Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

tiểu luận giao dịch thương mại quốc tế thực trạng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành thủy sản của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.29 KB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng nhanh chóng
và trở thành một xu thế tất yếu đối với sự phát triển của các quốc gia, mở ra nhiều cơ
hội phát triển đồng thời gia tăng mối quan hệ giao lưu quốc tế. Trong đó, việc tham
gia vào hệ thống kinh doanh toàn cầu và chuỗi giá trị toàn cầu là một vấn đề được các
nước đặc biệt quan tâm và là thước đo hữu hiệu để đánh giá năng lực cạnh tranh trên
thị trường thế giới. Thực tế cho thấy, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đang là xu thế
phổ biến hiện nay, nó mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn.Vì thế các quốc gia, các
doanh nghiệp cần tìm cách để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị này, đặc biệt là với
một nước đang phát triển như Việt Nam.
Với ưu thế là một quốc gia ven biển, giàu tiềm năng về thủy sản, có thể nói
thủy sản là một mặt hàng đem lại giá trị kinh tế lớn, do đó từ lâu thủy sản đã giữ một
vai trò quan trọng đối với quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của nước ta. Tuy
nhiên hoạt động sản xuất, nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản vẫn chưa thật sự
mang lại hiệu quả cao do còn tồn tại một số trở ngại như trình độ về kỹ thuật, công
nghệ của nước ta còn hạn chế, chất lượng thuỷ sản chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường thế giới,...chính vì vậy giá trị tạo ra của ngành hàng thuỷ sản vẫn chưa được
cao. Việc tìm hiểu chuỗi giá trị toàn cầu, thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
ngành thuỷ sản của Việt Nam sẽ giúp cho ngành thuỷ sản nước ta phát triển bền vững,
nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, chúng em quyết định lựa chọn
đề tài: “Thực trạng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành thủy sản của
Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
Bài viết được chia làm 3 phần chính:
Chương I: Khái quát về chuỗi giá trị toàn cầu. Chương này sẽ bàn về những vấn đề
cơ bản và khái quát về chuỗi giá trị như khái niệm, các quan điểm và lợi ích của việc
tham gia chuỗi giá trị
Chương II: Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam đối với
ngành thuỷ sản. Chương này sẽ đi sâu hơn vào việc phân tích và đánh giá thực trạng



việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam, đặc biệt là trong ngành thuỷ sản nói
riêng.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao vị thế của Việt Nam
trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với mặt hàng Thủy sản. Đề xuất một số giải pháp
nhằm hạn chế những điểm mạnh và nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị
toàn cầu đối với mặt hàng thuỷ sản.


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
1. Khái niệm:
1.1 Chuỗi giá trị:
Chuỗi giá trị, hay còn được biết đến là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm
từ quản lý kinh doanh đã được Michael Porter mô tả và phổ cập lần đầu tiên vào năm
1985 trong một cuốn sách về phân tích lợi thế cạnh tranh của ông: “ Chuỗi giá trị là
chuỗi của các hoạt động của một công ty hoạt động trong một ngành cụ thể. Sản phẩm
đi qua tất cả các hoạt động của một công ty hoạt động một ngành nghề cụ thể. Sản
phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản xuất
thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động mang lại sản phẩm nhiều giá trị
gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của các hoạt động cộng lại.”
Tiếp đó, nhà nghiên cứu Kaplins Raphael đã đưa ra khái niệm về chuỗi giá trị
trong phân tích toàn cầu hóa: “Chuỗi giá trị là cả loạt những hoạt động cần thiết để
biến một sản phẩm hoặc mộ dịch vụ từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn
sản xuất khác nhau (bao gồm một kết hợp giữa sự biến đổi vật chất và đầu vào các
dịch vụ sản xuất khác nhau), đến khi phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng và
vứt bổ sau khi đã sử dụng”. Và một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham
gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra tốt đa giá trị cho chuỗi.
Như vậy, ta có thể giải thích định nghĩa về chuỗi giá trị theo nghĩa hẹp hoặc
nghĩa rộng. Trong nghĩa hẹp, một chuỗi giá trị bao gồm một loạt các hoạt động thực
hiện trong một công ty để sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Các hoạt động này bao
gồm nhiều giai đoạn: giai đoạn đưa ra ý tưởng, thiết kế sản phẩm, chuẩn bị nguyên vật

liệu, sản xuất, marketing, phân phối sản phẩm và hậu mãi. Tất cả những hoạt động này
liên kết với nhau thành “chuỗi” kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng và bổ
sung giá trị cho thành phẩm cuối cùng.
Tuy nhiên thì trong thực tế, các chuỗi giá trị thương phức tạp hơn nhiều so với
chuỗi giá trị trên. Chuỗi giá trị theo nghĩa rộng là một phức hợp những hoạt động do
nhiều người tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến,
thương nhân, người cung cấp dịch vụ) để biến một nguyên liệu thô và chuyển dịch


theo các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong kinh doanh, lắp ráp, chế biến,…
Các tiếp cận theo nghĩa rộng không xem xét đến các hoạt động do một doanh nghiệp
duy nhất tiến hành, mà nó xem xét cả các mối liên kết ngược xuôi cho đến khi nguyên
liệu thô được sản xuất và kết với với người tiêu dùng cuối cùng.
Chuỗi giá trị là một khái niệm được đề cập nhiều trong thời gian gần đây bởi ý
nghĩa to lớn đối với các quốc gia trên con đường hội nhập. Phân tích chuỗi giá trị cho
chúng ta một bức tranh sinh động về việc tạo ra giá trị gia tăng của ngành tham gia
vào chuỗi cũng như của từng doanh nghiệp.
Phân loại chuỗi giá trị
- Chuỗi giá trị giản đơn: Chuỗi giá trị giản đơn bao gồm toàn bộ các
hoạt động nhằm biến một sản phẩm hay dịch vụ từ chỗ ý tưởng qua các công đoạn sản
xuất, chế biến, phát triển, phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng và dịch vụ sau bán
hàng, thanh lý hay tái chế. Chuỗi giá trị là một thực thể phức tạp bao gồm nhiều công
đoạn mà nhà sản xuất chỉ là một trong số mắt xích tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Mặc dù chuỗi giá trị thường được mô tả là chuỗi liên kết theo chiều dọc nhưng các
liên kết trong chuỗi thường có quan hệ hai chiều thuận nghịch, như việc thiết kế
không chỉ tác động đến tính chất của quá trình sản xuất và marketing mà bản thân nó
còn phải chịu tác động ngược của các liên kết trong chuỗi. Tóm lại, chuỗi giá trị bao
gồm toàn bộ các hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm từ nhận thức, quan niệm tới
tay người tiêu dùng cuối cùng và xa hơn. Chuỗi này bao gồm các công việc như thiết
kế, sản xuất, marketing, phân phối và dịch vụ khách hàng.

- Chuỗi giá trị mở rộng: Trên thực tế, chuỗi giá trị không chỉ là những
liên kết như trong chuỗi giá trị giản đơn mà nó còn được phát triển thêm các liên kết
khác nhau. Chuỗi giá trị gỗ là một ví dụ điển hình của chuỗi giá trị mở rộng bởi vì các
liên kết trong chuỗi giá trị gỗ được phát triển bắt đầu từ hoạt động gieo hạt, cung cấp
hóa chất, bơm nước để trồng rừng, sau đó gỗ được khai thác và đưa về xưởng để làm
nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất đồ nội thất. Doanh nghiệp sử dụng máy móc,
các chất liệu phụ trợ như keo dính, sơn để làm ra các sản phẩm nội thất từ gỗ theo yêu
cầu của thị trường và khách hàng đến từ những quốc gia khác nhau. Và tùy thuộc vào


yêu cầu của thị trường, đồ gỗ nội thất được phân phối qua các khâu trung gian khác
nhau rồi mới đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
- Chuỗi giá trị kết hợp: Chuỗi giá trị kết hợp về bản chất là sự kết hợp
bởi các chuỗi đơn lẻ tại đó các nhà cung cấp chính có thể tham gia vào việc gia tăng
giá trị trong những chuỗi khác nhau. Chuỗi giá trị của ngành sản xuất giấy và bột giấy;
ngành sản xuất đồ gỗ nội thất và ngành khai thác khoáng sản là những chuỗi đơn lẻ
những nguyên liệu được cung cấp cho những ngành sản xuất này đều bắt nguồn từ
ngành lâm nghiệp. Và vai trò của từng chuỗi giá trị đơn lẻ là tương đương nhau. Trong
một vài trường hợp, những chuỗi này chỉ thu hút một lượng khách hàng nhỏ; hoặc
cũng có khi lượng khách hàng của các chuỗi này được phân bổ đều nhau. Và thị phần
mà chuỗi giá trị kết hợp tạo ra tại những thời điểm khác nhau thì không giống nhau.
Sự thay đổi về chiến lược kinh doanh và công nghệ của một ngành sản xuất nào đó có
thể làm cho lượng khách hàng nhà cung cấp nhỏ có khả năng phát triển mạnh trong
tương lai. Hơn nữa, thị phần sẽ ảnh hưởng đến vị thế của một nhà cung cấp nào đó
trong chuỗi, những người kiểm soát công nghệ chủ chốt hoặc nguyên liệu sản xuất.
1.2. Chuỗi giá trị toàn cầu:
Dựa trên quan điểm của Michael Porter, năm 2002 hai nhà khoa học Mỹ là
Raphael Kaplinsky và Mike Morris đã đưa ra khái niệm: "Chuỗi giá trị toàn cầu là
một dây chuyền sản xuất kinh doanh theo phương thức toàn cầu hoá trong đó có nhiều
nước tham gia, chủ yếu là các doanh nghiệp tham gia vào các công đoạn khác nhau từ

thiết kế chế tạo tiếp thị đến phân phối và hỗ trợ người tiêu dùng". Như vậy, những
nhân tố đóng vai trò then chốt trong mỗi khâu trong chuỗi là những doanh nghiệp tại
những quốc gia khác nhau tham gia vào chuỗi giá trị bằng những công đoạn khác
nhau như nghiên cứu và phát triển sản phẩm, cung cấp nguyên liệu đầu vào, thiết kế
sản phẩm, sản xuất, phân phối.
Với xu thế phát triển tất yếu của toàn cầu hoá, có thể khẳng định việc nhận biết
những lợi thế cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp, tham gia vào chuỗi, nâng cấp vị
thế doanh nghiệp trong chuỗi, trở thành chủ thể chính của những khâu có giá trị gia
tăng cao nhất là mục tiêu chiến lược lâu dài của những doanh nghiệp, quốc gia trong
quá trình nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu.


Phân loại chuỗi giá trị toàn cầu:
Mỗi ngành có một đặc thù và tính chất khác nhau vì thế các yếu tố như vốn,
công nghệ, lao động, quy mô sản xuất,... sẽ được sử dụng khác nhau tùy vào từng
ngành và từng doanh nghiệp, dẫn đến việc mỗi chuỗi giá trị lại mang một tính chất
khác nhau. Theo xu hướng hiện nay, các công ty thường tham gia vào tiến trình toàn
cầu hóa bằng việc thiết lập hai mạng lưới kinh tế toàn cầu. Đây cũng có thể coi là hai
loại hình chuỗi giá trị toàn cầu, đó là chuỗi giá trị toàn cầu hướng theo nhà sản xuất và
chuỗi giá trị hướng theo người mua.
- Trong chuỗi giá trị toàn cầu hướng theo nhà sản xuất (producer driven),
những tập đoàn, doanh nghiệp sản xuất lớn, uy tín đóng vai trò chủ đạo trong việc kết
nối, điều phối mọi hoạt động trong hệ thống sản xuất (bao gồm cả liên kết ngược
chiều và xuôi chiều). Đặc điểm nổi bật của chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối đó
là có mạng lưới sản xuất rộng rãi (có nhiều công xưởng, nhiều chi nhánh tại nhiều
nước trên thế giới), mạng lưới những nhà phân phối, nhà bán lẻ, nhà nghiên cứu thị
trường đa dạng, rộng khắp vượt ra khỏi phạm vi trong một quốc gia.
Đây chính là các ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao như ô tô, máy bay, máy vi
tính, chất bán dẫn, chế tạo máy. Vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này thuộc về các
công ty đa quốc gia và lợi nhuận sẽ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, số lượng và sự

ứng dụng các vượt trội về công nghệ. Các công ty hàng đầu trong chuỗi giá trị toàn
cầu theo hướng toàn cầu hoá thường là các công ty sản xuất.
- Chuỗi giá trị toàn cầu hướng theo người mua (buyer driven) bao gồm các nhà
bán lẻ lớn, các nhà marketing, nghiên cứu thị trường, nhà thiết kế có thương hiệu
mạnh có vai trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung ở các
nước xuất khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển. Đặc điểm chung của mô hình chuỗi giá trị do người mua chi phối là những nhà
chế tạo không có công xưởng, những sản phẩm, vật chất họ tạo ra là những mẫu thiết
kế. Họ tạo ra những mối liên kết với những nhà sản xuất và công xưởng trên khắp thế
giới để sản xuất ra sản phẩm họ cần và phân phối sản phẩm đó tới người tiêu dùng.
Mô hình này là đặc trưng chung của các ngành thâm dụng lao động, sản xuất hàng tiêu
dùng như dệt may, da giầy, đồ chơi,… Trong hệ thống này các nhà thầu của thế giới


thứ ba chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm cuối cùng cho người tiêu dùng nước ngoài.
Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà bán buôn đặt hàng cung cấp các sản phẩm với các đặc
tính rõ ràng.
Ngoài ra chuỗi giá trị toàn cầu còn có thể phân loại theo hai dạng là chuỗi giá trị ngắn
và chuỗi giá trị dài.
- Chuỗi giá trị ngắn thường xảy ra trong ngành công nghiệp khai khoáng, chế
biến thô thông qua khai thác - sơ chế - thương mại - tiêu thụ.
- Chuỗi giá trị dài thường được chú trọng từ khâu thiết kế, marketing,.. mới
định ra các khâu của chuỗi. Các sản phẩm chế biến sâu, các sản phẩm công nghệ
cao,... thường áp dụng chuỗi giá trị từ các khâu nghiên cứu phát triển - vệ tinh chế tạo
- sản xuất và lắp ráp - marketing - phân phối - tiêu thụ.
2. Lợi ích của việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Trước hết, chuỗi giá trị toàn cầu đã có tác động mạnh mẽ tới phân công lao
động quốc tế, giúp thay đổi cấu trúc kinh tế ở cả nhóm nước đang phát triển và nhóm
nước có nền kinh tế mới nổi cả về tốc độ và quy mô hợp tác kinh tế. Quá trình phân
tán sản xuất diễn ra trên hai phương diện: phân tán sản xuất theo vị trí địa lý, cụ thể là

theo quy mô từng vùng, miền trên thế giới; việc phân tán gắn với hình thành các trung
tâm công nghiệp. Đối với nhóm nước đang phát triển, đang ở giai đoạn đầu thực hiện
công nghiệp hóa, chuỗi giá trị toàn cầu giúp tận dụng được lợi thế thương mại, đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, làm thay đổi chiến lược phát triển kinh tế và thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước. John và Kierzkowski (1990) đặt lý thuyết về
phân chia lẻ công đoạn sản xuất trong một quá trình sản xuất ở các nước khác nhau để
giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Việc chia nhỏ công đoạn sản xuất được
dựa trên cơ sở lợi thế thương mại của từng vùng, miền, quốc gia liên quan tới các yếu
tố sản xuất (lao động, vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên…) và giai đoạn phát
triển của từng quốc gia. Lợi thế nổi bật của các nước đang phát triển là nguồn nhân
lực giá rẻ với lực lượng lao động thuộc nhóm dân số vàng. Điều này cho phép các
quốc gia thực hiện công nghiệp hóa ở giai đoạn đầu theo hướng tham gia vào mạng
lưới sản xuất quốc tế từ những sản phẩm có hàm lượng lao động lớn như dệt may, chế


biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ, sản xuất linh kiện máy móc… Bên cạnh đó, việc
tham gia vào phân công lao động quốc tế và mạng lưới sản xuất cũng giúp các nước
thay đổi cơ cấu kinh tế, thể hiện tỷ trọng máy móc được sử dụng trong sản xuất tăng
lên. Thay đổi cơ cấu kinh tế còn được hiểu là bước nhảy vọt, từ việc tham gia vào quá
trình sản xuất giản đơn giữa các quốc gia, chuyển sang quá trình sản xuất phức tạp
hơn, kết hợp các giao dịch giữa trong và ngoài ngành giữa các nước.
Với các nước khu vực Đông Á, trình độ phát triển kinh tế tương đối khác nhau
sẽ là một lợi thế. Nó cho phép bất kỳ nước nào cũng có khả năng đảm nhận một công
đoạn trong mạng lưới sản xuất và có khả năng kết hợp mở rộng sang các ngành khác.
Thực tế chứng minh rằng, mạng lưới sản xuất ở các nước Đông Á đã đạt tới giai đoạn
phát triển cao hơn so với các khu vực khác trên thế giới như các nước Mỹ La tinh,
Đông Âu, bởi các nước Đông Á đồng thời tham gia phân công lao động quốc tế và
hình thành các trung tâm công nghiệp.
Đối với nhóm nước phát triển trung bình có nền kinh tế mới nổi: Chuỗi giá trị
toàn cầu đòi hỏi phát triển các giao dịch trong và ngoài ngành, là bước tích lũy ban

đầu cho sự ra đời của các trung tâm công nghiệp ở các nước có trình độ phát triển cao
hơn. Những lợi thế hiển nhiên mà trung tâm công nghiệp mang lại cho các nước là:
Thứ nhất, khi các trung tâm công nghiệp được hình thành, cấu trúc công nghiệp
của các nước trở nên tương đối ổn định trong một chừng mực nào đó. Các ngành,
nghề sản xuất sẽ tuân thủ theo quy luật tự nhiên và thị trường, hướng tới các vùng,
miền có lợi thế về sản xuất như vùng có nguồn nhân công giá rẻ. Khi ngành, nghề sản
xuất ban đầu được hình thành (gọi là lõi của trung tâm công nghiệp), bản thân nó cũng
sẽ trở thành một lợi thế, kéo theo các ngành công nghiệp khác bổ trợ. Từ đó, quốc gia
có thể thay đổi cấu trúc công nghiệp theo hướng bền vững và tăng khả năng cạnh
tranh.
Thứ hai, các doanh nghiệp địa phương có cơ hội tham gia vào mạng lưới sản
xuất dưới sự điều hành của các công ty đa quốc gia. Mặc dù các doanh nghiệp địa
phương phải đối mặt với những vấn đề cạnh tranh phi giá như chất lượng sản phẩm
không đồng nhất, giao hàng không đúng hạn, yếu tố tin tưởng trong kinh doanh chưa
được thiết lập… và việc có được tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hay không hoàn


toàn phụ thuộc vào chiến lược phát triển của công ty đa quốc gia, nhưng khi các công
ty nội địa đạt được ngưỡng cạnh tranh nhất định thì các công ty đa quốc gia chính là
cánh cửa mở ra cho công ty nội địa bước vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Thứ ba, khi trung tâm công nghiệp được hình thành, mối quan hệ giữa công ty
trong nước và các công ty đa quốc gia càng chặt chẽ hơn thông qua kênh chuyển giao
và tiếp cận công nghệ. Một khi công ty nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,
việc chuyển giao kiến thức về công nghệ, kỹ năng quản lý, cách thức tiếp cận thị
trường, nghiên cứu và phát triển… sẽ là điều tất yếu.
Theo báo cáo năm 2017 của Ngân hàng Thế giới (WB) Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), OECD, Viện nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển (IDEJETRO) và Trung tâm nghiên cứu về chuỗi giá trị toàn cầu của Đại học Kinh tế và
Kinh doanh Quốc tế (UIBE), các chuỗi giá trị toàn cầu góp phần gia tăng năng suất,
tăng trưởng nhanh hơn và mang lại lợi ích cho toàn thể người dân. Báo cáo cũng chỉ
ra rằng các nước có thể tối đa hóa lợi ích của chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách chuyển

sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn, giảm chi phí thương mại và làm cho
chuỗi giá trị toàn cầu toàn diện hơn. Báo cáo cho thấy nhiều nhân tố xác định một
quốc gia tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào. Chi phí thương mại
phi thuế quan như cước phí, bảo hiểm, quy định, thủ tục hành chính hoặc các kết nối
giao thông vận tải đều rất quan trọng vào sự tham gia chuỗi. Theo Báo cáo, trong một
số chuỗi giá trị phức tạp như động cơ xe máy, máy tính hoặc máy móc, chi phí thương
mại phi thuế quan cao hơn 4 lần so với thuế quan. Do vậy, việc giải quyết các chi phí
thương mại này là điều kiện then chốt để cải thiện khả năng tham gia các chuỗi và tối
đa hóa lợi ích. Trong bối cảnh đó, các hiệp định thương mại đa phương giữ một vai trò
quan trọng trong việc giảm chi phí thương mại và đảm bảo rằng tất cả các nền kinh tế,
nhất là những nước nghèo, có thể hưởng lợi từ giảm chi phí thương mại. Các hiệp
định thương mại ưu đãi (PTA) cũng có thể rất hữu ích vì thường mang lại những cam
kết sâu hơn trong những lĩnh vực cụ thể.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ
TOÀN CẦU CỦA VIỆT NAM NGÀNH THỦY SẢN
1.Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toán cầu của Việt Nam
1.1 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong 2 năm trở lại đây
1.1.1 Quy mô thị trường xuất khẩu năm 2019
Bước vào năm 2019, trước diễn biến tình hình chiến tranh thương mại Mỹ Trung ngày càng căng thẳng, song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tương đối khả
quan. Báo cáo kinh tế - xã hội do Tổng cục Thống kê công bố, tính chung 5 tháng đầu
năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 100,74 tỷ USD, tăng
6,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 30,33 tỷ
USD, tăng 11,6%, chiếm 30,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 70,41 tỷ USD, tăng 4,7%, chiếm 69,9% (tỷ trọng giảm
1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Trong 5 tháng, có 19 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm
84,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại và linh kiện có giá trị xuất
khẩu lớn nhất đạt 19,9 tỷ USD, chiếm 19,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu,

tăng 3% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD,
tăng 11,1%; hàng dệt may đạt 12,1 tỷ USD, tăng 10,3%; giày dép đạt 7,1 tỷ USD, tăng
14,3%...
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, trong 5 tháng đầu năm 2019, Hoa Kỳ là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 22,6 tỷ USD, tăng 28% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 109,2%; điện tử, máy
tính và linh kiện tăng 58,4%; hàng dệt may tăng 9,8%. Tiếp đến là thị trường EU đạt
17,3 tỷ USD, tăng 1,9%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 21,1%;
giày dép tăng 7,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 3,2%.
Trung Quốc đạt 13,4 tỷ USD, giảm 2,6%, trong đó thủy sản giảm 11,8%; điện
thoại và linh kiện giảm 56,6%; gạo giảm 78,7%. Thị trường ASEAN đạt 10,6 tỷ USD,
tăng 5,2%, trong đó hàng dệt may tăng 31,6%; sắt thép tăng 19,4%; máy móc thiết bị,


dụng cụ phụ tùng tăng 12,8%... Đây là kết qua khá ấn tượng trong bối cảnh chiến
tranh thương mại Mỹ – Trung ngày càng leo thang, cùng với những động thái giữa Mỹ
– Ấn cho thấy, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra cho cả năm 2019.
Biểu đồ: 10 nhóm hàng xuất khẩu đạt mức tăng lớn nhất về trị giá trong 10
tháng/2019:

Nguồn: Tổng cục hải quan

1.1.2 Quy mô thị trường xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2020
Mặc dù hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn do dịch
COVID-19 nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 2 tháng đầu năm 2020
vẫn tang so với cùng kỳ năm ngoái, thậm chí thuế xuất khẩu giảm mỗi ngày 150 tỷ
đồng do Covid-19
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khối các doanh nghiệp trong nước (tăng
6%) tiếp tục cao hơn tốc độ tăng của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (tăng 0,9%), qua đó đưa tỷ trọng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong

nước trong cơ cấu xuất khẩu tiếp tục tăng (chiếm trên 31%).


Theo Tổng cục Thống kê, một số mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao gồm: Điện
thoại và linh kiện đạt 6,9 tỷ USD, tăng 2,3%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,4 tỷ
USD, tăng 26,7%; hàng dệt may đạt 4,5 tỷ USD, giảm 1,7%; máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng đạt 3 tỷ USD, tăng 19,6%; giày dép đạt 2,7 tỷ USD, tăng 3%; gỗ và sản
phẩm gỗ đạt 1,5 tỷ USD, tăng 7,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD,
tăng 4%.
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản giảm nhiều so
với cùng kỳ năm trước như thuỷ sản, cà phê, rau quả. Riêng gạo đạt 372 triệu USD,
tăng 20,5% (lượng tăng 15%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2020 với kim ngạch đạt 9,8 tỷ USD, tăng 19,6% so
với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc đạt 4,8 tỷ USD, tăng 3,7%; thị trường EU đạt 5 tỷ
USD, giảm 7,7%; ASEAN đạt 3,5 tỷ USD, giảm 9,3%; Nhật Bản đạt 3,2 tỷ USD, tăng
8,9%; Hàn Quốc đạt 2,7 tỷ USD, giảm 6,5%.
1.1.3 Các cơ hội mang lại từ hội nhập đối với ngành xuất khẩu
Không chỉ chủ động tham gia các hoạt động ngoại thương, các DN cũng tận
dụng tốt hơn cơ hội từ hội nhập. Theo đó, ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký
kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận sự tăng trưởng vượt trội, thị phần
xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm được khẳng định. Tăng trưởng xuất khẩu trên
nhiều thị trường, đạt mức hai con số như: Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 41,2 tỷ
USD, tăng 16,6% so với năm 2017; Xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 24,74 tỷ
USD, tăng 13,9%; Xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ USD, tăng 11,8%, xuất khẩu
sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%.
Nhiều mặt hàng xuất đã khẩu tận dụng tốt cơ hội từ cắt giảm thuế quan tại các
thị trường có FTA để tăng trưởng. Sau khi Hiệp định AANZFTA có hiệu lực, với mức
thuế suất thuế nhập khẩu về 0%, xuất khẩu điều sang Australia tăng trưởng bình quân
đạt 12,9%/năm; Thủy sản đạt 6,9%/năm; Hồ tiêu xuất khẩu sang Nhật Bản tăng

trưởng đạt 12,8%/năm; Cà phê đạt 8,0%/năm sau khi Hiệp định VJFTA có hiệu lực;
hay hồ tiêu xuất khẩu sang Ấn Độ tăng trưởng đạt 14,3%/năm, thủy sản đạt 12,3%


năm sau khi Hiệp định AIFTA có hiệu lực; sau khi Hiệp định Việt Nam - EAEU có
hiệu lực, hạt điều xuất khẩu sang Liên bang Nga tăng 59,6%, rau quả tăng 19,9%, dệt
may tăng 53,5%...
1.1.4 Những chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất khẩu
Một là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, với
quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng.
Theo Bộ Công Thương, trong năm 2018, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục
đảm bảo định hướng được đề ra tại Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ
2011-2020, định hướng đến năm 2030. Chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu hàng hóa
xuất nhập khẩu vẫn là nhóm hàng công nghiệp với tỷ trọng 82,8% (tăng 1,7% so với
năm 2017), tiếp đến là nhóm hàng nông sản, thủy sản chiếm 10,9% (giảm 1,2% so với
năm 2017) và nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản chỉ còn chiếm 1,9% tổng kim ngạch
xuất khẩu (giảm 0,3% so với năm 2017).
Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên tăng qua các năm,
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu như năm 2011,
có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81% tổng kim ngạch
xuất khẩu thì đến năm 2018 có 29 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
(trong đó, nhóm nông sản, thủy sản đóng góp 6 mặt hàng, nhóm hàng công nghiệp
đóng góp 21 mặt hàng và nhóm nhiên liệu, khoáng sản đóng góp 2 mặt hàng).
Hai là, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới. Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam
có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt. Tăng
trưởng xuất khẩu trên nhiều thị trường đạt mức hai con số như xuất khẩu sang Trung
Quốc đạt 41,2 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2017; xuất khẩu sang thị trường
ASEAN đạt 24,74 tỷ USD, tăng 13,9%; xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ USD,
tăng 11,8%; xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%...

Ba là, việc tham gia các FTA nói chung và CPTPP nói riêng có tác động tích
cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và công tác phát triển thị trường xuất
khẩu.


Thống kê cho thấy, tính đến tháng 5/2019, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 55
đối tác thương mại thông qua việc ký kết 13 FTA và đang đàm phán 03 FTA khác.
Hiện nay, DN Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên
tham gia FTA đều có cơ hội hưởng lợi ích. Chẳng hạn, đối với CPTPP, DN xuất khẩu
Việt Nam được hưởng những cam kết cắt giảm thuế quan ở mức cao, cụ thể như: Với
Australia là trên 93% số dòng thuế (tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường này); cam kết cắt giảm thuế của Canada lên đến 94,9% số dòng
thuế (tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam); với Nhật Bản, cam kết
cắt giảm thuế tốt hơn nhiều so với trong Hiệp định FTA song phương giữa 2 nước
(như cam kết xóa bỏ ngay 86% số dòng thuế, tương đương 93,6% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm)…
CPTPP mở ra cơ hội để một số nhóm hàng phát triển bởi những cam kết rất
"mở", tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu ở cả nhóm hàng nông, lâm thủy sản và
nhóm hàng công nghiệp. Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm,
đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải,
máy móc và các trang thiết bị khác. Bên cạnh đó, CPTPP tạo điều kiện để cơ cấu lại
thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, bởi hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam chủ yếu với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50%
kim ngạch xuất khẩu). Các FTA mới sẽ giúp DN có điều kiện thâm nhập, khai thác các
thị trường mới, thị trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
1.2 Vị trí Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Nhiều ngành quan trọng với Việt Nam như dệt may, giầy dép, đồ điện tử đều
nằm ở khâu trung nguồn của chuỗi giá trị. Kể từ khi mở cửa thương mại và đầu tư,
Việt Nam dần trở thành điểm quan trọng trong mạng lưới thương mại toàn cầu và nổi
lên như một công xưởng của châu Á.

Cấu trúc thương mại của Việt Nam cho thấy tỷ lệ nhập khẩu hàng hoá trung
gian lớn, biểu hiện sự tham gia mạnh về phía sau hơn về phía trước trong chuỗi giá trị
toàn cầu.Nhờ mô hình nhập khẩu để xuất khẩu, Việt Nam đã có tăng trưởng liên tục
trong suốt thập kỷ vừa qua, giúp giải quyết việc làm, dự trữ ngoại hối và cải thiện đời
sống.


Theo tính toán của VEPR từ số liệu của OECD, tỷ lệ tham gia chuỗi giá trị toàn
cầu (GVC) của Việt Nam năm 2015 là 56%, nhảy vọt lớn so với 34% của năm
1995.Tuy nhiên, sự gia tăng này chỉ đến từ liên kết sau, chiếm 45% trong khi liên kết
trước chỉ 11%.
Về mặt vị trí trong chuỗi giá trị, không có ngành điện tử nào ở vị trí thượng nguồn khi
chỉ số vị trí GVC của các ngành đó đều âm.
Ngành vận tải, bán buôn và bán lẻ đều có chỉ số vị trí lớn hơn chỉ số vị trí GVC, nằm
ở hạ nguồn. Các ngành khác gồm cả những ngành quan trọng đối với Việt Nam như
dệt may, tất, giầy dép, máy móc, đồ điện tử hay máy móc tự động đều nằm ở khâu
trung nguồn.
Nói tóm lại,trong ngắn hạn, Việt Nam chưa thể thoát khỏi khâu trung nguồn.
Giải pháp ứng dụng công nghệ tạo năng suất đột phá, giúp Việt Nam “nhấc”
đường cong nụ cười (mô hình nụ cười của Stan Shih – thể hiện đường cong giá trị gia
tăng) lên phía trên, nghĩa là tham gia ở khâu “cũ” nhưng năng suất mới tạo ra giá trị
gia tăng sẽ cao hơn.
Ngoài ra, chuỗi giá trị bị bẻ sâu xuống, nghĩa là khoảng cách giá trị gia tăng
giữa các khâu sẽ khác biệt nhiều hơn trước.
Về trung dài hạn, công nghiệp 4.0 với công nghệ làm đòn bẩy giúp Việt Nam thoát
khỏi bẫy “trung nguồn”, chiếm dần các khâu ở 2 phía thượng nguồn và hạ nguồn.
2. Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam ngành Thủy sản:
2.1. Tổng quan chuỗi giá trị toàn cầu ngành thuỷ sản
Chuỗi giá trị ngành thủy sản nói chung và ngành thủy sản xuất khẩu nói riêng
đều bao gồm các hoạt động hỗ trợ và các hoạt động cơ sở. Các hoạt động cơ sở về hậu

cần đầu vào như cơ sở cung cấp nguyên liệu nuôi giống, nuôi trồng thủy sản tập trung,
các cơ sở sản xuất nguyên liệu chế biến thức ăn nuôi trồng thủy sản và các cơ sở cung
cấp dịch vụ chữa bệnh cho thủy sản. Hoạt động chế biến bao gồm cơ sở sơ chế thủy
sản và chế biến sâu các thủy sản xuất khẩu. Hoạt động hậu cần đầu ra bao gồm sản
xuất và cung cấp bao bì, đóng gói và ghi nhãn hàng thủy sản theo yêu cầu của đối tác


nhập khẩu. Thành phẩm phải được bảo quản, vận chuyển và giao cho nhà nhập khẩu
đúng qui trình và thời hạn. Cùng với các vấn đề đó, hậu cần đầu ra còn gắn với vấn đề
xây dựng và phát triển thương hiệu thủy sản của các doanh nghiệp và định vị các
thương hiệu đó. Hoạt động marketing và bán hàng trong chuỗi giá trị thủy sản xuất
khẩu gồm các vấn đề về khảo sát thị trường xuất khẩu, tìm các đối tác nhập khẩu, các
công ty kinh doanh nhập khẩu hoặc các siêu thị phân phối hàng thủy sản trên thị
trường nước ngoài, xây dựng các quan hệ với đối tác nhập khẩu. Trên cơ sở đó từng
bước xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm thủy sản hoặc thương hiệu doanh
nghiệp xuất khẩu thủy sản. Các hoạt động hỗ trợ của chuỗi giá trị thủy sản xuất khẩu
gồm cơ sở hạ tầng nguồn nguyên liệu với các vấn đề quy hoạch vùng nuôi con giống,
vùng nuôi trồng nguyên liệu thủy sản, vùng sản xuất nguyên liệu thức ăn và sản xuất
thức ăn cho nuôi trồng thủy sản. Hoạt động cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực gồm các vấn
đề đào 29 tạo nguồn nhân lực tại chỗ và tập trung, xây dựng các bộ chuẩn về năng lực
của các cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành, xây dựng các quan hệ với các đơn vị đào
tạo và cung cấp nhân lực có chất lượng cao để đặt hàng đào tạo theo yêu cầu của
doanh nghiệp và của ngành thủy sản. Hoạt động cơ sở hạ tầng khoa học - công nghệ
của chuỗi giá trị thủy sản xuất khẩu gồm các vấn đề nghiên cứu và phát triển nhằm
tìm ra những mô hình quản trị mới, những phương thức mới trong nuôi trồng, đánh
bắt – chế biến – xuất khẩu. Một vấn đề không kém phần quan trọng trong hoạt động
hỗ trợ hạ tầng khoa học công nghệ cho chuỗi giá trị thủy sản xuất khẩu là chuỗi giá trị
thủy sản xuất khẩu.
Liên kết dọc của chuỗi giá trị thủy sản xuất khẩu gồm liên kết giữa các cơ sở
trong một khâu hoạt động của chuỗi và liên kết giữa các cơ sở của các khâu hoạt động

khác nhau trong một chuỗi. Hầu hết các mối quan hệ trong liên kết dọc của chuỗi giá
trị thủy sản xuất khẩu là quan hệ hợp đồng, các cơ sở (doanh nghiệp) mua bán các yếu
tố đầu vào và đầu ra cần thiết theo chuỗi cung ứng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và mang lại giá trị cho khách hàng. Gắn kết hoạt động của các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh là hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ hậu cần
như vận chuyển, đóng gói, lưu kho và bảo quản các loại nguyên liệu và sản phẩm thủy
sản chế biến.


Tất cả các doanh nghiệp kinh doanh ở những lĩnh vực khác nhau sẽ liên kết
trong một chuỗi trên cơ sở chuyên môn hóa từng hoạt động từ đầu vào cho đến đầu ra
và dịch vụ khách hàng. Thông qua chuỗi liên kết sẽ góp phần giảm chi phí và nâng
cao hiệu quả kinh doanh cũng như sức cạnh tranh trên thị trường. Vấn đề đặt Cơ sở
cung cấp đầu vào cho nuôi trồng, đánh bắt Cơ sở nuôi trồng và ngư dân đánh bắt Cơ
sở chế biến thủy sản xuất khẩu Cơ sở cung cấp đầu vào cho đóng gói, bảo quản Cơ sở
đóng gói, bảo quản Cơ sở xuất khẩu trong nước Cơ sở nhập khẩu nước ngoài Vận
chuyển, giao nhận thủy sản 31 ra là từng doanh nghiệp và toàn ngành thủy sản phải tái
cơ cấu theo hướng đủ năng lực đảm nhiệm một hoặc một số hoạt động trong chuỗi và
tối đa hóa lợi nhuận thông qua định vị trong chuỗi. Những doanh nghiệp nào không
thể tái cơ cấu để tham gia liên kết dọc trong chuỗi sẽ tái cơ cấu theo phương thức sát
nhập với doanh nghiệp khác hoặc được mua lại bởi các doanh nghiệp có năng lực
trong ngành.
Liên kết ngang trong hoạt động hậu cần đầu vào là giữa các cơ sở cung cấp
thức ăn cho thủy sản, cung cấp các loại thuộc thủy sản và các cơ sở nuôi giống thủy
sản và nuôi trồng thủy sản nguyên liệu. Các cơ sở này thường là doanh nghiệp độc lập
nên mối quan hệ là quan hệ hợp đồng mua bán. Một số doanh nghiệp tổ chức theo liên
kết ngang sẽ hoạt động trong một số lĩnh vực như liên kết sản xuất thức ăn với nuôi
trồng. Liên kết ngang trong hoạt động chế biến thủy sản xuất khẩu được thực hiện
giữa các doanh nghiệp cung cấp đầu vào đóng gói và nguyên liệu phụ cho chế biến
thủy sản với doanh nghiệp chế biến và đóng gói thành phẩm. Đây là liên kết ngang

chủ yếu, phổ biến của khâu chế biến thủy sản xuất khẩu. Về nguyên lý, các doanh
nghiệp chế biến thủy sản có thể tự tổ chức doanh nghiệp hoặc bộ phận Hậu cần đầu
vào Thức ăn thủy sản Nuôi con giống Nuôi thủy sản Thuốc thủy sản Chế biến thủy
sản Cung cấp bao bì, vật liệu đóng gói Chế biến thủy sản Đóng gói thành phẩm Hậu
cần đầu ra (cơ sở độc lập) Sản xuất bao bì, vật liệu đóng gói Đóng gói, ghi nhãn Lưu
kho 32 sản xuất bao bì và nguyên liệu cho chế biến và đóng gói thành phẩm để xuất
khẩu nhưng do sự khác biệt về kỹ thuật và hiệu quả sản xuất của ngành công nghiệp
hỗ trợ nên rất ít doanh nghiệp chế biến thủy sản tổ chức hoạt động này. Trên thực tế,
một số doanh nghiệp chế biến thủy sản tự thực hiện các hoạt động hậu cần đầu ra
nhưng cũng nhiều doanh nghiệp chỉ chuyên chế biến và thuê ngoài các hoạt động hậu


cần đầu ra như sản xuất bao bì, đóng gói và bảo quản thành phẩm thủy sản trước khi
xuất khẩu. Nếu các hoạt động hậu cần đầu ra được thực hiện bởi các doanh nghiệp độc
lập thì liên kết ngang được thực hiện giữa các bộ phận của doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực hậu cần chế biến thủy sản.
2.2. Tình hình hoạt động ngành thủy sản của VN
2.2.1. Bối cảnh:
Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, là một biển lớn của Thái Bình
Dương, có diện tích khoảng 3.448.000 km2, có bờ biển dài 3260 km. Vùng nội thuỷ
và lãnh hải rộng 226.000km2, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km2 với
hơn 4.000 hòn đảo, tạo nên 12 vịnh, đầm phá với tổng diện tích 1.160km2 được che
chắn tốt dễ trú đậu tàu thuyền. Biển Việt Nam có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) khá
cao, cũng là nơi phát sinh và phát tán của nhiều nhóm sinh vật biển vùng nhiệt đới ấn
Độ - Thái Bình Dương với chừng 11.000 loài sinh vật đã được phát hiện.
Nước ta với hệ thống sông ngòi dày đặc và có đường biển dài rất thuận lợi phát
triển hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản. Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy
trì tăng trưởng liên tục trong 17 năm qua với mức tăng bình quân là 9,07%/năm. Với
chủ trương thúc đẩy phát triển của chính phủ, hoạt động nuôi trồng thủy sản đã có
những bước phát triển mạnh, sản lượng liên tục tăng cao trong các năm qua, bình quân

đạt 12,77%/năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng tổng sản lượng thủy sản của cả
nước.
Trong khi đó, trước sự cạn kiệt dần của nguồn thủy sản tự nhiên và trình độ của
hoạt động khai thác đánh bắt chưa được cải thiện, sản lượng thủy sản từ hoạt động
khai thác tăng khá thấp trong các năm qua, với mức tăng bình quân 6,42%/năm.
2.2.2. Tình hình phát triển:
Thực tế trước những năm 1970, ngành thuỷ sản, trước hết là lĩnh vực khai thác
và chế biến hải sản, đã tiếp cận theo hướng CNH, HĐH thông qua quá trình động cơ
hoá tàu cá, nilon hoá ngư cụ và xây dựng các cơ sở chế biến đông lạnh. Trong quá
trình khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, phát triển thuỷ sản đã trở thành nhu


cầu. Vào thời kỳ này, các viện, trạm nghiên cứu, trường đại học, trung học Thuỷ sản
được thành lập và đi vào hoạt động, công nghiệp thuỷ sản được hình thành bao gồm
các tập đoàn đánh cá, nhà máy chế biến cá, cung cấp thực phẩm phục vụ đời sống
nhân dân và đáp ứng sự đòi hỏi của cuộc chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã khởi động, tuy chưa
thực sự sâu sắc và toàn diện nhưng kết quả của quá trình đó đã mang lại sự phát triển
đáng kể cho nghề cá nước ta trong giai đoạn này.
Từ sau năm 1981, với việc áp dụng cơ chế “tự cân đối, tự trang trải”, thực chất là
bước đầu tiếp cận cơ chế thị trường, kết nối các khâu sản xuất - lưu thông - tiêu thụ,
hướng tới xuất khẩu, ngành đã có bước tăng trưởng cao và ổn định. Giá trị làm ra của
ngành Thuỷ sản chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong khối nông nghiệp và trong nền
kinh tế quốc dân.
Về khai thác hải sản
Từ một nghề cá thủ công, quy mô nhỏ, hoạt động ở vùng gần bờ, khai thác hải
sản đã chuyển dịch theo hướng trở thành một nghề cá cơ giới, tăng cường khai thác ở
vùng biển xa bờ, hướng vào các đối tượng khai thác có giá trị cao và các đối tượng
xuất khẩu. Cùng với phát triển khai thác hải sản xa bờ là ổn định khai thác vùng ven
bờ, khai thác đi đôi với bảo vệ và phát triển nguồn lợi, môi trường sinh thái.

Từ năm 1991 tới nay, số lượng tàu thuyền máy tăng nhanh, số thuyền thủ công
giảm dần. Số tàu thuyền có công suất trên 90CV tăng khá nhanh, nhất là từ sau năm
1997, khi có Chủ trương phát triển khai thác xa bờ và ổn định khai thác vùng ven bờ,
thời điểm bắt đầu triển khai chương trình vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu đánh bắt
xa bờ. Tỷ trọng tàu thuyền công suất lớn trên 90CV tăng đáng kể 15,8% năm 2007 so
với 1,4 % năm 1997. Đến năm 2008 có trên 17.000 tàu công suất trên 90 CV. Tỷ trọng
sản phẩm khai thác xa bờ đã tăng nhanh, chiếm khoảng 40 % tổng sản lượng khai thác
hải sản.
Hệ thống hậu cần dịch vụ tuyến khơi xa, tuyến đảo, tuyến ven bờ gắn với các
trung tâm dịch vụ nghề cá đã bước đầu được hình thành. Thực hiện chủ trương “tổ
chức lại sản xuất” của ngành, nhiều mô hình tổ, đội, hợp tác sản xuất đạt hiệu quả cao


đã xuất hiện nhằm tổ chức dịch vụ hậu cần trên biển, hỗ trợ nhau trong hoạt động sản
xuất và tìm kiếm cứu nạn khi gặp rủi ro. Sự hiện diện dân sự của lực lượng tàu thuyền
và ngư dân trên các vùng biển đã góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh vùng biển,
đảo của Tổ quốc.
Công tác quản lý hoạt động khai thác thủy sản được chú trọng, bao gồm các
hoạt động quản lý phương tiện, quản lý nghề nghiệp, quản lý lao động và công tác
tuần tra kiểm soát, giám sát hoạt động khai thác thủy sản để ngư thực hiện đúng các
qui định của pháp luật khi tham gia sản xuất trên biển.
Trong năm 2008, trước tình hình giá xăng dầu thế giới và trong nước có biến
động liên tục tăng mạnh, ngư dân là những người bị ảnh hưởng nặng nề, nhất là đối
với tàu hoạt động khai thác xa bờ. Tình hình này đã ảnh hưởng đến sự phát triển của
nghề khai thác thủy sản, không đảm bảo sản lượng cho hoạt động chế biến, sinh kế và
đời sống của cư dân ven biển gặp khó khăn. Để góp phần ổn định đời sống, an sinh xã
hội, duy trì sự phát triển của nghề khai thác hải sản, Chính phủ đã kịp thời có chính
sách hỗ trợ một phần xăng dầu cho ngư dân khi tham gia khai thác trên biển trong
năm 2008 Quyết định 289/QĐ-TTg, ngày 18/3/2008. Nhờ chính sách hỗ trợ này, mặc
dù chỉ được hỗ trợ một phần xăng dầu cho chuyến biển, nhưng hầu hết ngư dân phấn

khởi và tiếp tục đi biển, hoạt động khai thác hải sản từng bước được khôi phục trở lại.
Số tàu nằm bờ đã giảm. Thông qua hỗ trợ này, cơ quan quản lý nghề cá đã có cơ hội
nắm được số lượng tàu thuyền khai thác, tạo tiền đề cho việc cải thiện công tác thông
tin quản lý tàu cá cho những năm tiếp theo.
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 137/2007/QĐ-TTg, ngày 21/8/2007,
phê duyệt Đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng chống thiên tai trên biển.
Thực hiện Đề án này, hiện nay, dự án "Xây dựng hệ thống thông tin quản lý nghề cá
trên biển" đã bắt đầu triển khai giai đoạn 1 2009 nhằm cung cấp thông tin tổng hợp về
thời tiết, khí tượng hải văn, hải dương học,.. và tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý,
các chủ doanh nghiệp khai thác nắm bắt thông tin hoạt động của tàu cá trên biển để có
biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện hoạt động trên
biển. Giai đoạn 2 của dự án 2010 - 2012 sẽ hướng tới xây dựng và đưa vào khai thác
hệ thống giám sát tàu vị trí tàu thuyền trên biển trên cơ sở ứng dụng công nghệ vệ


tinh, hoàn thiện hệ thống thông tin hai chiều giữa tàu và bờ và xây dựng cơ sở dữ liệu
thông tin phục vụ công tác dự báo ngư trường, khí tượng hải văn nghề cá.
 Về nuôi trồng thuỷ sản
Từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc, nuôi trồng thủy sản đã
trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát
triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ
môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế khác.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng đều đặn qua từng năm từ năm 1981 tới nay. Từ 230
nghìn ha năm 1981, đến nay diện tích nuôi đã đạt hơn 1 triệu ha.
Khi tỷ trọng diện tích nuôi mặn, lợ tăng lên, nhất là nuôi tôm, thì sản lượng nuôi, đặc
biệt sản lượng nuôi đưa vào xuất khẩu, đã tăng nhanh chóng và hiệu quả kinh tế có
bước nhảy vọt. Từ những năm 1990, tôm nuôi cho xuất khẩu là mũi đột phá quan
trọng. Bên cạnh đó, đối tượng nuôi khác cũng ngày càng đa dạng hơn cả ở nước ngọt,
nước lợ và nuôi biển. Từ năm 2000, cá tra, basa đã trở thành đối tượng nuôi nước ngọt
quan trọng, là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai sau tôm. Đến năm 2008, tôm và cá

tra, basa là hai mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính, đạt kim ngạch xuất khẩu tương ứng
là 1,5 tỷ USD và 1,4 tỷ USD.
Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng
hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang hướng đến xây dựng
các vùng sản xuất tập trung. Các đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã
được tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng
tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và ngư dân, nuôi
trồng thủy sản đang góp phần hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp cũng như thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các vùng miền của đất
nước.
 Về ứng dụng khoa học công nghệ
Trong sự phát triển nhanh của ngành Thủy sản trong chặng đường phát triển,
KHCN thủy sản đã có những đóng góp quan trọng nhằm tăng năng suất lao động và


hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và xóa đói giảm nghèo.
Về khai thác thủy sản, đã có nhiều nghiên cứu điều tra, đánh giá nguồn lợi, các yếu
tố hải dương liên quan đến nghề cá ven bờ và một phần xa bờ, tạo cơ sở điều chỉnh cơ
cấu sản lượng khai thác, xác định vùng cấm và hạn chế đánh bắt nhằm sử dụng bền
vững nguồn lợi hải sản. Bước đầu xây dựng được dự báo khai thác nguồn lợi hải sản
giúp ngư dân nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu ứng dụng với tổng kết thực tế sản xuất và nhập
công nghệ, ngành đã áp dụng rộng rãi, có hiệu quả một số công nghệ khai thác mới
nhằm tăng sản lượng hải sản khai thác hải sản như lưới rê 3 lớp khai thác tôm, mực
nang; lưới rê thu cải tiến; kỹ thuật sử dụng lưới chụp mực khai thác mực ống,.. Một số
sản phẩm trang bị cho tàu cá và các thiết bị khác trong lĩnh vực nghề cá được nghiên
cứu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả nghề khai thác hải sản như sử dụng máy dò cá
trong đánh cá kết hợp ánh sáng, kỹ thuật bảo quản thuỷ sản bằng đá vẩy sản xuất từ
nước biển trên các tàu đánh cá xa bờ,…

Về nuôi trồng thuỷ sản, các nghiên cứu KHCN đã giúp ngành chủ động được công
nghệ sản xuất giống và con giống, nuôi thương phẩm nhiều đối tượng có giá trị kinh tế
cao, tạo ra bước ngoặt lớn cho nghề nuôi thuỷ sản ở nước ta, nhất là nghề nuôi tôm sú,
cá tra, cá basa xuất khẩu như mô hình nuôi tôm sú công nghiệp quy mô nông hộ; công
nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm tôm sú, tôm chân trắng, tôm rảo, tôm
nướng, tôm he Nhật bản và tôm càng xanh, cá song, cá giò, cá hồng Mỹ, cá chẽm, cua
biển, ghẹ xanh, ốc hương, bào ngư, … Một số công nghệ sản xuất giống thuỷ sản đã
tiếp cận hoặc vượt trình độ trong khu vực như công nghệ sản xuất giống cua biển, ốc
hương… Nuôi trồng thuỷ sản phát triển đã góp phần tạo nguồn nguyên liệu ổn định
cho công nghiệp chế biến xuất khẩu, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu chung của sản
xuất thuỷ sản, cung cấp thực phẩm trong nước, đồng thời đóng góp tích cực vào
chương trình xoá đói, giảm nghèo.
Về chế biến xuất khẩu thuỷ sản, nghiên cứu KHCN đã giải quyết nhiều vấn đề liên
quan đến công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến một số sản phẩm
thuỷ sản từ các loài cá tạp có chất lượng, cải tiến và đa dạng hóa công nghệ và sản


phẩm truyền thống… Nhờ đổi mới thiết bị công nghệ, các doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu thủy sản đã tạo ra nhiều sản phẩm mới có giá trị, đa dạng sản phẩm, nâng cao
chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt
Nam trên thị trường quốc tế. Đến nay ngành thuỷ sản đã có 269 doanh nghiệp chế
biến thuỷ sản xuất khẩu đạt tiêu chuẩn xuất khẩu trực tiếp vào EU và 410/544 cơ sở
chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm.
 Về công tác quản lý
Phát huy các nguồn lực, đổi mới để phát triển, trong xu thế mở cửa và hội nhập đất
nước, ngành đã khẳng định, lấy xuất khẩu là động lực và ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực
này. Nhờ đó, thế mạnh của nghề cá nhân dân được phát triển mạnh qua các mô hình
kinh tế ngoài quốc doanh, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư để phát triển. Việc
ngành thuỷ sản chú trọng đầu tư ngày một nhiều hơn và đúng hướng đã hình thành
tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế thuỷ sản, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ

trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh,
các lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản được định hướng phát triển phục vụ xuất
khẩu đã tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, góp
phần gia tăng giá trị xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ngành đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, từ đầu những năm 1990 đã
tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận để
đáp ứng những đòi hỏi cao nhất về lĩnh vực này của các thị trường lớn, nhờ đó nhanh
chóng thiết lập và đứng vững trên các thị trường thuỷ sản lớn nhất thế giới. Khoa học
công nghệ và công tác khuyến ngư ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phục vụ
phát triển sản xuất, kinh doanh của ngành. Năng lực nghiên cứu khoa học tiếp tục
được tăng cường thông qua việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và hệ thống thiết bị
phục vụ nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực. Các cơ quan quản lý đã trưởng thành, có
nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý ngành. Những chính sách quản lý, kế hoạch
phát triển quan trọng được ban hành nhằm khai thác các tiềm năng phát triển; Tạo
điều kiện, ủng hộ và khuyến khích nhân rộng các mô hình sản xuất giống sạch bệnh;


Áp dụng công nghệ nuôi trồng thủy sản bảo đảm các yêu cầu về an toàn vệ sinh,
không làm hại môi trường; Triển khai các mô hình tổ chức sản xuất khai thác hải sản
hướng đến hiệu quả, gắn khai thác với dịch vụ hậu cần; Các mô hình chế biến xuất
khẩu thủy sản gắn kết với tổ chức vùng sản xuất và cung cấp nguyên liệu từ nuôi
trồng trong điều kiện phải thích ứng với giá nhiên liệu tăng mạnh, nguồn lợi gần bờ
khó khăn, đối phó với thiên tai, thời tiết thất thường ... Ngành Thủy sản đã tăng cường
công tác quản lý theo chuỗi sản xuất, quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm ngay từ
những khâu đầu của quá trình sản xuất trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản
đến khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo yêu cầu của các nước nhập khẩu và
bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng nội địa, thực hiện quản lý "từ ao nuôi đến bàn ăn".
Cùng với các giải pháp về cải cách hành chính, tổ chức sản xuất trong các lĩnh vực

hoạt động thủy sản, ngành đã triển khai đưa vào áp dụng tiêu chuẩn vùng nuôi an
toàn, mô hình nuôi sạch và hướng dẫn người nuôi thực hiện quản lý chất lượng sản
phẩm, tăng cường kiểm tra chất lượng giống, thức ăn, thuốc phòng trị bệnh cho tôm,
cá nhằm nâng cao chất lượng xuất khẩu và uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam
trên thị trường thủy sản quốc tế.
Cùng với sự hình thành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước của
ngành Thủy sản, các hội nghề nghiệp của những người làm nghề cá đã được ra đời,
tập hợp, động viên lực lượng lao động thuộc mọi lĩnh vực hoạt động thủy sản đóng
góp quan trọng vào sự tăng trưởng liên tục của ngành. Vai trò nòng cốt, xung kích của
các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu, các mối liên kết cộng đồng và sự hình thành
các Hội, Hiệp hội như là sự tất yếu của quá trình hội nhập và là động lực trực tiếp thúc
đẩy quá trình tổ chức lại sản xuất của ngành.
Đánh giá vai trò kinh tế biển trong sự phát triển của đất nước, Hội nghị lần thứ
4 BCH TW Đảng khóa X đã có Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020, khẳng định vị trí, vai trò rất quan trọng của biển đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược biển là “Đến năm 2020, phấn đấu
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc
chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giàu, mạnh”, trong đó “Phấn đấu đến


năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP của cả
nước”. Về định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Nghị quyết nhấn mạnh,
khai thác và chế biến hải sản là một trong những ngành góp phần đột phá về kinh tế
biển, ven biển nhằm nâng cao đời sống dân cư vùng ven biển, trên các đảo và những
người hoạt động trên biển. Đồng thời, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh trên
biển, khả năng tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và phòng chống thiên tai.
Trong quá trình phát triển của mình, ngành Thủy sản không chỉ khẳng định là
một ngành kinh tế biển truyền thống, mà còn từng bước phát triển thành một ngành
kinh tế sản xuất hàng hóa lớn và đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế và cũng là lĩnh

vực kinh tế có đóng góp quan trọng cho bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm quốc
gia, góp phần xóa đói giảm nghèo và góp phần gìn giữ an ninh quốc phòng trên biển,
đảo.
2.2.3. Tình hình kinh tế thuỷ sản 2019:
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2019 GDP thủy sản theo giá thực tế đạt 205.252
tỷ đồng chiếm 3,4% GDP toàn quốc và chiếm 24,4% GDP toàn ngành nông nghiệp,
chỉ đạt 80% so với mục tiêu chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020
(mục tiêu đến năm 2020 thủy sản chiếm 30 - 35% GDP trong khối nông - lâm - thủy
sản nghiệp). Theo giá so sánh năm 2019 đạt 111.846 tỷ đồng, bình quân tăng trưởng
giai đoạn 2015-2019 chỉ đạt 5,3%/năm, với mức tăng trưởng này đến năm 2020 sẽ
không thể đạt mục tiêu thủy sản chiếm 30 - 35% GDP trong khối nông, lâm, thủy sản
nghiệp.
Cũng theo Theo Tổng cục Thống kê, năm 2019 GDP thủy sản tăng trưởng
6,3% so với năm 2018, bằng 0,89 lần so với tăng trưởng toàn quốc và tăng trưởng cao
gấp 3,13 lần so với toàn ngành nông nghiệp (toàn quốc tăng trưởng 7,02% so với năm
2018; toàn ngành nông nghiệp tăng trưởng 2,01% so với năm 2018). Đạt được thành
tựu này chủ yếu do nhờ tổng sản lượng thuỷ sản tăng 5,6% so với năm trước (ước tính
đạt 8.200,8 nghìn tấn đạt vượt trên 1,2 triệu tấn so với mục tiêu Chiến lược và quy
hoạch tổng thể ngành thủy sản đề ra đến năm 2020 đạt 7 triệu tấn). Trong đó, sản
lượng thủy sản nuôi trồng tăng 6,5% so với năm 2018 (ước đạt 4.432,5 nghìn tấn đạt
97,4% so với mục tiêu Chiến lược và quy hoạch tổng thể ngành thủy sản đề ra đến


×