏi năng
lực đóng vai trò chủ đạo trong công việc để có thể đáp ứng và theo kịp với trình độ
phát triển chung toàn cầu.
Và nghề giáo cũng đặt vấn đề năng lực trở nên quan trọng. Một giảng viên Cao
đẳng, Đại học cần có trong mình năng lực trong giảng dạy và trong nghiên cứu để có
thể hướng dẫn sinh viên trở thành những người lao động có kiến thức và trình độ sau
khi ra trường, đáp ứng được yêu cầu từ phía xã hội cũng như các nhà tuyển dụng trong
và ngoài nước. Hiện ở Việt Nam đã có các nhà giáo, các giảng viên có đủ khả năng
trong công tác nghiên cứu và giảng dạy để phục vụ cho lợi ích „trồng người‟. Đây là
15
những người giảng viên thật sự đáng quý và cần thiết cho nền giáo dục cũng như sự
phát triển của nước ta.
Tuy nhiên, cũng như phần trước, hiện nay, dưới áp lực của nền kinh tế thị
trường, sự chi phối của yếu tố vật chất khách quan và chủ quan đã dẫn đến việc hình
thành nên quan niệm coi trọng năng lực hơn phẩm chất của một số giảng viên. Những
giảng viên này nhấn mạnh tầm quan trọng của năng lực hơn là phẩm chất, họ coi năng
lực là yếu tố tiên quyết để tạo nên một người thầy mà bỏ qua yếu tố về phẩm chất.
Quan niệm này đã dẫn đến những sai lầm trong tư duy và tạo ra một thế hệ giảng viên
thiếu đi phẩm chất cốt cách của bậc làm nhà giáo.
Những nhà giáo có năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm nhưng không nhiệt
tình, không tự giác, không say mê với nghề. Họ có thể làm tốt tùy hoàn cảnh không
thường xuyên. Số đông nhà giáo mắc bệnh nghề nghiệp: có thành tích trong giảng dạy,
nghiên cứu nên luôn cho mình là đúng coi thường những đóng góp của đồng nghiệp,
khó chịu với những thắc mắc của học sinh. Luôn nói nhiều, không chịu lắng nghe, luôn
đổ lỗi cho học sinh, cho cha mẹ học sinh và nhà trường, đồng nghiệp, còn bản thân
luôn cho là hoàn hảo.
Ngoài việc coi nhẹ thái độ ứng xử với sinh viên. Vài người trong số họ còn đặt ra
vấn đề về „vật chất‟, không giữ đúng tư cách người thầy. Từ đó nảy sinh ra bệnh „vòi
tiền‟ sinh viên, bệnh „mua bán điểm số‟ .v.v… Đây chính là điều nguy hại nhất. Các
hành động đó sẽ khiến cho sinh viên và xã hội dần mất niềm tin vào người giảng viên,
mất niềm tin vào người thầy và nền giáo dục Việt Nam. Hậu quả xa hơn nó sẽ gián tiếp
gây ra hiện tượng „chảy máu chất xám‟ cũng vì nguyên nhân mất đi lòng tin vào nền
giáo dục mà những người giảng viên là người trực tiếp tạo ra điều này.
Cho nên dù có năng lực về nghiên cứu và giảng dạy nhưng nếu giảng viên thiếu đi
phẩm chất, đạo đức thì người giảng viên đó sẽ thiếu đi tư cách tối thiểu nhất của một
người thầy. Và trước cuộc sống bộn bề những áp lực nhất là về vật chất thì người giảng
16
viên cần phải giữ mình và giữ phẩm chất cao quý mà xã hội đã ban tặng cho người
thầy. Như thế thì một giảng viên thật sự sẽ là một giảng viên vừa có năng lực vừa có
phẩm chất. Tuy nhiên, để có được cả hai yếu tố trên, chúng ta cần những giải phải từ
xã hội lẫn bản thân người giảng viên.
4. Giải pháp để nâng cao phẩm chất và năng lực của giảng viên đại học
Chất lượng dạy học phụ thuộc vào nhiều thành tố trong một hệ thống bao gồm:
Mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp dạy học, thầy và hoạt động của thầy,
trò và hoạt động của trò, môi trường giáo dục… Trong đó phương pháp dạy học là
thành tố trung tâm, giảng viên phải am hiểu sâu sắc nội dung dạy học, làm chủ kiến
thức, biết chế biến nó theo ý đồ sư phạm và biết cách truyền tải nó đến với sinh viên.
Mặt khác sinh viên là chủ thể trong học tập và tu dưỡng. Chủ thể phải tự giác, tích cực,
chủ động và sáng tạo trong quá trình học tập.
Cho nên có thể nói trong giai đoạn nào thì người giảng viên cũng cần có đủ năng
lực và phẩm chất để truyền tải hết nội dung bài giảng, truyền hứng thú gợi mở hướng
nghiên cứu và hiểu biết mới. Giảng viên nên tự ý thức được rằng, năng lực và phẩm
chất của người thầy phải luôn đi kèm với nhau, thiếu một trong hai ta không thể hoàn
thành tốt trách nhiệm của một nhà giáo với sinh viên với của mình. Từ đó, người dạy
luôn sẵn sàng học hỏi, tiếp thu cái mới không chỉ từ sách vở, từ xã hội bên ngoài mà
còn từ đồng nghiệp và chính sinh viên của mình. Được vậy giảng viên không những
uyên thâm về chuyên môn nghiệp vụ mà còn giàu tình yêu thương, đức vị tha, hiểu
người học của mình là ai để có thể có phương pháp dạy phù hợp nhất.
4.1. Giải pháp để nâng cao phẩm chất của giảng viên đại học
Để duy trì và giữ vững những chuẩn mực về đạo đức, nhân cách nhà giáo trong
giai đoạn hiện nay. Bản thân một người giảng viên phải luôn tự hoàn thiện mình về tư
tưởng và hành động. Điều này rất cần thiết cho các giảng viên trẻ. Bên cạnh đó, người
giảng viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật, sống và làm việc theo pháp luật. Cái tâm của
17
nhà giáo là tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu thương con người, tôn trọng lẻ phải,
có tâm hồn trong sáng, thích sự công bằng và đặt biệt là luôn gắn bó và tâm huyết với
nghề nghiệp.
Bản thân giảng viên khi đã chọn nghề giáo là phải tự nhận thức được các khó
khăn do nghề nghiệp này đem lại. Và có lẽ những ai chọn con đường giảng viên đa
phần vì mục đích yêu nghề. Vì thế tự bản thân mỗi giảng viên phải biết gìn giữ tình
yêu nghề nghiệp của chính mình, yêu nghề tức là yêu trường, yêu lớp, yêu sinh viên
không những trên giảng đường mà còn ngoài đời thường để ta có thể hiểu hơn về chính
sinh viên của mình.
Giảng viên không chỉ rèn luyện phẩm chất cho riêng mình mà cũng cần phải
cương quyết đấu tranh loại trừ những biểu hiện chạy theo thành tích, xúc phạm đến
nhân cách và thân thể sinh viên, hoặc các hành vi cố kiếm tiền bằng mọi hình thức, tự
đánh mất mình, làm ảnh hưởng chung đến uy tín của nghề giáo, mất lòng tin của xã
hội.
Phẩm chất của con người không phải ngày một ngày hai mà có, nó phải trải qua
quá trình hình thành lâu dài. Và để có được phẩm chất của một nhà sư phạm, người
giảng viên cần đổi mới cách nhìn nhận đối với sinh viên, sinh viên là người học nhưng
cũng là người mang lại kinh nghiệm và hướng sáng tạo mới cho giảng viên. Sinh viên
là đội ngũ trẻ, có sức sống, sức sáng tạo mãnh liệt - những năng lực dồi dào này giúp
họ có khả năng tốt nhất trong tiếp thu và nhìn nhận hình ảnh của người thầy Thay đổi
từ cách nhìn nhận với sinh viên là để người giảng viên đứng trên một khía cạnh khác
nhìn vào quá trình giảng dạy. Sinh viên giao tiếp với giảng viên để học tốt hơn, tiếp thu
kiến thức nhạy và nhiều hơn, giảng viên giao tiếp để truyền thông tin tốt hơn, sinh
viên dễ hiểu, dễ nắm bài hơn.
Dù biết rằng việc rèn luyện phẩm chất là việc cần thiết của tự bản thân mỗi giảng
viên nhưng những chủ thể bên ngoài như nhà trường và nhà nước cần có chế độ quan
18
tâm dành cho giảng viên, nhất là việc nâng cao thu nhập để giảng viên không còn phải
lo nghĩ về cuộc sống mà tập trung cho sự nghiệp giáo dục, từ đó các vấn nạn liên quan
đến đạo đức nhà giáo hiện nay sẽ suy giảm, góp phần tạo nên những thế hệ giảng viên
tốt cho nước nhà. Và không kém phần quan trọng, nhà trường và nhà nước cũng nên có
các biện pháp xử lý, chế tài nghiêm khắc dành cho các giảng viên thiếu phẩm chất, gây
ảnh hưởng đến uy tín của người giảng viên và nền giáo dục Việt Nam.
4.2. Giải pháp để nâng cao năng lực của giảng viên đại học
Để đảm bảo chất lượng giáo dục cũng như chức năng của một người giảng viên là
nghiên cứu khoa học và giảng dạy thì cần có những giải pháp nâng cao năng lực cũng
như hạn chế những tiêu cực trong các trường Đại học hiện nay.
Bản thân giảng viên phải tự nâng cao năng lực của chính mình thông qua các hoạt
động nghiên cứu khoa học. Việc tìm tòi nghiên cứu, tìm ra những vấn đề mới của tri
thức nhân loại sẽ góp phần tạo ra người giảng viên uyên bác, có tư duy lý luận cao,
kiến thức sâu rộng. Từ đó người giảng viên sẽ có thể truyền tải được cái tư duy lý luận
ấy đến với thế hệ sinh viên, khiến sinh viên sẽ cảm nhận được sự thay đổi, sự kì diệu
của khoa học, của thế giới quan. Năng lực nghiên cứu chỉ được hình thành và phát triển
khi tự mình phấn đấu một cách nỗ lực trong quá trình nghiên cứu. Trong thời đại công
nghệ thông tin như hiện nay, cứ một giây trôi qua lại có hàng nghìn thông tin, có hàng
nghìn ứng dụng được công bố, khám phá và nếu không có thông tin, bản thân không tự
cập nhật những kiến thức mới thì người giảng viên sẽ trở thành “người giảng dạy quá
khứ” cho sinh viên, đó không phải là điều sinh viên cần ở một người thầy
Bên cạnh đó, năng lực giảng dạy cũng là một yếu tố mà người giảng viên cần đặc
biệt chú ý. Có kiến thức, có tư duy không thì chưa đủ mà còn phải có khả năng truyền
đạt những kiến thức, tư duy đó đến với sinh viên. Đây là một trong những năng lực
tưởng chừng dễ nhưng lại rất khó. Khó là vì nếu chỉ nói theo những gì đã có trong bài
nghiên cứu của chính giảng viên hay chỉ nói theo những gì có trong các sách vở thì bài
19
giảng của giảng viên sẽ rất nhàm chán và thiếu đi tính hấp dẫn. Phải có kỹ năng truyền
đạt thì sinh viên mới cảm thấy hứng thú trong nghiên cứu khoa học, trong cảm thụ kiến
thức, từ đó sinh viên mới thật sự thấm được những điều giảng viên muốn dành cho họ.
Và để có năng lực giảng dạy này thì người giảng viên cần phải có thói quen quan
sát, học hỏi kinh nghiệm từ các bậc thế hệ giảng viên đi trước. Giảng viên phải tự đầu
tư, cập nhật kiến thức mới cũng như là nghiệp vụ sư phạm phù hợp để kiến thức có thể
đến với sinh viên nhanh nhất. Phương pháp dạy cần được thay đổi, từ chỗ lấy người
dạy là trung tâm sang lấy người học làm trung tâm của quá trình dạy - học. Phương
pháp này đòi hỏi giảng viên không chỉ có kiến thức trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt về
lĩnh vực mình đảm trách mà còn phải có phương pháp tổ chức việc học cho sinh viên.
Người giảng viên phải trở thành người đạo diễn, kích thích hoạt động cho học viên, là
“trọng tài khoa học” kết luận vấn đề do sinh viên trình bày. Phải hướng dẫn cho sinh
cách tự học, tự tìm kiếm kiến thức bằng suy nghĩ, hành động. Dưới sự tổ chức, hướng
dẫn của giảng viên thì học viên sẽ tự tìm cách chiếm lĩnh tri thức khoa học, tự giác rèn
luyện, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Qua phương pháp này, sinh
viên không chỉ tiếp thu tri thức với chất lượng và hiệu quả cao mà còn trau dồi được
cách phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phương pháp khám phá chân lý… và đó chính
là cơ sở để trau dồi, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác của sinh viên sau
này.
Giảng viên là người nói còn sinh viên là người nghe, đây là một quan niệm đã cũ
và không còn phù hợp vào hiện tại. Một giảng viên cần phải lắng nghe phản hồi của
chính sinh viên để có thể cải thiện được năng lực giảng dạy cũng như là năng lực
nghiên cứu của bản thân. Vì thế người giảng viên nên tạo điều kiện cho sinh viên đóng
góp ý kiến về cách dạy của giảng viên, thứ nhất là để người học cảm thấy được tôn
trọng, được đưa ra ý kiến, cách suy nghĩ của mình về người giảng viên. Thứ hai, giảng
viên có được những cách nhìn nhận đánh giá của sinh viên, thông qua đó phân tích
20
xem cách giảng dạy của mình có phù hợp chưa, sinh viên đóng góp ý kiến như vậy có
chính xác với những gì mình mong muốn thể hiện ở lớp học chưa?
Ngoài bản thân giảng viên tự nỗ lực nâng cao năng lực của chính mình, nhà
trường và nhà nước cũng nên tạo điều kiện vật chất và tinh thần tối đa nhất để hỗ trợ
người giảng viên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Sự hỗ trợ đó có thể bao gồm
việc cung cấp kinh phí trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ; nâng cao lương bổng cho
giảng viên để họ cảm thấy những gì họ bỏ ra là xứng đáng và một phần nữa có thể giúp
họ an tâm hơn trước bộn bề cuộc sống mà từ đó sẽ giúp họ tập trung toàn bộ trí lực vào
sự nghiệp „trồng người‟ và xây dựng nền khoa học nước nhà ; có sự đầu tư đúng đắn
cho các giảng viên trẻ, giảng viên tiềm năng bằng việc cử họ ra nước ngoài tiếp thu
những cái hay cái đẹp của các quốc gia đi trước để đem về làm cơ sở phát triển nền
khoa học trong nước… Và cuối cùng, nhà trường và nhà nước cũng cần đưa ra các biện
pháp xử lý nếu giảng viên không tự nâng cao năng lực, dẫn đến tình trạng giảng viên
thiếu năng lực đào tạo ra các sinh viên kém, hay tình trạng „chảy máu chất xám‟ ở Việt
Nam hiện nay. Các biện pháp giữa hỗ trợ và chế tài nên làm song song, không có cái
nào trước, cái nào sau. Khi đó thì nó mới đem lại hiệu quả và giúp tạo ra những giảng
viên đầy đủ năng lực thực sự.
21
KẾT LUẬN
Giáo dục đại học có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ như hiện nay. Và nhân tố người thầy là yếu tố hàng đầu để nâng cao chất
lượng giáo dục. Người giảng viên giỏi không phải là người truyền thụ cho sinh viên tất
cả những gì mình biết. Bởi, không ai có thể dạy được cho người học hết các kiến thức
mà cái chính là biết khơi dậy ngọn lửa của lòng đam mê học tập, nghiên cứu khoa học
của người học. Đây là cách để có được chất lượng và sự đổi mới căn bản trong hoạt
động đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này đòi hỏi ý
thức trách nhiệm, lòng nhiệt tình và sự say mê tâm huyết của mỗi giảng viên - nhân tố
chính trong việc nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường cao đẳng, đại học.
Giảng viên là những con người đã quyết định tham gia vào sự nghiệp trồng người, phải
nghiêm khắc rèn luyện bản thân về cả 2 mặt “đức” (phẩm chất) và “tài” (năng lực), để
trở thành một giảng viên chân chính, trở thành một tấm gương sáng để sinh viên noi
theo, góp phần phát triển nhân lực có ích cho xã hội.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Phương Nam – Hoàng Văn Lợi (2012). Thực trạng và giải pháp nâng cao
năng lực đội ngũ giảng viên đại học giai đoạn 2010-2015. Viện nghiên cứu Lập
pháp.
2. Nguyễn Thạc (cb) (2007). Tâm lí học Sư phạm Đại học. NXB Đại học Sư phạm
TP.HCM.
3. Thanh Chiến (2011). Quan niệm về người thầy trong xã hội hiện đại. Báo Đồng
Khởi.
4. La Giang (2013). Định hướng nhân cách cho sinh viên: Nhà trường thôi chưa đủ.
Báo Giáo dục Thời đại. />nhan-cach-cho-sinh-vien-nha-truong-thoi-chua-du-1973920/
5. Vũ Minh Giang (2006). Đổi mới giáo dục đại học bắt đầu từ giảng viên. Trường
Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
/>=492&Itemid=359
6. Hoàng Long. Suy nghĩ về người thầy tốt. Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân.
562
7. Đan Phượng (2012). Giảng viên đại học vừa mỏng, vừa yếu. Báo Tin Tức.
/>20120626091153534.htm
8. Minh Tư (2013). Phẩm chất người thầy. Báo Giáo dục Thời đại.