Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

tiểu luận tài chính công nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.47 KB, 52 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 5
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU................................................................................................................... 7
I. Tổng quan nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài.................................................... 7
II.

Cơ sở lý thuyết và khung phân tích........................................................................ 7
1.

Cơ sở lý thuyết về nợ công................................................................................. 7

2.

Cơ sở lý thuyết về khủng hoảng nợ công......................................................... 13

III.

Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................................... 14

IV.

Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. 14

CHƢƠNG II: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN................................................................... 16
I. Kết quả nghiên cứu................................................................................................. 16
1.

Cuộc khủng hoảng nợ công Mỹ Latinh (1970 – 1980)..................................... 16


2.

Cuộc khủng hoảng nợ công Đông Á và Đông Nam Á (1997)..........................20

3.

Khủng hoảng nợ công Châu Âu (2009)............................................................ 28

II.

Thảo luận kết quả nghiên cứu.............................................................................. 35

CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM............................................. 38
I. Tình hình nợ công tại Việt Nam.............................................................................. 38
II.

Kiến nghị giải pháp............................................................................................. 42
1.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.................................................................. 42

2.

Một số kiến nghị............................................................................................... 44

KẾT LUẬN...................................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 52

3



DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Tổng vốn đầu tƣ (% GDP) tại các nƣớc Mỹ Latinh............................................ 17
Hình 2: Tỷ lệ nợ nƣớc ngoài/ GNI của một số quốc gia Mỹ Latin...................................18
Hình 3: Tỷ lệ tăng trƣởng GDP thực tại châu Âu và các nƣớc......................................... 33
Hình 4: Thất nghiệp ở châu Âu và các nƣớc.................................................................... 34
Hình 5: Nợ công bình quân đầu ngƣời của Việt Nam giai đoạn 2006-2015.....................39

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tăng trƣởng kinh tế và thất nghiệp trong khủng hoảng......................................24
Bảng 2: Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS 2006-2011 (% GDP)....................31
Bảng 3: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2011-2016............................................................. 38

4


LỜI MỞ ĐẦU
Bƣớc sang kỷ nguyên số 4.0, nền kinh tế thế giới đã có những bƣớc chuyển mình
mạnh mẽ nhƣng đồng thời lại đi vào suy thoái bắt nguồn từ khủng hoảng nợ công trong
những năm gần đây. Nợ công đã thực sự trở thành vấn đề vô cùng nóng bỏng không chỉ
đối với các nƣớc xảy ra khủng hoảng nợ mà còn đặt ra nhiều vấn đề với các quốc gia
khác có tiềm ẩn rủi ro nợ công nhƣ Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... hay thậm chí là Việt
Nam. Nợ công ở một số quốc gia đã vƣợt qua khỏi ngƣỡng an toàn và đang dần đe dọa
đến sự ổn định cũng nhƣ sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử kinh tế thế giới đã xảy ra rất nhiều cuộc khủng hoảng
nợ công gây ra nhiều thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt gần đây nhất là cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu mà hậu quả của nó vẫn để lại đến thời điểm hiện tại và không
những thế mà nó còn có dấu hiệu tác động tiêu cực đến nền kinh tế của các quốc gia trong
khu vực hay trên toàn thế giới.
Trong một vài năm trở lại đây, sau những bƣớc đà tăng trƣởng đáng kể, nền kinh

tế Việt Nam đã có dấu hiệu chững lại. Điều này có thể đƣợc giải thích bởi những tác động
bên ngoài khiến cho Việt Nam bƣớc sang giai đoạn không thể sử dụng dòng vốn đầu tƣ
nhằm thúc đẩy tăng trƣởng đƣợc nữa. Song, bên cạnh đó, những số liệu thống kê cả của
Việt Nam và quốc tế đều cho thấy Việt Nam thƣờng xuyên có thâm hụt ngân sách và nợ
công củaViệt Nam cũng đang có xu hƣớng tăng lên. Nhƣ vậy, vấn đề đƣợc đặt ra là cần
có những nghiên cứu để học hỏi kinh nghiệm từ những cuộc khủng hoảng nợ công tiêu
biểu trên thế giới từ đó rút ra bài học và những giải pháp đúng đắn cho nền kinh tế Việt
Nam.
Dựa vào những lý do trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Nghiên cứu một số cuộc
khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho Việt Nam”. Nội dung nghiên cứu của
chúng em có ba phần chính:

5


Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Kết quả và thảo luận
Chương 3: Kiến nghị giải pháp cho Việt Nam
Do đây là lần đầu tiên chúng em đƣợc tiếp xúc với mô hình cấu trúc nghiên cứu
mới nên trong quá trình nghiên cứu, nhóm chúng em vẫn còn gặp phải những hạn chế về
kiến thức, hiểu biết thực tiễn và nguồn tài liệu vậy nên bài nghiên cứu không thể không
tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất hy vọng cô có thể thông cảm cho những thiếu
sót đó và chúng em rất mong muốn đón nhận những góp ý của cô để chúng em hoàn thiện
đề tài của mình tốt hơn nữa. Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn của cô đã
giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này.

6


CHƢƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ

SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
I.

Tổng quan nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài
Nghiên cứu về các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới, Vũ Minh Long (2013)

đã cho rằng, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công khu vực Mỹ Latinh những năm
1980 xuất phát từ chính phủ với sự can thiệp quá sâu của Nhà nƣớc vào việc đầu tƣ cho
cơ sở hạ tầng và quá trình công nghiệp hóa, còn cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu năm
2009 xảy ra do các nƣớc châu Âu thƣc hiện các biện pháp kích cầu, nhƣng không đi kèm
với chính sách tài khóa bền vững cùng với việc thiếu cơ chế phối hợp, ứng phó với các
quốc gia trong khu vực [1]. Cũng đồng quan điểm về cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
này, Th.S Lê Linh Đan và Đỗ Hoàng Linh (2011) cho rằng nguyên nhân chính là do việc
triển khai các gói kích cầu chƣa hợp lý [2].
Đặc điểm chung trong các nghiên cứu trƣớc đây đều chỉ ra cuộc khủng hoảng toàn
cầu 2008 cũng là một chất xúc tác khiến trầm trọng hóa cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu 2009.

II.

Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
1. Cơ sở lý thuyết về nợ công
a. Khái niệm nợ công
Để có thể nghiên cứu đƣợc các cuộc khủng hoảng nợ công, ta cần tìm hiểu đƣợc

bản chất, nguyên nhân và đánh giá đƣợc các vấn đề nợ công, nhƣng trƣớc hết ta cần hiểu
và thống nhất về khái niệm nợ công. Về cơ bản, nợ công là một khái niệm tƣơng đối phức
tạp và có rất nhiều quan điểm đƣợc đƣa ra về khái niệm này. Chính vì vậy, để thống nhất,
bài nghiên cứu sẽ xây dựng cơ sở lý thuyết dựa trên việc khái quát khái niệm nợ công và

khái niệm xung quanh nó của Ngân hàng thế giới (WB), của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
và của Việt Nam.


7




Nguyên nhân xuất phát của nợ công
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ lớn

hơn số thuế, phí, lệ phí thu đƣợc, Nhà nƣớc phải đi vay (trong hoặc ngoài nƣớc) để trang
trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, Nhà
nƣớc sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn
thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất
là cách đánh thuế dần dần, đƣợc hầu hết chính phủ các nƣớc sử dụng để tài trợ cho các
hoạt động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế
hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ đƣợc giảm thuế). Nhìn nhận từ khía cạnh
này có hai quan điểm cơ bản về nợ công [3].
Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes, cho rằng, việc vay
nợ của chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích luỹ vốn, vì số thuế cắt
giảm đƣợc bù đắp bằng cách vay nợ nên khuyến khích thế hệ hiện tại tiêu dùng nhiều
hơn, số ngƣời thất nghiệp giảm đi mặc dù lạm phát có thể cao hơn. Tuy nhiên, vay nợ để
lại gánh nặng nợ cho thế hệ tƣơng lai; các thế hệ tƣơng lai phải sống trong một quốc gia
vay nợ nƣớc ngoài lớn hơn và vốn tích luỹ từ nội bộ nhỏ hơn.
Trái ngƣợc với quan điểm truyền thống về nợ công, những ngƣời theo quan điểm
kinh tế học vĩ mô cổ điển (hình thành từ thập niên 1970), đứng đầu là Ricardo-Barro cho
rằng, biện pháp cắt giảm thuế đƣợc bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu
trong ngắn hạn, vì không làm tăng thu nhập thƣờng xuyên của các cá nhân mà chỉ làm

dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tƣơng lai. Chính sách cắt giảm thuế và tài trợ bằng vay
nợ sẽ không gây ra những tác động thực sự đối với nền kinh tế. Việc chấp nhận thâm hụt
giảm thu trong thời kỳ suy thoái, tăng thu trong giai đoạn hƣng thịnh và vay nợ cũng là
cách “lƣu thông thuế” để giảm thiểu những tác động tiêu cực của thuế đối với chu trình
kinh doanh.

8




Khái niệm nợ công
Theo WB (2002) thì nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những

khoản nợ đƣợc Chính phủ bảo lãnh. Còn theo IMF (2010), thì nợ công đƣợc hiểu là nghĩa vụ
trả nợ của khu vực công. Đi kèm với đó là định nghĩa cụ thể về khu vực công, bao gồm khu
vực Chính phủ và khu vực các tổ chức công. Trong đó, khu vực chính phủ bao gồm: Chính
phủ Trung ƣơng, Chính quyền liên bang, Chính quyền địa phƣơng; khu vực các tổ chức công
bao gồm: Các tổ chức phi tài chính và Các tổ chức công tài chính (Ngân hàng Trung ƣơng,
các tổ chức nhà nƣớc nhận tiền gửi khác, các tổ chức tài chính công khác). Nhƣ vậy, hầu hết
các tổ chức quốc tế đều quan niệm nợ công theo nghĩa rộng, theo đó nợ công là tổng các
khoản nợ của khu vực công, của tất cả các định chế công. Một số khác theo nghĩa hẹp, nợ
công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ƣơng, các cấp chính quyền địa phƣơng và
nợ của các tổ chức độc lập đƣợc Chính phủ bảo lãnh thanh toán.

Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật quản lý nợ công, đƣợc xem là một bƣớc
tiến bộ lớn trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Theo Bộ Luật
này thì nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ đƣợc chính phủ bảo lãnh và nợ của chính
quyền địa phƣơng.
-


Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nƣớc, nƣớc ngoài
đƣợc ký kết, phát hành nhân danh Nhà nƣớc, nhân danh Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ

-

Nợ đƣợc chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín
dụng vay trong nƣớc, nƣớc ngoài đƣợc chính phủ bảo lãnh

-

Nợ chính quyền địa phƣơng là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.

9


 Phân loại nợ công [4]
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lí và sử dụng nợ công.
 Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay: Nợ công có hai loại là nợ trong nƣớc
và nợ nƣớc ngoài.
-

Nợ trong nƣớc là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.

-


Nợ nƣớc ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nƣớc ngoài, vùng lãnh
thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, theo pháp
luật Việt Nam, nợ nƣớc ngoài không đƣợc hiểu là nợ mà bên cho vay là nƣớc
ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải nợ trong nƣớc.
 Theo phƣơng thức huy động vốn: Nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận
trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.

-

Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận
vay trực tiếp của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay.

-

Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn.Các công cụ nợ này có thời hạn
ngắn hoặc dài, thƣờng có tính vô danh và khả năng chuyển nhƣợng trên thị trƣờng
tài chính.
 Theo tính chất ƣu đãi của khoản vay: Nợ công bao gồm nợ công từ vốn vay
ODA, nợ công từ vốn vay ƣu đãi và nợ thƣơng mại thông thƣờng.
 Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: Nợ công bao gồm nợ công phải trả và nợ công
bảo lãnh.

-

Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phƣơng có nghĩa
vụ trả nợ.

-


Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho ngƣời
vay nợ, nếu bên vay không trả đƣợc nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
 Theo cấp quản lí nợ thì nợ công đƣợc phân loại thành nợ công của trung ƣơng và
nợ công của chính quyền địa phƣơng.

10


-

Nợ công của trung ƣơng là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo
lãnh.

-

Nợ công của địa phƣơng là khoản nợ công mà chính quyền địa phƣơng là bên vay
nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật ngân sách nhà nƣớc
năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phƣơng đƣợc coi là nguồn
thu ngân sách và đƣa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phƣơng đƣợc
Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ƣơng.

b. Vai trò của nợ công với nền kinh tế
Để có một cái nhìn khái quát nhất trƣớc khi phân tích nợ công ta cần xem xét tác
động của nợ công đối với nền kinh tế dƣới cả hai góc độ: tác động tích cực và tác động
tiêu cực.
 Tác động tích cực
Thứ nhất, nợ công đáp ứng nhu cầu vốn đầu tƣ, đảm bảo an sinh xã hội. Những
khoản vay nƣớc ngoài sẽ là nguồn tài trợ bổ sung chủ yếu cho đầu tƣ phát triển mà không
làm thoái lui đầu tƣ tƣ nhân khi chính phủ đầu tƣ lớn.

Thứ hai, nợ công góp phần huy động vốn cho bội chi NSNN. Trong khi việc tăng
thuế và giảm chi tiêu đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian dài, cũng nhƣ phải thực hiện
đồng bộ nhiều chính sách, in tiền gây lạm phát cao, việc vay nợ sẽ góp phần bù đắp kịp
thời bội chi NSNN trong khi các nguồn thu khác chƣa kịp đáp ứng.
Thứ ba, thông qua vay nợ tạo ra công cụ điều hành chính sách tiền tệ và điều tiết
thị trƣờng tài chính. Chính phủ các nƣớc sử dụng nhiều hình thức vay, mƣợn khác nhau
trong đó việc phát hành trái phiếu chính phủ đã góp phần quan trọng tạo thêm công cụ để
ổn định và điều hòa lƣu thông tiền tệ.
Thứ tư, nợ công góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với những
khoản nợ nƣớc ngoài sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia vay nợ đƣợc tiếp cận nguồn vốn mà
không làm giảm đầu tƣ hay tiêu dùng trong nƣớc. Hơn nữa, khi tiếp cận với các nguồn bên
ngoài đòi hỏi sự nỗ lực trong việc cải cách về thể chế, môi trƣờng kinh doanh,

11


cơ sở hạ tầng,...của các nƣớc vay nợ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội nhiều
hơn để quốc gia đó hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
 Tác động tiêu cực của nợ công
Thứ nhất, nợ công tác động đến sự tăng trƣởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Nếu nợ công chủ yếu là vay nợ trong nƣớc sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, làm tăng chi
phí đầu tƣ, giảm nhu cầu đầu tƣ dẫn đến hiệu ứng thoái lui đầu tƣ. Còn nếu chủ yếu là
vay nợ nƣớc ngoài có thể gây ra bất ổn về tỷ giá từ đó khiến hoạt động đầu tƣ bị sụt giảm
cùng sự gia tăng lãi suất trong nƣớc.
Thứ hai, nợ công tác động làm tăng lãi suất, tạo áp lực gây ra lạm phát. Khi tăng
vay nợ trong nƣớc, lãi suất làm tăng chi phí đầu tƣ, tăng giá thành và giá bán sản phẩm.
Khi chính phủ tăng vay nợ nƣớc ngoài, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào trong nƣớc có thể
giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn áp lực trả nợ cả gốc và lãi
bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi phí đầu vào
nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị,... dẫn đến nguy cơ lạm phát.

Thứ ba, nợ công cao có nguy cơ làm giảm nguồn lực tài chính của khu vực tƣ
nhân, lấn át đầu tƣ tƣ nhân - là khu vực đầu tƣ theo xu hƣớng hiệu quả. Đặc biệt là nếu
khu vực công không hiệu quả thì việc vay vốn của khu vực này càng lớn, hiệu quả chung
của nền kinh tế càng thấp. Nợ công cao trong điều kiện đầu tƣ công kém hiệu quả sẽ làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn xã hội.
Thứ tư, nếu không đƣợc kiểm soát tốt thì nợ công cao có thể là nguyên nhân cơ
bản dẫn tới khủng hoảng nợ quốc gia mà các nƣớc nhƣ Hy Lạp, Ai-len là những ví dụ
điển hình. Khi nợ công quá cao tức là chính phủ đi vay nợ nhiều hơn khiến mặt bằng lãi
suất tăng, chính phủ càng vay nhiều thì lãi suất trái phiếu lại càng mạnh. Mặt khác, khi
nguồn dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, các khoản vay nợ sẽ rơi vào tình trạng mất thanh khoản,
các chủ nợ mất lòng tin về chính phủ. Nhƣ vậy, khủng hoảng nợ công sẽ nổ ra và kèm
theo những hậu quả rất nặng nề.
Tóm lại, nợ công với mức độ vừa phải là cần thiết trong sự phát triển kinh tế của một
quốc gia thông qua việc phối hợp các chính sách sử dụng ngân sách phù hợp và có 12


hiệu quả. Ngƣợc lại, nếu chính sách sử dụng ngân sách của quốc gia đó bất hợp lý, không
hiệu quả sẽ làm nợ công ngày một tăng và có tác động rất xấu đến nền kinh tế, thậm chí là
cả những bất ổn về chính trị xã hội.
2. Cơ sở lý thuyết về khủng hoảng nợ
công a. Khái niệm khủng hoảng nợ công
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao, và mất khả năng chi trả nợ
của quốc gia, làm chao đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc
gia. Nhu cầu chi nhiều quá trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông
qua nhiều hình thức nhƣ phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng, … để chi, dẫn
đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả
sớm, để lâu thành “lãi mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm.
Các dấu hiệu khủng hoảng nợ công:
 Các dấu hiệu bên ngoài : sự tăng đột biến lãi suất trái phiếu chính phủ; các chỉ
số về an toàn nợ công bị vƣợt quá xa; các chỉ số về khả năng trả nợ sụt giảm

mạnh.
 Các dấu hiệu bên trong : quốc gia không còn khả năng trả nợ trong ngắn hạn
và trung hạn và chính phủ tuyên bố mất khả năng trả các khoản nợ đến hạn.
b. Tác động của khủng hoảng nợ công:
 Gây ra bất ổn chính trị và xã hội
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách thắt lƣng buộc
bụng lại dẫn đến những cuộc biểu tình phản đối của dân chúng, gây căng thăng, bất ổn
chính trị, xã hội, bởi những ngƣời nghèo là những ngƣời yếu thế trong xã hội và là những
ngƣời chịu tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi từ Chính phủ. Chẳng hạn
để nhận đƣợc gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã quyết
định tăng nhiều loại thuế, từ thuế GTGT, đến thuế thu nhập, thuế bất động sản , thuế đánh
vào các mặt hàng nhƣ rƣợu, thuốc lá…đồng thời chấp nhận các biện pháp cắt giảm chi
tiêu mạnh tay. Để phán đối chính sách này của Chính phủ, cuộc tổng đình công đã diễn

13


ra, hàng chục nghìn ngƣời đã tham gia biểu tình trên đất nƣớc Hy Lạp nhất là tại thủ đô
Athens.
 Kìm hãm sự tăng trƣởng của nền kinh tế
Khi nợ công tăng cao, Chính phủ các nƣớc thƣờng thi hành chính sách thắt lƣng
buộc bụng thông qua việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế, giảm đầu tƣ, kìm hãm sự phát triển
của kinh tế làm giảm tốc độ tăng trƣởng, thậm chí có thể đẩy đất nƣớc vào cuộc khủng
hoảng kép. Nghiêm trọng hơn, việc đƣa ra các gói kích thích đầu tƣ kinh tế là một trong
những nguyên nhân tăng nợ công của Chính phủ. Vì thế, vấn đề đặt ra cho Chính phủ là
giải quyết đƣợc tình trạng thâm hụt ngân sách nhƣng không đẩy nền kinh tế vào tình
trạng suy thoái, trong khi các biện pháp giải quyết các vấn đề này không thuận chiều.
 Làm suy thoái niềm tin của ngƣời dân và giới đầu tƣ
Khi nợ công tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin của ngƣời dân và
giới đầu tƣ bị lung lay, khi đó nền kinh tế trở thành đối tƣợng tấn công của các thế lực

đầu tƣ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức tín dụng Standard & Poor (S & P) hạ
bậc tín nhiệm với trái phiếu Chính phủ Hy Lạp, các quỹ đầu tƣ lớn lập tức bán ra loại trái
phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong đợt phát hành tiếp theo. Nếu Chính phủ muốn
huy động tiền từ nguồn tài chính sẽ phải chấp nhận chi vốn cao hơn, và sau đó tiếp tuc rơi
vào vòng xoáy hạ bậc tín nhiệm. Việc đƣa ra tín dụng trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn
thƣơng của nền kinh tế có nguy cơ làm khủng hoảng thêm trầm trọng và đẩy nền kinh tế
vào khó khăn bế tắc.

III.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định tính để chỉ ra

nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng nợ công đã diễn ra trên thế giới và tình hình nợ
công tại Việt Nam hiện nay.

IV.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quốc gia và khu vực đã trải qua các cuộc

khủng hoảng nợ công trên thế giới, gồm khu vực Mỹ Latinh, khu vực Đông Á và Đông
Nam Á, khu vực đồng tiền chung Châu Âu.
14


15


CHƢƠNG II: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

I.

Kết quả nghiên cứu
1. Cuộc khủng hoảng nợ công Mỹ Latinh (1970 – 1980)
a. Nguyên nhân
Kể từ sau cuộc đại khủng hoảng những năm 1930s, cơn bão khủng hoảng lại tiếp

tục xảy ra đối với các nƣớc Mỹ Latinh vào cuối những năm 1970 đến 1980. Đây đƣợc
xem là một thảm họa trong lịch sử khu vực này, mà bắt đầu từ Mexico (1982) sau đó lan
rộng ra các quốc gia khác trong khu vực: Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980,1986 –
1987), và cuối cùng là Ecuador (1982, 1984).
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khung hoảng Mỹ Latinh trong thời gian
này. Thứ nhất, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, các quốc gia này tập trung chủ yếu
vào việc đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng dẫn đến bộ chi ngân sách một cách trầm trọng. Thứ hai,
các quốc gia này phải nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu cũng nhƣ công nghệ sản xuất từ
nƣớc ngoài, làm cho tỉ lệ nhập siêu ngày càng tăng. Nhu cầu lớn về nguồn vốn của Chính
phủ phát sinh khiến họ phải đi vay nợ từ các quốc qia khác và các tổ chức quốc tế.
Nghiên cứu mô hình công nghiệp hóa của các nƣớc khu vực Mỹ Latinh, các nhà
nghiên cứu và phê bình gia cho rằng đây là một mô hình có quá nhiều sự can thiệp của
nhà nƣớc, thiếu những tự do thông thƣơng của thị trƣờng. Các quốc gia áp dụng chính
sách không hiệu quả bằng việc tăng thuế và sử dụng hàng rào thuế quan để hạn chế nhập
khẩu. Hirschman (1971) thể hiện đƣợc suy nghĩ của mình về mô hình này ở khu vực Mỹ
Latinh, đó là: “Công nghiệp hóa đƣợc kỳ vọng sẽ thay đổi trật tự xã hội, tuy nhiên tất cả
những gì nó làm đƣợc chỉ là phát triển sản xuất” [5].
Theo thời gian, sự yếu kém của mô hình này dần dần ảnh hƣởng đến tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị và xã hội. Sự mâu thuẫn xuất hiện đầu tiên ở nhóm các quốc gia
trong khối Southern Cone (Argentina, Chile, Paraguay, Uruguay), là nơi chứng kiến
những sự thay đổi rõ rệt trong xã hội đi kèm với sự chậm lại của tốc độ tăng trƣởng. Theo
nhƣ phân tích của Fishlow (1988), điều này xuất phát từ việc các quốc gia này vẫn duy trì
một chế độ quân chủ độc tài trong quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế thị trƣờng, dẫn

đến sự mâu thuẫn căn bản giữa tự do thị trƣờng và sự can thiệp của chính phủ trên con
16


đƣờng phát triển”. Nhƣ vậy, nợ công của khu vực Mỹ Latinh xuất phát từ chính Chính
phủ.
b. Diễn biến
Trong những năm đầu khi áp dụng mô hình công nghiệp hóa (1960s), mặc dù
thƣờng xuyên tồn tại thâm hụt thƣơng mại nhƣng nhìn chung tăng trƣởng trong thời gian
này vẫn ở mức cao, trung bình vào khoảng 5% mỗi năm. Tuy nhiên bắt đầu vào khoảng
cuối thập niên 70 cho đến giữa thập niên 80, tăng trƣởng kinh tế bắt đầu suy giảm, thậm
chí tăng trƣởng âm. Và mặc dù trong thập niên 80 này tồn tại thặng dƣ thƣơng mại,
nhƣng tăng trƣởng kinh tế dù có phục hồi vẫn không thể quay lại so với mức trong hai
thập niên trƣớc đó.
Từ giữa năm 1975-1982, các khoản nợ công của các nƣớc Latinh đối với các tổ
chức tài chính và ngân hàng thế giới tăng với tỷ lệ gộp hàng năm lên đến trên 20%, khiến
tổng nợ vay đã tăng từ 75 tỷ USD năm 1975 lên đến hơn 315 tỷ USD năm 1983, trong đó,
thanh toán lãi suất và trả vốn gốc tăng mạnh, từ 12 tỷ USD năm 1975 lên 66 tỷ USD năm
1982 (The berge 1999).

Hình 1: Tổng vốn đầu tƣ (% GDP) tại các nƣớc Mỹ Latinh

17


Hình 2: Tỷ lệ nợ nƣớc ngoài/ GNI của một số quốc gia Mỹ Latin
Hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối hoặc giảm cho
vay các nƣớc châu Mỹ Latin khác. Trong khi đó, các khoản nợ vay của chính phủ các
nƣớc lại chủ yếu là ngắn hạn và các nƣớc gặp khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ
chức cho vay từ chối gia hạn các khoản vay. Hàng tỷ USD nhanh chóng đến hạn thanh

toán và các dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nƣớc
không còn có thể vay thêm.
Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico tuyên bố vỡ
nợ. Tiếp đó là Brazil, Venezuela, Argentina và Bolivia. Trong suốt những năm đầu của
khủng hoảng, tăng trƣởng GDP các nƣớc trong khu vực chỉ còn hơn 2%.
Để có tiền trả nợ, họ đã cầu viện những tổ chức quốc tế nhƣ Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Đổi lại, các nƣớc phải chấp nhận thắt lƣng buộc
bụng, phá giá nội tệ hay tự do hóa thƣơng mại để cải thiện nền tài chính. Hậu quả là kinh
tế tăng trƣởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu ngƣời giảm và chênh lệch giàu nghèo ngày
càng tăng. Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ Latinh mới lắng dịu.
Sau này, Mexico tiến hành tự do hóa thƣơng mại và dần áp dụng thể chế kinh tế
thị trƣờng. Tuy nhiên, kinh tế phát triển lại đi kèm bùng nổ tín dụng thiếu kiểm soát.
Tăng trƣởng bắt đầu giảm sút năm 1993 và nợ xấu cũng tăng mạnh.

18


Năm 1994, Mexico dần phá giá đồng peso để thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Tuy
nhiên, các nhà đầu tƣ đã mất niềm tin với nƣớc này. Đỉnh điểm là sau tuyên bố dự trữ
ngoại hối cạn kiệt và đồng peso bị thả nổi. Vốn bị rút ồ ạt đã châm ngòi cho khủng hoảng
tài chính tại đây.
Tuy nhiên, Mỹ, IMF, WB, và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đã kịp thời hỗ trợ gần
40 tỷ USD cho Mexico. Đổi lại, nƣớc này phải thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ,
đồng thời tƣ nhân hóa và tự do hóa các hoạt động kinh tế. Đến năm 1996, Mexico bắt đầu
phục hồi.
c. Hậu quả
 Đối với các nƣớc Mỹ Latinh: Khủng hoảng nợ công 1970-1980 đã ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến toàn bộ nền kinh tế, chính trị, xã hội, y tế, giáo dục…gây ra một loạt các hệ lụy: nền
kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng, GDP giảm mạnh, sản xuất đình trệ, thất nghiệp trầm trọng (tỉ lệ
thất nghiệp tại Chi-lê năm 1984 là 18.4%), thu nhập bình quân


đầu ngƣời giảm và chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng. Tỉ lệ lạm phát trung bình năm
1982 là 86%, năm 1984 là 175%, thậm chí mức lạm phát của Bolivia năm này lên tới
2300%. Trong thực tế, trong mƣời năm sau năm 1980, tiền lƣơng thực tế ở các khu vực
đô thị đã giảm xuống từ 20% đến 40%.
Ngoài ra, các khoản đầu tƣ, mà đáng lẽ có thể đƣợc sử dụng để giải quyết các vấn
đề xã hội và nghèo đói, thì đã đƣợc sử dụng để trả nợ. Khủng hoảng nợ công làm cho tình
hình chính trị trở nên bất ổn. Trong cuộc khủng hoảng những năm 1980, có rất nhiều các
chính thể cầm quyền bất lực ở một số nƣớc Mỹ La Tinh đã bị lật đổ trƣớc sức ép của
kinh tế trong cuộc khủng hoảng nợ ví dụ nhƣ Chi-lê, Brazil…
Khủng hoảng nợ đẩy các nƣớc đang phát triển vào tình thế lệ thuộc càng sâu sắc
hơn về mặt kinh tế và chính trị vào thế giới tƣ bản. Các nƣớc giàu càng có dịp mở rộng
hơn nữa quyền bóc lột và cơ hội can thiệp và chính sách đối nội của các nƣớc đang phát
triển, làm xói mòn sự tự chủ về kinh tế và tiến bộ xã hội. Điển hình trong cuộc khủng
hoảng nợ những năm 1980, Mỹ có ý định biến Mĩ La-tinh trở thành “sân sau” của mình.

19




Đối với các nƣớc cho vay

Nền kinh tế của các nƣớc tƣ bản chủ nợ trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng nợ cũng

thƣờng khá u ám và cũng có thể đứng trên bờ vực phá sản. Khi các nƣớc con nợ lớn nhƣ
Brazil hay Mexico tuyên bố ngừng trả nợ thì có khả năng dẫn đến nhiều ngân hàng
thƣơng mại chủ nợ của các nƣớc tƣ bản cũng phá sản theo, hệ thống tài chính ngân hàng
quốc tế bị lung lay. Và cũng do các nƣớc con nợ rơi vào khủng hoảng, đồng nghĩa với
việc khả năng thanh toán giảm đi nên quan hệ buôn bán trao đổi hàng hóa với các nƣớc

và các khu vực khác trên thế giới cũng phần nào bị đóng băng.
2. Cuộc khủng hoảng nợ công Đông Á và Đông Nam Á (1997)
a. Nguyên nhân
Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á và Đông Nam Á bắt đầu năm 1997 bắt đầu tại
Thái Lan đƣợc xem là cuộc khủng hoảng dữ dội nhất xảy ra tại các quốc gia đang phát
triển kể từ sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982 tại Mỹ Latinh. Không chỉ dừng lại ở một
quốc gia, nó tiếp tục lan rộng sang hầu hết các quốc gia khác trong khu vực Đông Á, từ
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hong Kong, đến các quốc gia Đông Nam Á nhƣ Indonesia,
Malaysia và Philippines. Các quốc gia nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore và
cả Việt Nam mặc dù ít bị ảnh hƣởng hơn nhƣng cũng chịu nhiều tác động tiêu cực. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng Đông Á và Đông Nam Á:


Nền kinh tế vĩ mô yếu kém

Thái Lan và một số nƣớc Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh
tế gọi là bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình
vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lƣu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế
Đông Nam Á tăng trƣởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo
ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ƣơng Đông Nam
Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm
phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã đƣợc áp dụng để chống lạm phát vô
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tƣơng đối tốt ngoại trừ
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau 20


năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trƣờng hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn
Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài

khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai đƣợc bù đắp lại bằng việc các ngân hàng
của nƣớc này đi vay nƣớc ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro.


Các dòng vốn nƣớc ngoài kéo vào

Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà
đầu tƣ ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của
mình bằng cách chuyển vốn đầu tƣ ra nƣớc ngoài. Trong khi đó, các nƣớc châu Á lại
thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nƣớc châu Á cao hơn ở các
nƣớc phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nƣớc châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tƣ của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính
phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm
để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nƣớc ngoài mà
phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro (Hiện tƣợng thông tin phi
đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức).


Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới

Nhật Bản, một trong những thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của các nƣớc châu Á bị
trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ đƣợc định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm
1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với
hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang đƣợc
khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa
Kỳ dƣới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn
lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trƣờng hấp dẫn đầu tƣ hơn so với các
nƣớc ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tƣ ngắn hạn thông qua lãi suất

ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nƣớc Đông Nam
Á đƣợc neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nƣớc này trở nên kém cạnh tranh. Từ 21


mùa Xuân năm 1996, tăng trƣởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một
cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.


Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt

Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc
tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nƣớc châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trƣờng bất động sản của
Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Ngƣời ta không còn tin rằng chính
phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết
ngƣời trong nền kinh tế của các nƣớc châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành
tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đồng loạt rút vốn ra.


Năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém

Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng
yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nƣớc châu Á
phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn
kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nƣớc mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
b. Diễn biến


Thái Lan: Cuối năm 1996, thị trƣờng chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh.


Cả mức vốn hóa thị trƣờng vốn lẫn chỉ số thị trƣờng chứng khoán đều giảm đi. Sau khi đạt tốc
độ tăng trƣởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ tăng trƣởng trung bình
9% mỗi năm, sức ép lên việc duy trì đồng baht tại Thái Lan tăng lên chạm tới mức thấp nhất với
56 baht đổi 1 đô la vào tháng 1 năm 1998, các hợp đồng kinh tế đƣợc ký kết bằng 10,2% năm
trƣớc.


Philippines: Tăng trƣởng kinh tế giảm từ 5% năm 1997 xuống 0.6% năm 1998. Ngân
Hàng Trung Ƣơng Philipines thời kỳ này đã cố gằng kiềm chế sự mất giá của đồng Peso bằng
cách tăng mức lãi suất. Tuy nhiên, đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26

peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Tiếp sau
đó, do cuộc khủng hoảng chính trị xảy ra, đồng Peso tiếp tục mất giá. Chính phủ đã hứa
hẹn sẽ tiếp tục cải cách kinh tế để đạt mức tăng trƣởng tƣơng đƣơng với các nƣớc công
nghiệp mới ở Đông Á. Những nỗ lực nhằm cải thiện kinh tế đã bị ngăn cản bởi một khoản
nợ công lên tới 77% GDP. Ngân sách cho các khoản nợ còn cao hơn ngân sách cho
22


giáo dục và quốc phòng cộng lại. Nguồn thu không đồng đều cũng là một vấn đề nghiêm
trọng.
 Hongkong: Một sự trừng hợp đến ngạc nhiên là cuộc khủng hoảng xảy ra 24h ngay sau
khi Anh trao trả Hongkong cho Trung Quốc. Đơn vị tiền tệ của Hồng Kông là Dollar Hồng Kông.
Kể từ năm 1983, đồng tiền này đã đƣợc neo chặt vào Dollar Mỹ.

Đồng tiền này đƣợc phép trao đổi với một dải tỷ giá từ 7,75 và 7,85 dollar Hồng Kông ăn
một dollar Mỹ. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để
cho giới đầu cơ tấn công. Nhƣng Cơ Quan Tiền Tệ Hongkong đã "mạnh tay" trong việc
chi một khoãn tiền khổng lồ là 1 tỉ USD để giữ vững đồng tiền của mình. Thị trƣờng
Chứng khoán nƣớc này tiếp tục sụt giảm mạnh, chỉ số giao dịch HangSeng-Index giảm

23%. Nền kinh tế nƣớc này đã sụt giảm 5,3%.
 Hàn Quốc: Khi khủng hoảng tài chính Đông Á xảy ra, Hàn Quốc đang chịu một khoản
nợ khổng lồ. Chính điều này đã làm cho vị trí trong nền Kinh tế - Tín dụng của Hàn Quốc bị hạ
thấp, dẫn tới TTCK bị sụt giảm nghiêm trọng. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn
khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Để tháo gỡ khó

khăn, chính phủ Hàn Quốc đã phải chấp nhận vay khẩn cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) 57 tỷ USD với những điều kiện ngặt nghèo, tiến hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng
nền kinh tế thị trƣờng dân chủ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt, coi trọng các công ty
vừa và nhỏ, giảm sự can thiệp của nhà nƣớc, chống câu kết chính trị - kinh doanh, mặt
khác, đã áp dụng chính sách "thắt lƣng buộc bụng", huy động quốc dân quyên góp tiền
vàng ủng hộ chính phủ. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong việc khắc phục khủng
hoảng trong thời gian 3 năm (1998-2000), trả xong nợ của IMF.
 Malaysia: Tƣơng tự nhƣ các quốc gia khác bị ảnh hƣởng từ cuộc khủng hoảng này, tình
trạng bán ra trƣớc hạn (short-shelling) đồng tiền tệ Malaysia, đồng ringgit diễn

ra. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài rơi xuống mức báo động, khi dòng vốn chảy ra khỏi đất
nƣớc, giá trị đồng ringgit giảm từ MYR 2.50 trên USD xuống còn MYR 4.80 trên USD.
Chỉ số tổng hợp Thị trƣờng Chứng khoán Kuala Lumpur mất gần 1300 điểm xuống gần
mức 400 sau vài tuần. Sau sự sa thải gây tranh cãi bộ trƣởng tài chính Anwar Ibrahim,
một Hội đồng Hành động Kinh tế Quốc gia đƣợc thành lập để giải quyết cuộc khủng
hoảng tiền tệ. Ngân hàng Negara đặt ra các biện pháp kiểm soát vốn và chốt giữ tỷ giá
23


đồng ringgit Malaysia ở mức 3.80 trên US dollar. Tuy nhiên, Malaysia đã từ chối các gói
hỗ trợ kinh tế từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới, gây ngạc nhiên cho
nhiều nhà phân tích. Lƣợng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý
ba năm 1997.
c. Hậu quả

Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan
rồi lan ra các thị trƣờng chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản
khác ở một số nƣớc châu Á, trong đó có nhiều quốc gia đƣợc coi nhƣ là "những con Hổ
Đông Nam Á". Tầm ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng không chỉ giới hạn trong khu vực
mà còn gây ra những chấn động lớn cho nền kinh tế của các quốc gia khác ngoài khu vực.

Bảng 1: Tăng trƣởng kinh tế và thất nghiệp trong khủng hoảng
(Nguồn: Vũ Quý Phương (6/2007), Khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 – một góc nhìn)


Tác động đối với Mỹ

Đối với Mỹ, cuộc khủng hoảng làm cho thị trƣờng xuất khẩu của nƣớc này bị co
lại do đồng đô la lên giá, nên khả năng cạnh tranh của hàng hoá Mỹ giảm xuống. Ngƣời
ta tính rằng ít nhất thị trƣờng xuất khẩu của Mỹ giảm 25%, bao gồm phần lớn là thị
trƣờng của các nƣớc Đông Nam Á. Điều này làm cho tình trạng nhập siêu của Mỹ ngày
càng trầm trọng. Năm 1997, Mỹ nhập siêu là 176 tỷ USD, cao hơn nhiều so với 148 tỷ
USD của năm 1996. Trong khi đó mức thặng dƣ thƣơng mại của Nhật tăng từ 66 tỷ USD
năm 1996 lên 99 tỷ USD năm 1997. Do vậy Mỹ và EU đã lên tiếng tại WTO yêu cầu
Nhật Bản phải có các chính sách cắt giảm xuất khẩu tự nguyện và tạo điều kiện để hàng
hoá nƣớc ngoài dễ dàng thâm nhập vào thị trƣờng Nhật Bản.
Đồng thời, cuộc khủng hoảng này còn gây nguy hại cho nền kinh tế Mỹ theo một
cách khác. Do đồng tiền của các nƣớc bị phá giá so với đồng đô la Mỹ, nên hàng nhập 24


khẩu vào Mỹ trở nên rẻ một cách tƣơng đối, điều đó làm cho giá cả trên toàn bộ thị
trƣờng Mỹ phải giảm xuống theo, tức là làm cho lợi nhuận của các nhà sản xuất ở Mỹ
giảm và đầu tƣ kinh doanh cũng giảm. Nhiều sản phẩm của các công ty Mỹ không thể
tiêu thụ đƣợc do giá cao dẫn đến tồn kho nhiều. Nhƣ vậy, các công ty Mỹ chắc chắn sẽ
không thể tiếp tục đầu tƣ để nâng cao sản lƣợng đƣợc. Rõ ràng cuộc khủng hoảng này đã

làm cho cả đầu tƣ lẫn xuất khẩu đều giảm, có nghĩa là nền kinh tế Mỹ khó có thể duy trì
tiếp sự hùng mạnh của mình.
Ngoài ra, do các nƣớc Đông Á phải thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ để khắc
phục cuộc khủng hoảng theo điều kiện của IMF nên họ không có khả năng trả số tiền mua
vũ khí hoặc phải kéo dài thời hạn thanh toán cho những hợp đồng đó với Mỹ. Tức là giờ
đây, các nƣớc và vùng lãnh thổ Đông Nam Á khó có khả năng hiện đại hoá quân đội của
mình, đặc biệt là vũ khí, khí tài. Mối hợp tác chiến lƣợc của Mỹ với Đông Nam Á chắc
chắn sẽ bị giảm sút một cách đáng kể. Khả năng hiệp đồng lực lƣợng giữa Mỹ và các
nƣớc đồng minh Đông Nam Á sẽ bị ảnh hƣởng lớn. Cuộc khủng hoảng đã làm thay đổi
nhận thức về an ninh của các nƣớc trong khu vực và tác động tiêu cực đến hợp tác an
ninh của Mỹ với các nƣớc này. Nhƣ vậy cuộc khủng hoảng này ngoài tác động về kinh
tế, đã có tác động mạnh đến quyền lợi an ninh của Mỹ trong khu vực cả trong giai đoạn
trƣớc mắt lẫn trong giai đoạn sau này.


Tác động đối với Trung Quốc

Cuộc khủng hoảng này giống nhƣ một hồi chuông cảnh tỉnh cho Trung Quốc, vì
Trung Quốc cũng có nhiều vấn đề tƣơng tự nhƣ ở các nƣớc Đông Nam Á nói chung. Tức
là nền kinh tế cũng có thể bị sụp đổ vì đầu tƣ quá nhiều vào công nghiệp mà sao nhãng
khu vực sản xuất nông nghiệp. Đồng thời tình trạng bong bóng do đầu tƣ vào khu vực bất
động sản và chứng khoán, là tình trạng tham nhũng tràn lan, và hệ thống tài chính, ngân
hàng không mấy trong sạch và vững chắc, nợ nần chồng chất. Tình trạng này sẽ gây khó
khăn lớn cho các DNNN. Nếu nhƣ Trung Quốc đẩy nhanh cải cách các DNNN, số ngƣời
thất nghiệp sẽ gia tăng nhanh chóng (trên 100 triệu ngƣời). Khi đó, tình trạng phức tạp sẽ
phát sinh nhiều và có thể tới mức trở thành khủng hoảng chính trị. Nếu Trung Quốc sụp
đổ, toàn bộ Đông Nam Á sẽ bị khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều.
25



Cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á hiện nay vẫn tiếp tục tác động tới nền kinh
tế Trung Quốc và có khả năng còn trầm trọng hơn Trung Quốc dự đoán rất nhiều. Ví dụ,
một số nhà máy ở tỉnh Sơn Đông từ cuối năm 1997 đã xuất hiện tình trạng tăng trƣởng
âm, thậm chí có một số nhà máy tuyên bố phá sản. Từ đầu năm 1998 đến nay, nhiều công
ty ngoại thƣơng của Thƣợng Hải đã huỷ đơn đặt hàng, có một số kéo dài thời hạn thanh
toán, thậm chí có một số phải giảm giá để bán hàng. Gần đây một quan chức của tổng
công ty xuất nhập khẩu hàng dệt của Trung Quốc tiết lộ rằng một số mặt hàng dệt của
Trung Quốc năm nay không nhận đƣợc đơn đặt hàng, một số tuy nhận đƣợc đơn đặt hàng
nhƣng bên mua lại yêu cầu ngừng thực hiện. Điều này rất dễ hiểu vì thị trƣờng, cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc cũng giống nhƣ của những nƣớc Đông Nam Á.
Nhƣng do đồng tiền của các nƣớc này bị phá giá nên đã nâng khả năng cạnh tranh của
hàng hoá các nƣớc này lên so với của Trung Quốc. Điều đó đã đặt ra một thách thức lớn
đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc trên thị trƣờng Mỹ và Tây Âu. Các mặt hàng
công nghiệp nhẹ nhƣ dệt túi da, giầy dép, điện da dụng đều bị hàng từ các nƣớc Đông
Nam Á uy hiếp.
Về đầu tƣ, khả năng nƣớc ngoài đầu tƣ trực tiếp vào Trung Quốc sẽ giảm đi, vì
nguồn đầu tƣ vào Trung Quốc chủ yếu là từ các nƣớc Đông Nam Á. Nay các nƣớc này
đều đang bị khủng hoảng nên khả năng đầu tƣ ra nƣớc ngoài của họ đều giảm đi. Hơn
nữa, chính bản thân các nƣớc này đang không ngừng đƣa ra những chính sách ƣu đãi đối
với đầu tƣ nƣớc ngoài nhằm thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài từ các khu vực khác nhiều
hơn nữa để nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của mình. Điều này đặt ra thách thức rất lớn
cho việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trực tiếp vào Trung Quốc. Nhƣ vậy, cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ của Đông Nam Á đã gửi một thông điệp cảnh báo Trung Quốc rằng
nếu họ không có những biện pháp kịp thời, hữu hiệu thì họ chắc chắn sẽ sa lầy vào cuộc
khủng hoảng tài chính nhƣ các nƣớc Đông Nam Á khác.


Tác động đối với Việt Nam

Có một số ý kiến cho rằng vì đồng tiền Việt Nam chƣa chuyển đổi đƣợc, chƣa có

thị trƣờng chứng khoán và mới đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nên mức độ
ảnh hƣởng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ là rất nhỏ hoặc không có. Nhƣng trái lại, cuộc

26


×