Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

tiểu luận tài chính công ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước đến tăng trưởng kinh tế việt nam từ năm 2000 đến năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.98 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng thập kỉ, cụm từ “tăng trưởng kinh tế” chưa một lần được loại bỏ khỏi các
chính sách kinh tế và bảng mục tiêu kinh tế của một quốc gia. Một cách đơn giản, có
thể giải thích rằng tăng trưởng kinh tế đại biểu cho sự phát triển của một quốc gia, dù
trên thực tế chứng minh rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Tuy nhiên, về dài
hạn thì kinh tế quyết định đến sự phát triển xã hội cũng như chính trị là điều không thể
phủ nhận. Theo nhiều nghiên cứu kinh tế đã tổng kết, có nhiều nhân tố quyết định đến
sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tuy nhiên có thể tạm chia làm hai nhóm bao
gồm các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Trải qua chặng đường dài của việc khảo nghiệm
các cách tăng trưởng kinh tế, có thể tổng kết lại ba con đường tăng trưởng chủ yếu: chú
trọng tăng trưởng nhanh; coi trọng bình đẳng; công bằng xã hội và phát triển toàn diện.
Đối với con đường thứ nhất, việc sử dụng các nhân tố kinh tế là chủ yếu để tăng trưởng
kinh tế. Đây cũng là cách làm của hầu hết các nước tư bản trong giai đoạn từ những
năm 70, 80. Tuy nhiên về dài hạn, việc loại bỏ tầm quan trọng của các yếu tố phi kinh tế
trong tăng trưởng đã dẫn đến các hệ quả xã hội như cạn kiệt tài nguyên, ảnh hưởng môi
trường, sự suy kiệt của văn hóa hay suy giảm chất lượng cuộc sống. Thay vào đó, hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm Việt Nam lại chọn đi theo hai con đường còn
lại khi chú trọng tăng trưởng bền vững gắn liền với tăng trưởng phúc lợi, chất lượng
cuộc sống với dịch vụ công, cải thiện chất lượng môi trường hay phân phối lại thu nhập.
Để làm được điều đó, một nguồn ngân sách cân bằng và ổn định là không thể thiếu và
do đó, việc thâm hụt ngân sách ảnh hưởng vô cùng trầm trọng đến tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội của Việt Nam; dẫn chứng cụ thể là vào khoảng những năm 80 khi
chính phủ phải bù bội chi ngân sách dẫn đến lạm phát ba con số.
Về đường dài, nếu thâm hụt ngân sách trầm trọng như vậy còn xảy ra, không chỉ nền
kinh tế nước nhà mà cuộc sống của người dân cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hiểu
được tầm quan trọng của thâm hụt ngân sách nhà nước với việc tăng trưởng kinh tế,
nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài phân tích về ảnh hưởng của thâm hụt ngân
sách nhà nước đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2016. Qua đó,
dự đoán tăng trưởng kinh tế và đề xuất một số giải pháp để cải thiện vấn đề thâm hụt
ngân sách ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.



2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả hướng đến làm rõ ba vấn đề:
Thứ nhất, ảnh hưởng hay mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế
Việt Nam giao đoạn 2000 đến 2016
Trang | 5


Thứ hai, xét xem mức độ ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên các biến số kinh tế
khác như lạm phát
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp giúp tăng trưởng kinh tế thông qua giải quyết vấn đề
thâm hụt

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài viết là ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến tăng
trưởng kinh tế
Phạm vi nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2000 – 2016
Trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả cập nhật các vấn đề sau:
Thứ nhất, các lý thuyết liên quan đến đối tượng nghiên cứu và các nhân tố gây ra thâm
hụt ngân sách và tác động đến tăng trưởng kinh tế
Thứ hai, mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách lên các biến số kinh tế khác như tỉ lệ lạm
phát và ảnh hưởng chung của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong khoảng thời gian từ 2000 đến 2016
Thứ ba, các giải pháp hiện có để giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách cũng như thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và các giải pháp đề xuất khác trong bài nghiên cứu

4. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu gồm 4 phần, không kể mở đầu, phụ lục và kết luận. Trong đó:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 2. Mô hình phân tích

Chương 3. Kết qua nghiên cứu và kiểm định
Chương 4. Kết luận về kết quả phân tích và gợi ý chính sách tăng trưởng kinh tế

Trang | 6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan nghiên cứu
1.1. Quan điểm của các trường phái kinh tế
Trong từng giai đoạn của lịch sử phát triển kinh tế, đã có rất nhiều quan điểm của các
nhà kinh tế học hay các trường phái khác nhau về mối quan hệ của thâm hụt ngân sách
với tăng trưởng kinh tế và một số biến số kinh tế khác. Cụ thể:
Trường phái cổ điển. Trường phái cổ điển cho rằng ngân sách phải luôn trong tình trạng
cân bằng. Nói cách khác, không xảy ra hiện tượng thâm hụt hay thặng dư ngân sách. Đặc
biệt, thâm hụt hay bội chi ngân sách có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và các
biến số vĩ mô của nền kinh tế như gia tăng lạm phát do khi thâm hụt, nhà nước có thể cố bù
đắp bội chi bằng việc phát hành thêm tiền, hay mất giá đồng nội tệ do nhà nước đi vay
nước ngoài hoặc tăng thuế tiêu dùng khiến giá cả hàng hóa vô hình chung bị đẩy lên cao.
Tuy hậu quả của việc thặng dư ngân sách nhìn chung không nghiêm trọng như thâm hụt,
nhưng theo trường phái này thì thặng dư cho thấy nhà nước sử dụng không hiệu quả nguồn
thu ngân sách, không đầu tư đúng mức vào các công trình công cho công chúng, gây lãng
phí nguồn lực. Tuy nhiên, lý thuyết này được nhận định là khá “cứng nhắc” bởi nếu trong
một năm ngân sách, Chính phủ không chi hết thì bị cho là lãng phí và buộc phải chi hết
khoản thu; trong khi các khoản cần chi đến lúc cần lại không có tiền chi.

Trướng phái tân cổ điển. Giống như trường phái cổ điển, trường phái tân cổ điển cũng
cho rằng giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ nghịch chiều.
Cụ thể, khi thâm hụt xảy ra, chứng tỏ mức chi tiêu vượt mức và tiết kiệm quốc gia do

đó giảm xuống. Khi chi tiêu công quá nhiều, dẫn đến khoản đầu tư cho khu vực tư giảm
xuống. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách dễ dẫn đến việc nhà nước đi vay trong nước
và chấp nhận mọi mức lãi suất. Khi đó lãi suất tăng cao gây khó khăn cho khu vực tư
hay chèn ép khu vực tư, đầu tư tư nhân giảm xuống thì hiệu quả sản xuất cũng giảm.
Trường phái Keynes. Khác với hai trường phái cổ điển và tân cổ điển, Keynes cho rằng
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều. Tăng chi
ngân sách có thể kích cầu, từ đó kích thích đầu tư và tiết kiệm. Tuy nhiên, lý thuyết của
Keynes ban đầu nhận được rất nhiều chỉ trích từ chính quyền Anh Quốc và chính phủ
đã thực hiện cắt khoản chi phúc lợi và tăng thuế để khôi phục cân bằng tài khoản quốc
gia. Tuy nhiên, Keynes cho rằng điều này sẽ không làm cho công chúng chi tiêu nhiều
hơn và do đó nền kinh tế không thể hồi phục. Theo Keynes, chính phủ nên chi tiêu
nhiều hơn để kích cầu tiêu dùng, từ đó có thể dẫn kết quả tất yếu là tăng trưởng kinh tế
và giảm tỉ lệ thất nghiệp.
Trang | 7


Định lý cân bằng Ricardo. Theo định lý cân bằng Ricardo hay định lý cân bằng Barro
(Ricardian equivalence hypothesis) thì thâm hụt ngân sách không có ảnh hưởng tích cực
hay tiêu cực nào đối với tăng trưởng kinh tế trong cả ngắn hạn và dài hạn. Nói cách khác,
“sự cân bằng” này xảy ra do việc “trả giá” giữa hiện tại và tương lai. Cụ thể, nhà nước có
thể thực hiện kích cầu bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Tuy nhiên, để có được khoản chi
đó, chính phủ phải phát hành công trái. Hay việc thâm hụt ngân sách do giảm thuế ở hiện
tại sẽ được “bù đắp” bằng việc tăng thuế trong tương lai. Lý thuyết của Ricardo giải thích
rằng người dân biết được giới hạn ngân sách của chính phủ nên việc thay đổi thuế suất sẽ
không ảnh hưởng quá nhiều đến việc tiêu dùng của họ. Nói theo cách khác, nếu người dân
biết rằng hiện tại chính phủ giảm thuế thì họ sẽ tiết kiệm nhiều hơn (dù thu nhập khả dụng
tăng lên do thuế giảm) vì trong tương lai, nhà nước chắc chắn sẽ bù đắp cho khoản thâm
hụt ấy bằng việc tăng thuế. Tuy tiết kiệm của chính phủ giảm xuống nhưng tiết kiệm cá
nhân lại tăng lên, tạo ra một trạng thái “cân bằng”.


1.2. Nghiên cứu trong và ngoài nước
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có vô số các nghiên cứu của các nhà kinh tế học nói
chung và các tác giả trên thế giới về các vấn đề liên quan như mối quan hệ của ngân
sách nhà nước và sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia cụ thể, một khu vực hay chi
ngân sách với tăng trưởng kinh tế. Dưới đây, nhóm tác giả xin trích dẫn một số nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài và tác giả trong nước về vấn đề thâm hụt ngân sách và
tăng trưởng kinh tế. Đối với các bài nghiên cứu của tác giả nước ngoài, nhóm tác giả
xin được trích dẫn bằng tiếng anh và dịch lại trên cơ sở đọc hiểu nghiên cứu của mình.
1.2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Constatinos Alexiou. Government Spending and Economic Growth: Econometric Evidence from the South Eastern
Europe (SEE). Journal of Economic and Social Research 11(1) 2009, 1-16. Trong bài nghiên cứu thực nghiệm về ảnh
hưởng của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế chuyển đổi (transition economies 1) thuộc khu
vực Đông Nam Âu, tác giả Constatinos Alexiou đã sử dụng mô hình nền tảng là hàm sản xuất gộp phát triển bởi trường
phái kinh tế tân cổ điển (Y = (K, L)); từ đó bằng phương pháp hồi quy để tìm ra ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ lên

5 yếu tố kinh tế-xã hội và mối quan hệ của các tác động đó lên tăng trưởng kinh tế. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng chi tiêu chính phủ khi tác động lên 4 biến capital formation
(tích lũy tài sản gộp hay đầu tư), development assistance (DA - vốn đầu tư hỗ trợ phát
triển), private investment (đầu tư khu vực tư), trade openness (mức độ mở cửa) sẽ cho
ra hiệu quả tích cực với tăng trưởng kinh tế. Riêng đối với biến population growth (tăng
trưởng dân số), chi tiêu chính phủ không có quan hệ chặt chẽ và do đó, chưa đánh giá
được tác động gián tiếp của nó lên tăng trưởng kinh tế.
1Transition economy (Kinh tế chuyển đổi): Nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường

Trang | 8


Qua nghiên cứu của Alexiou, có thể thấy tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
thực nghiệm để đưa ra mối quan hệ “dây chuyền” hay “bắc cầu” giữa chi tiêu chính phủ

với tăng trưởng kinh tế thể hiện qua tác động của nó tới các biến số kinh tế - xã hội
khác. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng khá phức tạp và chồng chéo. Ngoài ra, phương
pháp nghiên cứu vẫn chỉ đưa ra được sự tác động riêng lẻ của chi tiêu chính phủ lên
từng biến số từ đó đưa ra quan hệ đó ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng chứ không thể
hiện tác động gộp. Cụ thể, bài chỉ ra tác động của chi tiêu chính phủ lên vốn đầu tư hỗ
trợ phát triển và kết luận tác động này sẽ tạo ra thay đổi tích cực đối với tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, biến vốn đầu tư hỗ trợ (DA) không chỉ chịu tác động độc lập của chi
tiêu mà còn được quyết định bởi các biến số độc lập còn lại như mức độ mở cửa của
nên kinh tế. Như vậy, nghiên cứu của Alexiou chỉ đưa ra mối quan hệ gián tiếp của chi
tiêu chính phủ lên tăng trưởng kinh tế trong điều kiện chi tiêu chính phủ gắn với một
biến số kinh tế-xã hội cụ thể.
Ngoài ra, trong bài nghiên cứu, tác giả có đề cập đến việc liệu sự mở rộng quy mô
chính phủ hay gia tăng chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hay
không. Vấn đề này đã được thảo luận và chia làm hai phe đối lập với một bên đứng về
mối quan hệ ngược chiều và bên còn lại về mối quan hệ thuận chiều giữa sự gia tăng
chi tiêu chính phủ và sự tăng trưởng kinh tế. Bài nghiên cứu cũng đề cập đến việc một
số lý thuyết kinh tế cho rằng trong một số trường hợp thì việc chi tiêu ở mức độ thấp sẽ
dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhưng trong một số trường hợp khác thì việc chi tiêu ở mức
độ cao sẽ được kỳ vọng hơn.
Đưa ra bằng chứng về quan điểm của bên ủng hộ mối quan hệ nghịch chiều, tác giả đã
trích dẫn các kết quả nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu và tác giả khác. Cụ thể:
Kết quả nghiên cứu của Knoop (1999) cho nền kinh tế Hoa Kỳ với bộ số liệu chuỗi thời
gian trong vòng 25 năm từ 1970 đến 1995 chỉ ra rằng sự thu nhỏ quy mô chính phủ sẽ
dẫn đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi.
Một nghiên cứu khác của Fölster và Henrekson (1999, 2001) với bộ số liệu tương tự
thực hiện trên phạm vi là các quốc gia giàu có từ năm 1970 đến 1995 cũng ủng hộ quan
điểm rằng tăng chi tiêu công sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, trong một nghiên cứu thực nghiệm khác của Ghura (1995) với dữ liệu chuỗi
thời gian và dữ liệu chéo của 33 quốc gia thuộc khu vực Châu Phi Hạ Sahara (SubSaharan Africa) trong khoảng thời gian từ 1970 đến 1990, tác giả đã cung cấp bằng
chứng cho mối quan hệ nghịch chiều giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế.

Các quốc gia trong nghiên cứu của Ghura được chia làm bốn nhóm: Các quốc gia tăng
trưởng nhanh (tốc độ tăng trưởng trên 2%), các quốc gia tăng trưởng trung bình – yếu
(0% - 1,9%), các quốc gia tăng trưởng yếu ((-1%) - (-0,01%)) và các quốc gia tăng
trưởng rất yếu (tốc độ tăng trưởng dưới -0,9%).
Ngoài ra, còn rất nhiều các nghiên cứu của các tác giả khác được đề cập trong bài viết.
Trang | 9


Như vậy, từ nhóm nghiên cứu này, có thể tạm thời cho rằng việc thâm hụt ngân sách do
mở rộng quy mô chính phủ hay tăng chi chính phủ có thể dẫn tới sự đình trệ trong tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên hầu hết mới đưa ra kết luận về mối quan
hệ của chi tiêu chính phủ nói chung đến tăng trưởng kinh tế mà không đề cập đến
cường độ hay mức độ ảnh hưởng cùng việc nêu ra được nhân tố nào trong chi tiêu là tác
động mạnh mẽ hơn cả đến tăng trưởng kinh tế và liệu mức độ thâm hụt ngân sách của
quốc gia đó có phải chiếm phần nhiều trong bộ số liệu hay không.
Đối với nhóm ủng hộ mối quan hệ thuận chiều, tác giả Constatinos Alexiou có đề cập
đến một nghiên cứu của chính mình vào năm 2007 về nền kinh tế Hy Lạp. Sau khi phân
tích các yếu tố thuộc chi tiêu chính phủ, tác giả đã đưa ra bằng chứng rằng có một mối
quan hệ thuận chiều giữa sự gia tăng của một số yếu tố trong chi tiêu chính phủ với tăng
trưởng GDP. Ngoài ra, bài nghiên cứu của Kelly (1997) về ảnh hưởng của chi tiêu ngân
sách nhà nước với tăng trưởng của 73 quốc gia trong khoảng thời gian từ 1970 đến
1989 hay nghiên cứu của Aschauer (1990) cũng ủng hộ mối quan hệ này.
Tương tự như nhóm nghiên cứu trước, bài viết của các tác giả trên cũng không đề cập
rõ ràng chi tiêu không vượt quá ngưỡng nào thì cho ra kết quả thuận chiều và ngược lại.
Ngoài tác giả Constatinos Alexiou có phân tích các yếu tố thuộc chi tiêu chính phủ thì
rất ít các nhà nghiên cứu khác cũng làm theo cách tương tự. Và do đó, ảnh hưởng của
thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế là chưa thể nói rõ.
Nhìn chung, bài nghiên cứu của tác giả Constatinos Alexiou mới dừng lại ở mức độ
nghiên cứu mối quan hệ của chi tiêu chính phủ với tăng trưởng kinh tế chứ không đào
sâu vào yếu tố thâm hụt ngân sách.

Nur Hayati Abd Rahman. The Relationship between Budget Deficit and Economic
Growth from Malaysia’s Perspective: An ARDL Approach. IPEDR vol.38 (2012). Khác
với nghiên cứu của Alexiou, nghiên cứu của Rahman đi sâu hơn vào mối quan hệ giữa
thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tác giả Nur Hayati Abd Rahman
cũng sử dụng phương pháp thực nghiệm, chạy mô hình ARDL (kết hợp giữa mô hình
Var và OLS) cho bộ số liệu giai đoạn 2000 đến 2011 (lấy theo quý) để kiểm chứng mối
quan hệ dài hạn giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của Malaysia. Mô hình
được tác giả sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng
kinh tế sử dụng các biến số có tác động đặc thù đến nền kinh tế Malaysia. Mô hình
được thể hiện: y = (debt, prod, unprod). Trong đó, y là GDP thực tế (real GDP),
debt là nợ công (public debt – government’s debt), prod là gia tăng chi tiêu sản xuất
(growth of productive expenditure) và unprod là gia tăng chi tiêu không có tính sản xuất
(growth non-productive expenditure). Theo tác giả, hai biến prod và unprod được tác
giả thêm vào do mức độ đóng góp và sự liên quan chặt chẽ của chúng đến thâm hụt
ngân sách.
Trang | 10


Qua thực nghiệm, bài nghiên cứu kết luận không có mối quan hệ dài hạn giữa thâm hụt
ngân sách với tăng trưởng kinh tế của Malaysia, đồng nghĩa với việc bài đi theo quan
điểm của định lý cân bằng Barro – Ricardo (Ricardian equivalence hypothesis) rằng có
mối quan hệ trung hòa giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế. Khác với quan
điểm của Ricardo, bài nghiên cứu chỉ ra có sự khác biệt trong quan điểm về mối quan
hệ của thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế giữa các trường phái. Cụ thể, học
thuyết kinh tế trường phái Keynes (Keynesian economies) cho rằng giữa thâm hụt ngân
sách và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ tích cực; trường phái kinh tế học tân cổ điển
(neo-classical) lại khẳng định điều ngược lại; trong khi Ricardo đứng ở vị trí trung lập.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có nhiều nhà kinh tế học đồng ý với
quan điểm của trường phái tân cổ điển.
Theo như giải thích của tác giả cho trường hợp của trường phái tân cổ điển, nhìn chung

chính phủ sẽ phải đi vay trong và ngoài nước để bù đắp thâm hụt ngân sách. Việc gia
tăng nhu cầu các khoản vay của chính phủ làm tăng lãi suất và gây ra hiện tượng chèn
ép khu vực tư nhân do chính phủ có thể vay ở mọi mức lãi suất còn khu vực tư nhân thì
không. Việc khu vực tư bị chèn ép khiến các khoản đầu tư từ khu vực này cũng giảm
theo và do đó, làm suy giảm mức độ tăng trưởng kinh tế. Quan điểm này khá giống với
kết luận trong nghiên cứu của Ahmed và Miller (2000) được đề cập ở dưới và nghiên
cứu của Ball và Mankiw với trường hợp nước Mỹ năm 1960 đến 1994.
Ngoài ra, trong bài viết, tác giả cũng trích dẫn một vài nghiên cứu khác, tiêu biểu như
của Bose, Haque và Osborn về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh
tế của 30 quốc gia đang phát triển giai đoạn từ 1970 đến 1990 với dữ liệu bảng. Qua
nghiên cứu thực nghiệm, ba tác giả kết luận rằng thâm hụt ngân sách giúp nền kinh tế
phát triển trong điều kiện sự thâm hụt là hệ quả của tăng chi tiêu sản xuất như chi tiêu
vào giáo dục, sức khỏe, và chi tiêu cho đầu tư (CAPEX).
Goher Fatima, Mehboob Ahmed, Wali ur Rehman. Consequential Effects of Budget
Deficit on Economic Growth of Pakistan. International Journal of Business and Social
Science Vol. 3 No. 7; April 2012. Giống với nghiên cứu của Rahman, nghiên cứu của
nhóm ba tác giả Goher, Mehboob và Wali chỉ rõ hơn về chuỗi ảnh hưởng của thâm hụt
ngân sách lên tăng trưởng kinh tế của Pakistan. Bài nghiên cứu thực nghiệm của nhóm
tác giả sử dụng số liệu chuỗi thời gian trong khoảng thời gian từ 1978 đến 2009 với
phân tích hồi quy (OLS) dựa trên mô hình gốc của Shojai (1999) cho ra kết quả về ảnh
hưởng tiêu cực của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, mô hình sử
dụng trong bài nghiên cứu như sau:
Ln (GDP) = β0 + β1 ln (INFL) + β2 ln (EXCH) + β3 ln (RIR) + ln β4 (BD) + ln β5 (GI) + u

Trang | 11


Trong đó, 5 biến độc lập được sử dụng bao gồm lạm phát (INFL), tỷ giá thực (EXCH),
lãi suất thực (RIR), thâm hụt ngân sách (BD) và tổng đầu tư (GI).
Đưa ra kết luận về kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả có đề cập đến nguyên nhân cho tác

động tiêu cực của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế Pakistan là do chính phủ
thiếu nguồn lực để bù đắp cho các khoản chi phí phát sinh trong tương lai. Hay nói
cách khác, tiết kiệm và thu nhập của chính phủ không đủ bù đắp chi tiêu. Bên cạnh đó,
tác giả cũng đề cập đến nhân tố lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực (tác động nghịch chiều)
đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả có đề cập đến kết quả nghiên cứu của một
số tác giả tiêu biểu khác. Cụ thể như:
Ahmed và Miller (2000) chứng minh rằng chi tiêu chính phủ bao gồm hai thành phần.
Phần thứ nhất là chi cho trị an xã hội và phúc lợi nhiều dẫn đến giảm chi đầu tư. Phần
thứ hai là chi cho khu vực dịch vụ, bao gồm cả các phương tiện giao thông vận tải dẫn
đến tăng khoản đầu tư từ khu vực tư. Từ đó, cho ra kết luận sự sụt giảm trong chi đầu tư
dẫn đến thâm hụt ngân sách.
Nghiên cứu của Al-Khedar (1996) về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia thuộc khu vực G-7 từ 1964 đến 1993 cho ra kết quả
thâm hụt có ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại nhưng ảnh hưởng tích cực đến
tăng trưởng kinh tế.
Tương tự, nghiên cứu của Barro (1979) cũng phát hiện ảnh hưởng tích cực và tầm quan
trọng của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế. Ảnh hưởng này có được là do
mối quan hệ tích cực giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát.
Ngoài ra, bài viết của nhóm ba tác giả còn đề cập đến một nghiên cứu nổi bật của tác
giả Huỳnh (2007) sẽ được phân tích rõ hơn ở mục [1.2.2].
1.2.2. Nghiên cứu trong nước
ND Huynh. Budget Deficit and Economic Growth in Developing countries: The Case of
Vietnam. Kansai institute for social and economic research, 2007. Cũng sử dụng
phương pháp nghiên cứu thực nghiệm với bộ số liệu lấy trong phạm vi các nước Châu
Á đang phát triển trong giai đoạn 1990 đến 2006, tác giả Đỗ Ngọc Huỳnh kết luận có
tác động tiêu cực của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng GDP của Việt Nam. Thêm vào
2

đó, tác giả còn chỉ ra rằng có hiện tượng lấn át (crowding-out effect ) khi thâm hụt gia

tăng. Kết luận này tương tự với giải thích của tác giả Rahman ở mục [1.2.1] cho quan
điểm của trường phái tân cổ điển về ảnh hưởng tiêu cực của thâm hụt ngân sách lên
tăng trưởng kinh tế trong trường hợp xảy ra lấn át khu vực tư.

2Hiện tượng lấn át (crowding-out effect): Học thuyết kinh tế chỉ ra rằng sự gia tăng chi tiêu khu vực công sẽ làm
giảm hoặc thậm chí triệt tiêu chi tiêu khi vực tư

Trang | 12


Huỳnh Thế Nguyễn, Nguyễn Lê Hà Thanh Na, Lê Quốc Nghi. Mối quan hệ giữa thâm
hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển KH & CN, tập 18,
số Q2, 2015. Đối với nghiên cứu của ba tác giả với mô hình Var (véc tơ tự hồi quy) cho
bộ số liệu giai đoạn 1990 đến 2012 với mô hình gốc là nghiên cứu của Shojai (1999).
Mô hình cụ thể thể hiện dưới dạng
Yt = A1Yt-1 + A2Yt-2 + …+ ApYt-p + st + ut
Với Yt là vecto gồm 6 biến nội sinh GDP, BD (budget deficit), GI (gross investment),
RIR (real interest rate – lãi suất thực), CPI, RI (real interest – tỉ lệ lãi suất thực); Ai là
ma trận (6x6) tham số; ut là vecto nhiễu và st là vecto hằng số.
Qua nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra kết luận:
“Thâm hụt ngân sách không có quan hệ nhân quả với GDP và ngược lại GDP không có
quan hệ nhân quả với thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách không trực tiếp
làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.”
Như vây, so với bài nghiên cứu của tác giả Huỳnh (2007) cho rằng có mối quan hệ tiêu
cực giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế, bài nghiên cứu của nhóm ba tác giả
trên chỉ ra rằng không có mối liên hệ trực tiếp giữa hai biến số trên. Như vậy, kết quả
khá giống với nghiên cứu của Rahman (2012) cho trường hợp của Malaysia được đề
cập ở mục [1.2.1] rằng trong dài hạn không có mối quan hệ chặt chẽ giữa thâm hụt ngân
sách và tăng trưởng kinh tế.
Đặng Văn Cường, Phạm Lê Trúc Quỳnh. Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng

trưởng kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á. Tạp chí Phát triển và Hội nhập.
Số 23 (33), tháng 07-08, 2015. Bài nghiên cứu thực nghiệm của hai tác giả Văn Cường
và Trúc Quỳnh sử dụng bộ số liệu từ 2001 đến 2013 trong phạm vi các nước Đông Nam
Á với phương pháp GLS (bình phương tối thiểu tổng quát) để giảm thiểu tối đa các
khuyết tật của mô hình so với OLS. Nghiên cứu của hai tác giả cũng dựa trên mô hình
gốc thuộc nghiên cứu của Shojai (1999). Tuy nhiên, có sự thay đổi một số biến so với
mô hình gốc. Cụ thể, nhóm tác giả sử dụng 4 biến độc lập bao gồm thâm hụt ngân sách
(Bd), lạm phát (Inf), đầu tư nước ngoài (Inv) và tín dụng khu vực (Dc).
GDPit = αi + β1iBd + β2iInf + β3iInv + β4iDc + εit
Kết quả được tóm tắt như sau:
“ Kết quả thực nghiệm cho thấy thâm hụt ngân sách, tín dụng khu vực tư tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế, đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế, còn lạm phát thì không có ý nghĩa thống kê.”
Nhóm tác giả có chú thích rằng tuy lạm phát trong trường hợp này không có ý nghĩa thống
kê nhưng khi chạy thử nghiệm thì cho ra quan hệ cùng chiều với tăng trưởng kinh tế và kết
quả tương tự như trong một bài nghiên cứu của Ramzan và cộng sự (2013). Giải
Trang | 13


thích cho vấn đề này, nhóm tác giả cho rằng các quốc gia Đông Nam Á có khả năng tận
dụng tốt lạm phát để thúc đẩy xuất khẩu từ đó giúp tăng trưởng kinh tế.

2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Ngân sách nhà nước
2.1.1. Khái niệm
Cho đến hiện tại, có khá nhiều khái niệm khác nhau về ngân sách nhà nước.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước số 83/2015QH13 khoản 14 điều 4: “Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.” Theo đó, ngân sách Nhà nước sẽ

bao gồm: Ngân sách trung ương và ngân sách đia phương.
Theo khoản 15 điều 4 của Luật Ngân sách Nhà nước:
“Ngân sách trung ương là các khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp trung
ương hưởng và các khoản chi ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp trung
ương.” Theo khoản 13 điều 4 của Luật Ngân sách Nhà nước:
“Ngân sách địa phương là các khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp địa
phương hưởng, thu bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương và các
khoản chi ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp địa phương.”
Theo một bài nghiên cứu đăng trên website của World Bank (Ngân hàng Thế giới) của tác
giả Dorotinsky, định nghĩa về ngân sách nhà nước (government budget) được phân tích
từng phần theo “budget” và “government”. Như vậy, “budget” (ngân sách) bắt nguồn từ
3

budjet được sử dụng trong thời kì Middle English với ý nghĩa là “túi tiền của Nhà vua”
trong đó bao gồm các khoản tiền dùng để chi tiêu công. “Budget” về sau phát triển theo hai
chiều hướng. Ban đầu, Quốc hội đấu tranh để giành quyền kiểm soát ngân sách và để chính
phủ chịu trách nhiệm về việc sử dụng “tài nguyên” của ngân sách. Nói cách khác là Quốc
hội “thông qua” việc sử dụng ngân sách trong khi chính phủ phụ trách về thực hiện các
khoản thu chi của ngân sách. Về sau thì vai trò của ngân sách trở nên phức tạp hơn. Chi
tiêu của chính phủ giành cho nhiều mục đích bao gồm phát triển kinh tế, mục tiêu xã hội,
và tái phân phối. Do đó, chính phủ cần những chính sách tài khóa “đủ an toàn” và ngân
sách chính là một “công cụ” tiềm năng trong việc giúp chính phủ thực hiện các chính sách
ấy. Như vậy, đối với những nước có hệ thống chính quyền tập trung hay mang tính đại biểu
thì ngân sách là một tấm gương tài chính phản ảnh sự lựa chọn của xã hội. Và do đó, các
khoản chi tiêu công chỉ nên được sử dụng dưới sự điều chỉnh của luật pháp.

3Thời kì Middle English: Bắt đầu từ năm 1066 khi người Norman từ Pháp sang xâm lược Anh Quốc và mở ra thời
kì Middle English. Khi người Norman đến Anh, họ đã mang tiếng Pháp du nhập vào Anh và làm phong phú thêm
hệ thống ngôn ngữ thời kì này. Ví dụ “qu” có thể được thay thế bởi “cw” (như vậy “queen” được viết lại thành
“cween”). Thời kì Middle English kéo dài đến giữa thế kỉ 15, nhường chỗ cho thời kì Modern English.


Trang | 14


Đối với hầu hết các nước thì chu kỳ ngân sách thường kéo dài 12 tháng (một năm tài
khóa).
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Ngân sách Nhà nước là một khâu của hệ thống tài chính
quốc gia, nó phản ánh quan hệ TC phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn
tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước, trên cơ sở luật định.
2.1.2. Đặc điểm
Nhìn chung, ngân sách nhà nước có ba đặc điểm chính.
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước luôn gắn liền với quyền lực
của Nhà nước và được tiến hành trên cơ sở luật định.
Thứ hai, ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước.
Thứ ba, hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước thực hiện theo nguyên tắc không hoàn
trả trực tiếp là chủ yếu.
2.1.3. Nguyên tắc cơ bản quản lý ngân sách nhà nước
Việc quản lý ngân sách nhà nước được dựa trên ba nguyên tắc cơ bản.
Nguyên tắc niên hạ.
Mỗi năm chính phủ phải thông qua ngân sách nhà nước một lần và thi hành ngân sách
trong thời gian một năm (tùy theo mỗi quốc gia).
Nguyên tắc đơn nhất – tập trung thống nhất.
Quốc hội quyết định dự toán và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Toàn bộ dự
toán thu, chi cần được trình bày trong một văn kiện duy nhất. Chính phủ không được đệ
trình dự toán ngân sách trước Quốc hội bằng nhiều văn kiện khác nhau và Quốc hội chỉ
xem xét và thông qua ngân sách nhà nước bằng một đạo luật duy nhất.
Nguyên tắc toàn vẹn và đầy đủ.
Mọi khoản thu chi của Nhà nước đều phải tập trung đầy đủ, toàn bộ vào ngân sách nhà
nước, không được bỏ sót hoặc để bất kì nguồn nào ngoài ngân sách nhà nước. Tất cả

khoản thu và khoản chi của quốc gia phải ghi vào trong dự toán ngân sách nhà nước,
không có sự bù trừ giữa thu và chi.

2.2. Thâm hụt ngân sách
2.2.1. Khái niệm
Theo Luật Ngân sách Nhà nước số 83/2015QH13: “Bội chi ngân sách nhà nước bao gồm
bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh. Bội chi ngân sách
trung ương được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách trung ương
không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách trung ương. Bội chi ngân sách địa
phương cấp tỉnh là tổng hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương, được xác
Trang | 15


định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả
nợ gốc và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương.”
Keith Sill - senior economist in the Research Department of the Philadelphia Fed. Do
Budget deficits cause inflation? Business Review, Q3, 2005. Theo nghiên cứu của Keith
Sill, tác giả có giải thích ngắn gọn rằng thâm hụt ngân sách là việc chi tiêu của một chủ
thể, mà vượt quá các khoản thu hay thu nhập mà chủ thể đó có thể đạt được.
Nguyễn Văn Ngọc – Giảng viên khoa Kinh tế học – Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Từ điển Kinh tế học. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2006.
Thâm hụt ngân sách (budget deficit) là “tình hình trong đó tổng chi tiêu vượt quá tổng
thu nhập hay nguồn thu ngân sách. Khái niệm này thường được dùng để chỉ tình trạng
tổng nguồn thu từ thuế của chính phủ không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính
phủ.”
Ngoài ra, trong Từ điển Kinh tế học của Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cũng đưa ra một số
công thức tính thâm hụt ngân sách như sau:
BD=G–T(1)
Trong đó:
BD – Budget deficit: Thâm hụt ngân sách

G: Tổng chi tiêu chính phủ
T: Tổng nguồn thu chính phủ
Tuy nhiên, do mức thu dòng từ thuế phụ thuộc vào thu nhập (Y) của nền kinh tế với T = tY (t là
thuế suất bình quân) còn chi tiêu chính phủ (G = G*) thì không nên phương trình trên được viết
lại như sau:

BD = G* - tY (2)
Giải thích cho phương trình (2), tác giả Nguyễn Văn Ngọc có viết:
“Phương trình này cho thấy thâm hụt ngân sách có thể phát sinh một cách khách quan
(khi thu nhập Y của nền kinh tế giảm xuống dưới một mức nào đó), chứ không phải chỉ
phụ thuộc vào chính phủ (tức việc chính phủ quyết định mức chi tiêu và thuế suất bình
quân). Để có chỉ tiêu đánh giá mức thâm hụt hoàn toàn do yếu tố chủ quan của chính
phủ gây ra, người ta dùng chỉ tiêu thâm hụt ngân sách toàn dụng (với Y = Y*, trong đó
Y* là sản lượng toàn dụng)”.
Ngoài ra, để thấy được tương đối mức độ thâm hụt hay bội chi so với tổng sản phẩm
quốc nội, ta có tỉ lệ bội chi ngân sách được tính như sau:
Mức bội chi NSNN
Tỉ lệ bội chi NSNN =
x 100
GDP

Đối với các nước mới nổi hoặc đang phát triển như Việt Nam thì mức bội chi lành mạnh
nằm trong khoảng tỉ lệ bội chi là 3%, so với các nước phát triển là khoảng 5%.
Trang | 16


2.2.2. Phân loại
Theo quan điểm của hai tác giả Paul A. Samuelson và William D.Nordhaus được nêu ra
trong cuốn sách Kinh tế học, NXB Tài chính, Hà Nội, 2007, bội chi ngân sách nhà nước
được chia thành 2 loại chính: Thâm hụt cơ cấu (Structural budget deficit) và thâm hụt

chu kỳ (Cyclically adjusted budget deficit).
“Thâm hụt cơ cấu là loại thâm hụt phát sinh từ các chính sách tùy biến của chính phủ
như các quy định về thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo
dục, quốc phòng,...”
“Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa
là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế
suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi
chi ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.”
Bên cạnh đó, Từ điển Kinh tế học của tác giả Nguyễn Văn Ngọc còn đề cập đến một loại
hình thâm hụt ngân sách khác. Đó chính là thâm hụt ngân sách thực thiện (actual budget
deficit), tức là “mức thâm hụt thực sự ghi nhận được trong một tài khoản nhất định”.

2.2.3. Các nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách. Trong đó, có thể kể đến 6 nguyên
nhân cơ bản:
Thứ nhất, chiến tranh, thiên tai,… buộc Chính phủ phải thực hiện các khoản chi cho
cứu trợ, xây dựng lại các cơ sở hạ tầng,…
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế buộc Chính phủ phải đưa ra gói kích cầu.
Thứ ba, sự ưa chuộng chính sách tài khóa mở rộng dẫn đến chi tiêu quá đà.
Thứ tư, gánh nặng từ chi phí an sinh xã hội do theo đuổi mô hình “nhà nước phúc lợi
Châu Âu”.
Thứ năm, đầu tư tư nhân giảm xuống do tập trung phát triển đầu tư công.
Thứ sáu, cơ chế quản lý ngân sách kém hiệu quả, Chính phủ không có khả năng kiểm
soát tài chính quốc gia.
Đối với tình hình của Việt Nam trong những năm gần đây, theo Ths. Nguyễn Thị Hệ Đại học Kinh tế Kỹ thuật công nghiệp. Thâm hụt ngân sách ở một số nước và những
vấn đề đặt ra. Tạp chí Tài chính số 8, 2013 trên website tapchitaichinh.vn (Cơ quan
thông tin của Bộ Tài chính), tình trạng thâm hụt ngân sách diễn ra tại Việt Nam cũng
như các quốc gia khác nhìn chung chính là hệ quả của 5 nguyên nhân sau:
Thứ nhất, một trong hai yếu tố dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách chính là đường lối
chi tiêu chưa hợp lý, kém hiệu quả, chi vượt quá thu của cơ quan đầu não Chính phủ. Ý

tưởng cắt giảm chi tiêu cũng không hề dễ thực hiện bởi các khoản chi bắt buộc như “trợ
Trang | 17


cấp an sinh xã hội, chăm sóc y tế” để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Không chỉ vậy, một phần “ngân khố” của các chính phủ cũng được chi cho hạng mục
“trợ giá năng lượng” cho người dân thông qua dịch vụ tiền điện, tiền nước giá rẻ,...
cũng tốn không ít tiền của.
Thứ hai, thâm hụt cũng là một trong các đối tượng phải chịu ‘dư chấn’ từ các cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính trên phạm vi toàn cầu, điển hình là vào năm 2008. Ta có
thể dễ dàng nhận thấy, các sự kiện kinh hoàng này có khả năng tàn phá khiến các doanh
nghiệp lâm vào tình cảnh lao đao, giải thể, phá sản. Từ đó, một phần nguồn thu ngân
sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp cũng bị hạn chế đáng kể.
Thứ ba, các thảm họa thiên nhiên, các cuộc bạo động, khủng bố, dịch bệnh hay các sự
kiện khách quan, khó lường và để lại hậu quả nặng nề khác cũng là một phần khiến
ngân sách nhà nước bị thiệt hại không hề ít khi phải chi tiêu cho các hoạt động dự báo,
phòng ngừa và khắc phục tàn dư sau các thảm họa trên.
Thứ tư, tỷ lệ lạm phát cao là một trong những yếu tố chủ yếu dẫn đến thâm hụt tại các
nước trên thế giới, nhất là ở các nước Châu Á đang phát triển. Những khoản chi tiêu
của Chính phủ các nước được tài trợ bởi thu thuế hoặc các khoản thu khác có thể góp
phần dẫn đến dư thừa của tổng cầu và gây lạm phát. Thêm vào đó, trên thực tế Chính
phủ nhiều nước có thể “bơm tiền” ra để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, do giá cả chưa
phản ứng ngay. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, khi lạm phát xảy ra thì khả năng thu
thuế lạm phát sẽ dần bị hạn chế.
Thứ năm, chính phủ các nước huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ,
miễn giảm thuế và sử dụng các quỹ dự trữ. Để đối phó với khủng hoảng kinh tế, nhiều
nước buộc phải sử dụng gói kích cầu tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế nhưng đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn tới thâm hụt tăng cao.
Cụ thể tại Việt Nam, lý do khiến nguồn chi ngân sách thường vượt mức dự toán đề ra sẽ
được minh họa bằng các con số và nguyên nhân sau đây:

Từ năm 2008 đến 2010, khoản chi ngân sách đã được mở rộng nhằm tạo điều kiện cho
việc triển khai các chính sách kích cầu trong bối cảnh của cuộc đại khủng hoảng kinh tế
bao trùm khắp thế giới.
Tỷ trọng các khoản chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách đã có động thái tăng dần từ
mức 50.37% (2005) đã chạm mốc 61.67% (2012). Nguyên nhân chính là trong khoảng thời
gian này, chính phủ đang dần để mắt đến khu vực hành chính sự nghiệp thông qua chính
sách tăng lương dành cho đối tượng công chức, viên chức nhằm trực tiếp triệt tiêu động cơ
dẫn đến tệ nạn tham nhũng và hạn chế tình trạng chảy máu chất xám sang các khu vực kinh
tế tư nhân. Tuy nhiên, khi khoản chi dành cho bộ máy nhà nước này cứ tiếp tục tăng, nó
cũng góp phần gây nên tình trạng bội chi ngân sách nan giải.
Trang | 18


2.3. Tăng trưởng kinh tế
2.3.1. Khái niệm
Nguyễn Văn Ngọc – Giảng viên khoa Kinh tế học – Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Từ điển Kinh tế học. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2006.
Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là “sự gia tăng của sản lượng tiềm năng theo
thời gian của một nền kinh tế. Khả năng thực sự của nền kinh tế trong việc sản xuất ra
nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn là phụ thuộc vào 5 yếu tố: Sự gia tăng số lượng và chất
lượng hàng đầu tư của nó (tích lũy vốn), sự gia tăng số lượng và chất lượng lực lượng
lao động của nó, sự gia tăng số lượng và chất lượng tài nguyên thiên nhiên của nó, sự
sử dụng có hiệu quả các đầu vào nhân tố này sao cho tối đa hóa được phần đóng góp
của chúng vào quá trình mở rộng sản lượng do năng suất tăng lên, phát triển và áp dụng
vào các kỹ thuật và sản phẩm mới (tiến bộ kỹ thuật).”
Cũng theo tác giả Nguyễn Văn Ngọc, tổng cầu là một trong các yếu tố quyết định tiềm
năng phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, tổng cầu phải đủ cao để đáp ứng được năng lực
sản xuất thêm của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế cao là một trong 5 mục tiêu của
chính sách kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng kinh tế luôn được đặt lên hàng đầu vì nó trực tiếp
liên quan đến mức độ thịnh vượng của xã hội và kích thích tiêu dùng nội địa.

Ngoài ra, cũng trong Từ điển Kinh tế học, tác giả Nguyễn Văn Ngọc có đề cập đến: “Tăng
trưởng kinh tế thường được tính bằng mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo thời
gian hoặc mức tăng GDP đầu người theo thời gian. Chỉ tiêu sau gắn mức tổng sản lượng
với những thay đổi về dân số. Bởi vậy, nếu tổng sản lượng chỉ tăng nhanh hơn một chút so
với mức tăng dân số, mức sống bình quân chỉ được cải thiện không đáng kể.”

Theo Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), “tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về
lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng
sản phẩm xã hội, có tính mối liên quan đến dân số”.
Theo lý thuyết của Adam Smith, “tăng trưởng kinh tế là tăng đầu ra tính theo bình quân
đầu người hoặc tăng sản phẩm lao động tức là tăng thu nhập ròng xã hội.” Ông chỉ ra
năm nhân tố tăng trưởng kinh tế gồm: lao động, tư bản, đất đai, tiến bộ kĩ thuật và môi
trường chế độ kinh tế – xã hội.
Theo lý thuyết của trường phái tân cổ điển, nguồn gốc của sự tăng trưởng thể hiện qua
hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng
lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ. Như vậy,
để tăng trưởng thì các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc
công nghệ sử dụng nhiều lao động.

Trang | 19


Theo lý thuyết của Solow, nền kinh tế nằm ở trạng thái ổn định thì nó sẽ đứng nguyên
tại đó, và nếu chưa ổn định thì nó sẽ có xu hướng tiến về đó. Vậy trong dài hạn, nếu tỷ
lệ tiết kiệm cao thì nền kinh tế sẽ có mức sản lượng lớn hơn.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế có thể là sự gia tăng của một trong 2 thước đo phổ biến
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Các yếu tố tác
động đến tăng trưởng kinh tế là khác nhau tùy theo trường phái kinh tế, lý thuyết kinh
tế và tình hình kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia.
2.3.2. Các thước đo tăng trưởng kinh tế hiện có

GDP không là đơn vị duy nhất để đo lường tình hình tăng trưởng của một quốc gia. Một
số nước khác đã sử dụng các chỉ số khác tối ưu và chính xác hơn GDP để làm thang đo
tốc độ phát triển của nền kinh tế, ví dụ như GNI (chỉ số thu nhập quốc dân) hay GNP
(tổng sản phẩm quốc gia).
Tuy vậy, GDP vẫn là chỉ số tiêu biểu và được sử dụng phổ biến nhất để đánh giá “sức
khỏe” của toàn bộ nền kinh tế. Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả cũng lựa chọn
GDP làm đơn vị đo lường sự ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế
vì chỉ số này đại diện cho tình hình sản xuất, tăng trưởng kinh tế của đất nước và là
thước đo phúc lợi quốc gia (một cách tương đối). Tuy GDP không phải là chỉ số đo
lường kinh tế tốt nhất nhưng nó phổ biến (được nhiều quốc gia sử dụng, bao gồm Việt
Nam) và liên tục (chỉ số được cập nhật mỗi quý một lần).
Tuy nhiên, GDP vẫn có những hạn chế nhất định khiến cho chất lượng phản ánh tình
hình tăng trưởng kinh tế của đơn vị này cũng không hoàn toàn chính xác tuyệt đó:
Thứ nhất, GDP không đủ sức phản ánh chất lượng thực tế của sản phẩm hay dịch vụ
hay những lợi ích hoặc thiệt hại thực tế mà chúng đem lại/ gây ra cho người tiêu dùng.
Đó chính là lý do tại sao một nền kinh tế được mệnh danh là “tăng trưởng nóng” như
Trung Quốc vẫn không thể tránh khỏi tình trạng ô nhiễm không khí trầm trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân.
Thứ hai, GDP là chỉ số khá phiến diện khi không hề đề cập đến “đời sống tinh thần”
của người dân trong một nền kinh tế. Ví dụ, các dự án BOT được triển khai theo hình
thức “chính phủ tài trợ, tư nhân cung cấp” được kỳ vọng sẽ vừa đem lại nguồn thu trực
tiếp xung vào ngân sách lại vừa góp phần thúc đẩy doanh thu của các doanh nghiệp (do
các công ty vận tải sẽ phải tăng giá do chi phí đường bộ phát sinh thêm). Tuy nhiên sau
cùng, người dân vẫn phải chịu khoản chi phí đắt đỏ nếu muốn lưu thông trên các tuyến
đường đặt trạm BOT. Hơn nữa, tình trạng ô nhiễm môi trường phát sinh do việc xây
dựng trạm BOT cũng ảnh hưởng không ít đến đời sống của người dân.
Thứ ba, GDP cũng không hề nói lên tình trạng phân phối thu nhập cân đối hay bất bình
đẳng trong một quốc gia. Tổng sản phẩm quốc nội tăng lên trong một số trường hợp sẽ
Trang | 20



không đồng nghĩa với việc người giàu càng giàu hơn, người nghèo bớt nghèo đi. Mà
đôi khi, nó sẽ diễn ra theo hướng tiêu cực như người giàu càng thịnh vượng hơn, người
nghèo ngày càng kiệt quệ đi. Khi khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng
lớn sẽ dẫn đến các tình trạng bạo động, xung đột kinh hoàng.
Do đó, bên cạnh GDP, các quốc gia cũng phải cân nhắc đến các thước đo khác như chỉ
số phát triển con người (HDI) hay các chỉ số đánh giá về dinh dưỡng, giáo dục, y tế của
người dân, chỉ số phản ánh công bằng xã hội,… để có một cái nhìn tổng thể hơn về tốc
độ tăng trưởng kinh tế của đất nước mình. Bởi lẽ, tăng trưởng kinh tế ở đây sẽ không
chỉ mang sắc thái giàu có, thịnh vượng mà còn là “bình đẳng, công bằng, bền vững”.
2.3.3. Khái niệm GDP
Nguyễn Văn Ngọc – Giảng viên khoa Kinh tế học – Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Từ điển Kinh tế học. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2006.
GDP (Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm trong nước) là “giá trị thị trường của
tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong nước trong một
thời kỳ nhất định (thường là một năm), bất kể chúng được cư dân trong nước hay
người nước ngoài sản xuất ra.”
2.3.4. Các phương pháp tính GDP
PGS. TS. Nguyễn Tri Khiêm, Ths. Phùng Ngọc Triều. Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô. NXB
Đại học An Giang, 2008. Theo giáo trình của TS. Nguyễn Tri Khiêm và Ths. Phùng
Ngọc Triều, có tất cả 3 phương pháp tính GDP. Bao gồm: Phương pháp thu nhập,
phương pháp chi tiêu và phương pháp sản xuất (GDP theo giá trị gia tăng).
Phương pháp chi tiêu. Theo đó GDP bằng tổng các loại chi tiêu:
GDP=Y=C+I+G+NX
Với phương pháp này, GDP được tính theo giá thị trường.
Trong đó:
Chi tiêu tiêu dùng (C): Chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ xí nghiệp sản xuất và bán cho
hộ gia đình.
Chi tiêu đầu tư (I): Tổng vốn đầu tư xã hội trong kỳ.
Chi tiêu của chính phủ cho sản phẩm và dịch vụ (G): Chi tiêu của chính quyền trung

ương và địa phương (chi phí giáo dục quốc phòng, y tế, trị an xã hội, cơ sở hạ tầng,…)
Xuất khẩu ròng (NX): Chênh lệch giữa kinh ngạch xuất nhập khẩu
Phương pháp thu nhập. “GDP theo thu nhập còn gọi là GDP tính theo giá yếu tố vì
những khoản này các xí nghiệp chi trả cho việc sử dụng nguồn lực phục vụ cho sản
xuất. Trong nền kinh tế giản đơn, GDP được tính bằng cách cộng tất cả các thu nhập mà
khu vực xí nghiệp phân phối cho các hộ gia đình dưới hình thức tiền lương, tiền lãi, tiền
thuê và lợi nhuận.”
Trang | 21


GDP = Y = Tiền lương + tiền lãi + tiền thuê + lợi nhuận
Tuy nhiên khi có sự tham gia của Chính phủ, việc tính GDP theo thu nhập sẽ được điều
chỉnh hai yếu tố để trở thành GDP tính theo giá thị trường: cộng thuế gián thu vào thu
nhập và cộng khấu hao vào thu nhập.
Khi đó, công thức tính GDP khi có chính phủ là:
GDP = Tổng TN = Lương + Lãi + Tiền thuê + Lợi nhuận + Thuế GT + KH
Phương pháp sản xuất. “Phương pháp tính theo giá trị gia tăng là tổng cộng tất cả
giá trị gia tăng của nền kinh tế trong một thời kỳ.”
GDP = Giá trị tăng thêm + thuế nhập khẩu
hoặc
GDP = Giá trị sản xuất – chi phí trung gian + thuế nhập khẩu
Theo đó, trong giáo trình Kinh tế Vĩ mô, TS. Nguyễn Tri Khiêm có giải thích thêm:
“Giá trị tăng thêm của toàn bộ ngành kinh tế được xác định cho cả nước và cho từng
vùng lãnh thổ và bằng tổng giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế và thành phần kinh
tế.”
“Giá trị gia tăng của một xí nghiệp là chênh lệch giữa giá trị sản lượng của xí nghiệp và
giá trị các yếu tố vật chất mà xí nghiệp mua của các xí nghiệp khác.”
2.3.5. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong bài nghiên cứu
Trên cơ sở các lý thuyết và thước đo GDP trên, có thể thấy có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến GDP như chi tiêu chính phủ, chi tiêu đầu tư, thu nhập, lãi suất,… Tuy nhiên

trong khuôn khổ bài luận, nhóm tác giả chỉ xem xét tác động của các nhân tố là tỉ lệ lạm
phát (INF) và thâm hụt ngân sách (GBD) đến GDP.
Lạm phát. Lý thuyết của Keynes chỉ ra rằng sẽ có sự đánh đổi nhất định giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Hay nói cách khác, một quốc gia nếu muốn tăng
trưởng thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tương ứng. Tuy nhiên, trong dài hạn, GDP
và lạm phát lại không tuân theo lý thuyết trên nữa.
Chi tiêu công và thâm hụt ngân sách. Vấn đề các chính sách chi tiêu công ảnh hưởng
như thế nào đến GDP thu hút vô số các quan điểm trái chiều. Có ý kiến cho rằng, khi
chính phủ chi thêm nhiều tiền của để đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới
cải cách giáo dục, nguồn lực con người trong tương lai sẽ được cải thiện. Đây là một tín
hiệu tích cực đối với GDP bởi yếu tố nhân lực đóng góp một phần không thể thiếu đối
với sự gia tăng phát triển của chỉ số này. Tuy nhiên, một số người lại nhận định, việc chi
đầu tư phát triển vô cùng tốn kém cho những công trình chậm tiến độ như đường sắt
trên cao Cát Linh - Hà Đông sẽ gây nên tình trạng lãng phí nguồn lực.

Trang | 22


3. Khung phân tích
Bài nghiên cứu dựa trên mô hình thực nghiệm của tác giả Siamack Shojai trong bài
nghiên cứu Budget deficits and debt: A global perspective in sách năm 1999 bởi
nhà xuất bản Praeger, Westport Connecticut.
Trong bài nghiên cứu thực nghiệm, Shojai sử dụng phương pháp OLS (bình phương nhỏ
nhất thông thường) để nghiên cứu về mối quan hệ của thâm hụt ngân sách với tăng trưởng
kinh tế. Mô hình của Shojai bao gồm 5 biến độc lập là tỉ lệ lạm phát (inflation rate - INF),
lãi suất thực (real interest rate – RIR), tỉ giá thực đa phương (real effective exchange rate
– REER), thâm hụt ngân sách (budget deficit – BD) và tổng đầu tư (gross investment –
GI) với biến phụ thuộc là GDP (gross domestic product).

Về kết quả nghiên cứu của Shojai, trong một nghiên cứu của Humera Nayab. The

Relationship between Budget Deficit and Economic Growth of Pakistan, tác giả có viết
như sau:
“Shojai (1999) found in his study that deficit spending also gives rise to inefficiencies
in economic markets and also cause high price increases in the developing countries.
Budget deficit also destroy exchange rates and interest rates, as a result which weakens
the international competitiveness of the economy.”
Như vậy, nghiên cứu của Shojai đưa ra kết quả rằng thâm hụt ngân sách được tài trợ bởi
Ngân hàng Trung ương sẽ gây ra sự không hiệu quả của nền kinh tế thị trường và lạm
phát ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, thâm hụt ngân sách cũng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tỉ giá và lãi suất, do đó làm suy giảm sự cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế.
Như vậy, nếu dựa theo nghiên cứu của Shojai (1999) thì kết quả sẽ cho ra mối quan hệ
nghịch chiều giữa hai biến thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế và một số biến
độc lập khác như lãi suất và tỉ giá.
Trên cơ sở lý thuyết từ nghiên cứu của Shojai (1999), nhóm tiến hành nghiên cứu thực
nghiệm để tìm ra ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Dựa trên mô hình gốc của Shojai (1999) bao gồm 5 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc,
nhóm tác giả xây dựng mô hình với 2 biến độc lập là thâm hụt ngân sách (GBD) và tỉ lệ
lạm phát (INF) và 1 biến phụ thuộc là tổng sản lượng quốc nội (GDP).

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp
Như đã đề cập ở trên, bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng trên
cơ sở mô hình gốc của Shojai (1999). Mô hình bài nghiên cứu sử dụng bao gồm 3 biến:
2 biến độc lập là thâm hụt ngân sách (GBD) và tỉ lệ lạm phát (INF); 1 biến phụ thuộc là
tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Phương pháp định lượng được sử dụng trong bài nghiên
Trang | 23


cứu là OLS (bình phương tối thiểu thông thường) trên phần mềm Gretl để đánh giá mối
quan hệ của ba biến trên.


4.2. Phạm vi và bộ số liệu
Bộ số liệu được nhóm tác giả thu thập trong giai đoạn từ 2000 đến 2016 trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên bộ số liệu này chưa thực sự có tính cập nhật do số liệu
cho năm 2017 và 2018 hoặc không đầy đủ, chưa được công bố chính thức hoặc không
có sự thống nhất giữa các nguồn dữ liệu với nhau. Như đã trình bày ở trên, mô hình bởi
nhóm tác giả sẽ bao gồm hai biến độc lập là thâm hụt ngân sách (GBD) và tỉ lệ lạm phát
(INF) và một biến phụ thuộc là GDP.

4.3. Phương pháp thu thập và nguồn dữ liệu
Các dữ liệu trên được nhóm tác giả tự tổng hợp. Đối với bộ số liệu của GDP và INF,
nhóm tác giả thu thập từ website của WorldBank (Ngân hàng thế giới); bộ số liệu của
GBP được tổng hợp từ mục Ngân sách nhà nước, Quyết toán được Quốc hội phê chuẩn
được công bố trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính Việt Nam.

Trang | 24


CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH
Như đã trình bày ở [Chương 1. Mục 4], bài luận sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng dựa trên mô hình nghiên cứu của Shojai (1999). Từ đó, nhóm tác giả xây dựng
mô hình kinh tế lượng với dữ liệu chuỗi thời gian và thực hiện ước lượng bằng phương
pháp OLS bằng phần mềm Gretl.
Trong số tất cả các mô hình trong các nghiên cứu về thâm hụt ngân sách với tăng trưởng
kinh tế như đã trình bày ở [Chương 1. Mục 1.2], mô hình của Shojai (1999) là đơn giản
hơn cả và các biến sử dụng phù hợp với cơ sở dữ liệu hiện có của Việt Nam. Tuy nhiên,
nhóm tác giả quyết định bỏ ra 3 biến là tỉ giá thực đa phương (REER), lãi suất thực (RIR)
và tổng đầu tư (GI) do khi chạy mô hình thử nghiệm thì cả 3 biến trên đều không có ý
nghĩa thống kê. Nói cách khác, khi đặt tỉ giá thực, lãi suất thực và tổng đầu tư trong mối

quan hệ với thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thì không có mối
quan hệ chặt chẽ giữa các biến với nhau và chỉ riêng hai biến là tỉ lệ lạm phát và thâm
hụt ngân sách đã giải thích được đến 99% cho xu hướng thay đổi của GDP.

1. Mô hình phân tích
Mô hình mà nhóm tác giả xây dựng như sau:
Hàm hồi quy tổng thể (PRF)
+

E(GDP|GBD, INF) =

.GBD +

.INF

Mô hình hồi quy tổng thể
GDP =

+

.GBD +

.INF +
Với:

là sai số (nhiễu)

Giải thích biến:
Biến phụ thuộc:
GDP – Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội (Đơn vị: Tỷ VND được

quy đổi từ USD theo tỉ giá hiện hành)
Biến độc lập:
GBD – Government’s Budget Deficit: Thâm hụt ngân sách nhà nước (Đơn vị: Tỷ
VND)
INF – Inflation Rate: Tỉ lệ lạm phát (Đơn vị: %)
Như vậy, đối với mô hình mới trên cơ sở mô hình gốc của Shojai (1999), ngoài việc tìm
ra ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam, nhóm tác giả
kết luận thêm về mối quan hệ của thâm hụt và lạm phát. Từ đó, xét xem quan hệ của hai
biến này có ảnh hưởng nhiều hay gây ra các sai số trong việc đánh giá tác động của
thâm hụt đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung hay không.
Trang | 25


Ngoài ra, sau khi ước lượng, nhóm tác giả sẽ tiến hành các kiểm định sau đây:
Kiểm định hồi quy: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình và kiểm định ý nghĩa
thống kê của hệ số hồi quy.
Kiểm định vi phạm giả thiết mô hình: Kiểm định bỏ sót biến, kiểm định phân phối chuẩn
của nhiễu, kiểm định đa cộng tuyến, kiểm định phương sai sai số thay đổi, và kiểm định
tự tương quan.

Qua đó, đưa ra kết luận về mối quan hệ của các biến độc lập là thâm hụt ngân sách và
lạm phát lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam và mối quan hệ giữa các biến độc lập với
nhau là ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên tỉ lệ lạm phát.

2. Thống kê số liệu
Dưới đây là bảng số liệu nhóm tác giả tổng hợp từ các nguồn đã nêu ở [Chương 1. Phần
3. Mục 3.3]
Quan sát

Năm


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

2011
2012
2013
2014
2015
2016

Bảng 1. Thống kê số liệu
GDP
GBD
723213.6
22000
23553
758292.0
25597
813484.8
29936
917629.6
34703
1053929.6
40746
1337085.6
48500
1539830.4
56500
1796004.8
66200
2299816.0
115900
2459548.0

109191
2689622.4
112034
3144504.8
173815
3615024.0
236769
3972350.4
249362
4319956.0
4483191.2
263135
248728
4762403.2
Số liệu do nhóm tác giả tự tổng hợp

Trang | 26

INF
-1.710
-0.432
3.831
3.220
7.759
8.281
7.386
8.304
23.116
7.055
8.862

18.677
9.094
6.592
4.086
0.879
2.673


CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KIỂM ĐỊNH
1. Ước lượng
1.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
1.1.1. Mô tả thống kê
Sử dụng phần mềm Gretl, nhóm tác giả có kết quả của mô tả thống kê, thể hiện trong
Bảng 2 dưới đây. Trong bảng bao gồm các mục: Mean – Giá trị trung bình, Minimum –
Giá trị nhỏ nhất, Maximum – Giá trị lớn nhất và Missing obs. – Số quan sát bị thiếu.
Bảng 2. Mô tả mẫu thống kê
Summary Statistics, using the observations 2000 - 2016
Variable
Mean
Minimum
Maximum Missing obs.
GDP
0
2393287
723213.6
4762403
GBD
22000
0

109215.8
263135
INF
6.922
-1.710
23.12
0
Đánh giá thống kê
Tất cả các biến có đầy đủ 17 quan sát (Missing obs. = 0)
̅̅̅

Biến GDP có giá trị trung bình = 2393287 (tỷ VND). Như vậy, có thể thấy mức GDP trung bình của Việt Nam trong 17 năm giai đoạn
2000 – 2016 là 2393287 (tỷ VND). Con số này thể hiện một bước phát triển vượt bậc của kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới, tuy nhiên
vẫn còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực châu Á nói riêng.

Giá trị nhỏ nhất tương đương với mức GDP thấp nhất của Việt Nam là 723213.6 (tỷ
VND).
Giá trị lớn nhất tương đương với mức GDP cao nhất của Việt Nam tính đến 2016 đạt
4762403 (tỷ VND), gấp khoảng 6 lần GDP năm 2000.
̅̅̅

Biến GBD có giá trị trung bình
= 109215.8 (tỷ VND), tức là mức thâm hụt ngân
sách nhà nước trung bình của Việt Nam trong giai đoạn được xét là 109215.8 tỷ VND.
Giá trị nhỏ nhất tương đương với mức thâm hụt ngân sách nhà nước thấp nhất của Việt
Nam là 22000 (tỷ VND).
Giá trị lớn nhất tương đương với mức thâm hụt ngân sách nhà nước cao nhất của Việt
Nam là 263135 (tỷ VND).
̅̅


Biến INF có giá trị trung bình = 6.922 (%), cao hơn mức lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây, nguyên do chủ yếu là bởi mức lạm phát
năm 2008 lên tới 23.12% - giá trị lớn nhất trong suốt giai đoạn được xét. Trong khi đó, giá trị nhỏ nhất

Trang | 27


chỉ là -1.710 – tương ứng với mức lạm phát năm 2000. Tuy nhiên, đây thực chất là hiện
tượng giảm phát của nền kinh tế Việt Nam và cho đến năm 2000 thì hiện tượng này
chưa từng xảy ra. Nếu lạm phát được kiểm soát giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì
giảm phát (hiện tượng giá cả giảm mạnh) khiến nền kinh tế ngưng trệ do các hộ gia
đình sẽ ngừng chi tiêu để chờ giá giảm sâu hơn và các doanh nghiệp cũng ngừng đầu
tư. Do đó, lợi nhuận và doanh thu của các doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Điều này cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Mô tả tương quan (Correlation coefficients)
Sử dụng phần mềm Gretl với bộ dữ liệu do nhóm tác giả tự tổng hợp từ các nguồn đã
liệt kê, thu được Bảng 3. Ma trận tương quan giữa các biến như dưới đây.
Bảng 3. Ma trận tương quan giữa các biến Correlation Coefficients, using the
observations 1 - 17 5% critical value (two-tailed) = 0.4821 for n = 17
GDP
GBD
INF
1.0000
0.9728
0.1042
GDP
1.0000
-0.0892
GBD
1.0000
INF

Đánh giá tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập
Hệ số tương quan r(GDP, GBD) = 0.9728 là khá cao hay GDP và GBD có mối quan hệ
khá chặt chẽ. Ngoài ra, hệ số dương cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa giữa GDP và
GBD. Như vậy khi GBD tăng thì GDP cũng tăng và ngược lại. Như vậy, khác với quan
điểm của trường phái tân cổ điển đã giải thích ở [Chương 1], trường hợp của Việt Nam
trong khoảng 2000 – 2016 ứng với hầu hết dự đoán của các nhà kinh tế học ủng hộ lý
thuyết của Keynes rằng có mối quan hệ tích cực giữa thâm hụt và tăng trưởng.
Tuy nhiên, hệ số này đang diễn giải cho mối quan hệ mà ngược lại với kết quả nghiên cứu
của tác giả Huỳnh Thế Nguyễn cho giai đoạn 1990 – 2012 rằng thâm hụt không có quan hệ
dài hạn với tăng trưởng kinh tế hay nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Cường cho giai đoạn
2001 – 2013 rằng thâm hụt tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam được đề cập
ở [Chương 1. Phần 1. Mục 1.2] cũng như nghiên cứu của Shojai (1999).

Hệ số tương quan r(GDP, INF) = 0.1042 là khá thấp hay giữa GDP và INF có mối
quan hệ không chặt chẽ. Ngoài ra, hệ số dương cho thấy quan hệ thuận chiều giữa GDP
và INF. Theo lí thuyết kinh tế của Kenyes thì điều này là hợp lí, bởi ông cho rằng trong
ngắn hạn, sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng. Nghĩa là, muốn cho tăng
trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định. Nói cách khác
trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức lạm phát di chuyển cùng chiều.
Trang | 28


Đánh giá tương quan giữa các biến độc lập
Hệ số tương quan r(GBD, INF) = -0.0892 là khá thấp hay GBD và INF có mối quan
hệ không chặt chẽ. Ngoài ra, hệ số âm cho thấy quan hệ nghịch chiều giữa GBD và
INF. Trong dài hạn, điều này không phù hợp với lí thuyết kinh tế. Khi ngân sách bị
thâm hụt, Chính phủ có thể phát hành thêm tiền, đi vay nước ngoài hoặc tăng thuế để bù
đắp. Nếu lượng tiền phát hành thêm nhiều sẽ gây ra lạm phát, trong khi đi vay nước
ngoài và tăng thuế vô hình chung sẽ đẩy giá cả dịch vụ hàng hóa lên cao, từ đó cũng
gây sức ép tăng tỉ lệ lạm phát. Do đó, mối tương quan ngược chiều giữa 2 biến GBD và

INF là chưa phù hợp với lí thuyết kinh tế.

1.2. Kết quả ước lượng
Sử dụng phần mềm thống kê Gretl với dữ liệu chuỗi thời gian do nhóm tác giả tự tổng
hợp và phương pháp ước lượng OLS, thu được kết quả sau:

Const
GBD
INF

Bảng 4. Kết quả ước lượng theo OLS
Model 1: OLS, using observations 1-17
Dependent variable: GDP
Coefficient Std. Error
t-ratio
p-value
381852
97493.8
3.917
0.0016
15.6428
0.550362
28.42
8.78e-014
43772.6
7919.47
5.527
7.45e-05

Mean dependent var

Sum squared resid
R-squared
F(2, 14)
Log-likelihood
Schwarz criterion

2393287
5.47e+11
0.983150
408.4383
-229.778
468.0556

S.D. dependent var
S.E. of regression
Adjusted R-squared
P-value(F)
Akaike criterion
Hannan-Quinn

***
***
***

1424651
197697.1
0.980743
3.86e-13
465.5560
465.8044


Từ Bảng 4, ta ước lượng được mô hình hồi quy mẫu tuyến tính:
GDP = 381852 + 15.6428.GBD + 43772.6.INF +
Với:
là phần dư (ước lượng của sai số)

Trang | 29


×