Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Nghiên cứu ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế việt nam bài 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.41 KB, 43 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển
biến khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm
2008, đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước
Châu Âu, nợ công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo
các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Thêm vào đó, chính sự ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp của nó đến nền kinh tế khiến cho nợ công cũng trở thành một
đề tài thu hút sự quan tâm lớn của các nhà kinh tế và các nhà nghiên cứu. Nhiều
nền kinh tế mới nổi phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế cũng như tài trợ thâm hụt tài khoản vãng lai và bội chi ngân sách nhà nước.
Chính điều này đã làm tích tụ những khoản nợ trong một thời gian dài và có thể
dẫn đến vỡ nợ hoặc tái cấu trúc nợ không chỉ ở các nước có nợ công cao mà cả các
nước có nợ công thấp, tuỳ thuộc vào “khả năng chịu đựng nợ” của quốc gia này.
Từ đó có thể thấy, một quốc gia cần thiết phải đưa ra được một tỷ lệ nợ mục tiêu
cho quốc gia mình, tùy vào “khả năng chịu đựng nợ” của quốc gia đó để tránh
được vỡ nợ hoặc tái cấu trúc nợ như Hy Lạp gần đây
Theo đồng hồ nợ công toàn cầu The Global Debt Clock trên trang
Economist.com, tính đến thời điểm hiện tại, nợ công Việt Nam đang là 94,85 tỷ
USD, tương đương 45,6% GDP, chia bình quân đầu người là 1.039 USD, mức gia
tăng nợ là 9,3% /năm. Còn theo báo cáo của Bộ Tài chính cho biết đến cuối năm
2016 dư nợ công khoảng 64,73% GDP, dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Hai con
số này đều đã tiến đến sát ngưỡng nợ không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không
quá 54% GDP trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn
2016 – 2020. Sự gia tăng quá nhanh của nợ công ở Việt Nam đang kéo lên một hồi
chuông cảnh báo về việc” chạm ngưỡng” và những hệ luỵ của nó. Chính vì những
lí do trên, chúng em đã chọn đề tài “Nghiên cứu ngưỡng chịu đựng nợ công của


2

nền kinh tế Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu trong nhóm, chúng em mong rằng
bài tiểu luận sẽ đóng góp vào công cuộc nghiên cứu sâu hơn để giúp tìm ra các giải
pháp với vấn đề đang thu hút sự quan tâm lớn.


I.

Nợ công là gì?
1. Khái niệm:
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Có rất nhiều cách tiếp cận khái

niệm nợ công hiện nay, trong đó mỗi quốc gia lại có một khái niệm riêng. Tuy
nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà
Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nợ công, theo
nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính
phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ
chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hay trên
50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ
thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương,
các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán.
Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc
gia cũng có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được
hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương.
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài nước,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân dân Chính phủ hoặc các khoản

vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của
pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp,
tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền
phát hành.

3

Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công (nợ Chính phủ hoặc nợ quốc gia) là
tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa


phương đi vay nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách”. Vì thế, nợ Chính
phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó.
Để dễ hình dung quy mô của nợ Chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này
bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
2. Mục đích:
Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ có sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công
là phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích cộng đồng
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật quản lý nợ công Số: 29/2009/QH12 có đề cập tới mục
đích của nợ công:
1. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
2. Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.

3. Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
4. Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại
theo quy định của pháp luật.
5. Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
II.

Thực trạng nợ công hiện nay:
1. Các con số:
Sau 30 năm mở cửa kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn.

Tiềm lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định. Trong vòng 10 năm
trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 4 lần, nếu năm 2006
GDP cả nước chưa đạt 1.0004 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu người khoảng 715 USD
thì năm 2015 GDP đã đạt đến con số xấp xỉ 4.200 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu


người là 2.019 USD. GDP tăng trưởng tương đối bền vững, lạm phát được kiềm
chế đáng kể.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là
chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói
riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ
trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức
đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.
- Về quy mô nợ công:
Theo Bản tin tài chính số 4 năm 2016, chỉ trong vòng 6 năm (2010-2015),
nợ công Việt Nam đã tăng gấp 3 lần. Đến cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ
công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng; về số tương đối, tỷ lệ nợ công/GDP ở mức

62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội. (Bảng 1)
Bảng 2.1: Gánh nặng nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2015

Năm
1. Dư nợ công (1.000

2010

2011

2012

2013

2014

2015

889

1.093

1.279

1.528

1.826

2.608


56,3

54,9

50,8

54,5

58,0

62,2

tỷ đồng)
2. Nợ công/GDP (%)

(Nguồn : Bản tin nợ công số 4, Bộ Tài chính)
5

Theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể cao hơn so với mức
công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế có
sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: Trách


nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế
được xác định trên cơ sở: Chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi
vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ
bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số
địa phương.
Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là

động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%,
các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%.
Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp với thông
lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.
Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so với
quy mô của nền kinh tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể hiện trung
bình mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ. (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2.1: Nợ công bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015

6

(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)


Tính đến khoảng tháng 11/2015, nợ công bình quân đầu người ở Việt Nam
xấp xỉ 1.000 USD. Xét về chỉ tiêu nợ công bình quân đầu người thì Việt Nam ở
mức khá thấp so với một số quốc gia khác trong khu vực Asean. Cũng số liệu năm
2015, nước có chỉ số nợ công bình quân đầu người cao nhất là Singapore với
56.000 USD, tiếp theo là Malaysia 7.696,9 USD, Thái Lan 3.450,8 USD. Việt
Nam, Indonesia, Philippines có chỉ số nợ bình quân đầu người năm 2015 xấp xỉ
khoảng 1.000 USD. Trong khối ASEAN, tương tự như Việt Nam, các nước
Malaysia, Philippines và Thái Lan đều duy trì tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 45%-60%.
Cá biệt có trường hợp của Singapore có tỷ lệ nợ công/GDP rất cao ( gần 94% năm
2015) và Indonesia với tỷ lệ nợ công/GDP rất thấp (khoảng 25%-26%). Theo đó,
quy mô nợ công ở Singapore rất cao với khối nợ trên 278 tỷ USD. (Biểu đồ 3)
Biểu đồ 2.2: Nợ công bình quân đầu người một số nước Đông Nam Á
giai đoạn 2011-2015

7


(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)


- Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công:
Theo khoản 2, Điều 1 Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công của
Việt Nam bao gồm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền
địa phương, trong đó, nợ chính phủ bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài.
(Biểu đồ 2.3)
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2015

(Nguồn: Bộ Tài chính)
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) có nhận định rằng,
cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh theo hướng
bền vững hơn. Cụ thể, trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có
xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài
giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống còn 43% năm 2015. Tỷ trọng này là phù
hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020
tầm nhìn đến 2030.
Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước, nếu
trong giai đoạn 2011-2013 phần lớn ngắn hạn thì đến năm 2014 kỳ hạn là 3 năm;
8

năm 2015, kỳ hạn kéo dài lên 4,4 năm và 6 tháng đầu năm 2016 thì kỳ hạn kéo dài
lên 5 năm.


Mức lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn trong nước
bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng 6,5% vào năm
2014 và khoảng 6% vào năm 2015.
Đối với nợ nước ngoài, vay ODA, vay ưu đãi vẫn chiếm tỷ trọng cao (trên

94%) với kỳ hạn còn lại bình quân trên 10 năm, lãi suất bình quân tính đến cuối
năm 2015 khoảng 2%/năm.
Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng
tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%;
JPY chiếm tỷ trọng 13% và EUR chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng
tiền khác. Trên lý thuyết, điều này được cho là hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá,
giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ.
- Về tình hình sử dụng nợ công:
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được
chuyển tải vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự
phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam chưa
đạt được hiệu quả cao, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, còn tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Còn tình trạng chậm
trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Dù đã qua nửa năm 2016, nhưng tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt được kế
hoạch được giao, nhất là giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Vốn đầu tư
XDCB từ nguồn vốn nhà nước thấp là nguyên nhân cơ bản gây khó khăn cho công
tác thu NSNN. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy tiến độ giải ngân, tăng trưởng
của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng, trong khi tỷ lệ và nghĩa vụ vay trả nợ công ngày
càng có nguy cơ tăng cao.

9

Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao, thể hiện qua chỉ số ICOR: Năm 2015,
tăng trưởng kinh tế đã dần hồi phục, với tăng trưởng GDP đạt 6,68% - mức cao
nhất kể từ năm 2008 đến nay, hiệu quả đầu tư đã có bước cải thiện, với ICOR giai


đoạn 2011-2015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 2006-2010 (là 6,96). Điều này có
nghĩa là, nếu giai đoạn 2006-2010, Việt Nam cần 6,96 đồng vốn để tạo ra được 1

đồng sản lượng, thì giai đoạn 2011-2015 chỉ cần đầu tư 6,91 đồng. Rất đáng ghi
nhận khi trong bối cảnh tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn
khoảng 32,6% GDP vào năm 2015) thì tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức hợp
lý. Song cũng cần thẳng thắn, ICOR của Việt Nam còn cao, hiệu quả đầu tư còn
thấp so với nhiều nền kinh tế trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh
tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở vùng
sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội cộng với
tình trạng đầu tư còn có sự dàn trải, lãng phí.
Biểu đồ 2.4: ICOR Việt Nam sau 20 năm có xu hướng tăng

(Nguồn: )
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với tổng nhu cầu vốn đầu
tư toàn xã hội cho cả giai đoạn 5 năm 2016 - 2020 lên tới gần 10.600.000 tỷ đồng,
bằng khoảng 32-34% GDP. Phải huy động được nguồn vốn này, Việt Nam mới có
10

thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5-7% và thực hiện khâu đột phá về xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trong đó tập trung vào hệ thống
giao thông, hạ tầng đô thị lớn. Huy động vốn đã khó, nhất là trong bối cảnh ngân


sách thâm hụt, bội chi lớn, không đủ để chi thường xuyên và trả nợ, còn nợ công
đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, càng đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả từng đồng
vốn đầu tư, làm giảm ICOR, đồng thời gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể nhận thấy mặc dù cơ cấu nợ công được điều chỉnh theo
hướng bền vững hơn, nhưng việc sử dụng và trả nợ vẫn còn bất cập với quy mô
tăng.
2. Nguyên nhân nợ công Việt Nam gia tăng thời gian qua:

Có rất nhiều nguyên nhân làm gia tăng nợ công của Việt Nam thời gian qua,

song những nguyên nhân cơ bản phải kể đến là:
-

Thứ nhất, áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội lớn
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại.
Giai đoạn 2001 - 2005, đầu tư toàn xã hội bình quân 39% GDP; 2006 -

2010, đầu tư 42,9% GDP; 2011 - 2015, đầu tư giảm nhưng vẫn ở mức 32 - 33%
GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu
tư thì chưa cao, khoảng 25% GDP. Như vậy, thiếu hụt về nguồn cho đầu tư xã hội
dẫn đến đi vay.
Bối cảnh kinh tế 2011 - 2015 không thuận lợi, đặc biệt là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế phải điều chỉnh lại từ mức bình quân 7 - 7,5%/năm xuống 6,5 7%/năm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ nguyên các chỉ tiêu chi NSNN để đạt mục
tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách phát triển
giữa khu vực thành thị - nông thôn. Trên thực tế, tăng trưởng bình quân chỉ đạt
5,91% trong giai đoạn 2011 - 2015, trong khi mục tiêu kế hoạch đề ra theo Nghị
quyết 10/2011/QH3 của Quốc hội cho giai đoạn 2011 - 2015 là 6,5 - 7%/năm, thấp
hơn so với mức tăng trưởng 11
trung bình giai đoạn 2006 - 2010 là 6,3%/năm. Trong
khi nhu cầu vay và các chỉ tiêu khác thì không điều chỉnh giảm.


Những tháng đầu năm 2016, nền kinh tế nước ta phải gánh chịu nhiều thiệt
hại do rét hại và băng giá ở phía Bắc, sau đó hạn hán kéo dài ở các tỉnh miền Nam
Trung bộ, Tây Nguyên, hạn hán, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, sự
cố do Formosa, kinh tế thế giới phục hồi chậm... Do đó, tăng trưởng của nền kinh
tế năm 2016 khó đạt được mục tiêu đề ra 6,7%. Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài
khóa, bội chi, vay nợ đều xuất phát từ tăng trưởng kinh tế. Khi chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế giảm nhưng các chỉ tiêu kia không giảm, dẫn đến tỷ lệ nợ công so với GDP
tăng lên.

-

Thứ hai, bội chi NSNN gia tăng trong thời gian dài khiến vay nợ trở thành
nguồn lực để bù đắp vào thâm hụt ngân sách.
Sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà nước

những năm gần đây có mức thâm hụt ngày càng tăng vì phải dành nguồn kinh phí
lớn cho việc thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, cải cách tiền lương, bảo
đảm an sinh xã hội. Về giá trị tuyệt đối, bội chi tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng
năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi đã tăng từ
mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5%
theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn
2011-2020 và tầm nhìn đến 2030. Giai đoạn 5-10 năm vừa qua, tốc độ tăng chi tiêu
công của Việt Nam quá lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại không tăng tương
ứng, thành ra phải vay bù đắp, nợ công tăng rất nhanh. Điều đáng lo ngại là quy
mô nợ của Việt Nam rất lớn so với năng lực trả nợ.
Thêm nữa, thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây là do chúng ta chi
tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu.Tổng thu NSNN và viện trợ trung bình
trong bốn năm gần đây đạt khoảng 24% GDP, với tốc độ tăng khoảng 10,4% mỗi
năm. Một điểm đáng lưu ý trong điều hành NSNN của Chính phủ những năm gần
12

đây là chi đầu tư ngày càng giảm, chi thường xuyên và chi khác tăng lên. Trong
giai đoạn 2007-2013, chi đầu tư chiếm tỷ trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%.
Tuy nhiên, trong hai năm 2014-2015, chi đầu tư chỉ còn 16,3% và 15,6% tổng chi.


Là một nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình thấp, đầu tư công là rất quan trọng
để tạo nền tảng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ chi đầu tư thấp là
một điều đáng lo ngại mặc dù tổng đầu tư toàn xã hội năm 2015 vẫn đạt 32,6%

GDP, tăng 12% so với năm 2014, do đầu tư FDI và đầu tư tư nhân trong nước tăng
cao. Điều này cho thấy các nỗ lực cắt giảm chi tiêu công chủ yếu nhằm vào cắt
giảm chi đầu tư phát triển, còn chi thường xuyên - nhân tố được coi là có ít đóng
góp hơn cho tăng trưởng kinh tế dài hạn - lại chưa được chú trọng.
-

Thứ ba, đầu tư công cao, hiệu quả đầu tư còn thấp trong bối cảnh tiết kiệm
của Việt Nam giảm.
Chi tiêu cho đầu tư công ở nước ta thời gian qua liên tục gia tăng khiến nợ

công tăng mạnh, gây hiệu ứng nghịch cho hiệu suất tăng trưởng. Trong 5 năm 2011
- 2015, mặc dù mức vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhưng vẫn duy trì khoảng 32%
GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu
tư chỉ khoảng 25% GDP dẫn đến sự thiếu hụt về nguồn vốn cho đầu tư, đồng nghĩa
với việc phải đi vay. Do đầu tư công có hiệu quả chưa cao buộc Chính phủ phải
tăng thu ngân sách (qua thuế, phí hoặc vay mới) để trả nợ, khiến nền kinh tế rơi
vào bất ổn, làm tăng nợ công. Đầu tư công ở châu Âu và Mỹ trở thành tâm điểm
gây bất ổn kinh tế toàn cầu và đã dẫn đến khủng hoảng nợ công 2010. Ở Việt Nam,
bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế,
không thể phủ nhận, đầu tư công còn có hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư.
Nguyên nhân do quản lý chưa tốt, đầu tư chưa hợp lý, đầu tư nhiều vào các ngành
tư nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư tương xứng cho những ngành có khả năng lan
tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư thiếu tập trung, không dứt điểm
cho các công trình trọng điểm… đặc biệt, nhiều khoản đầu tư không có khả năng
trả nợ, tức là khoản vay về đầu tư xong chưa tạo ra lợi nhuận để trả nợ, do vậy
buộc phải đi vay để trả nợ.
-

13


Thứ tư, việc huy động, phân bổ sử dụng vốn vay của Việt Nam còn dàn trải.


Tình trạng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu, điều
chỉnh các hợp đồng diễn ra khá phổ biến. Một số dự án đầu tư, nhất là dự án sử
dụng vốn vay, hiệu quả chưa cao, không trả được nợ, phải tái cơ cấu tài chính hoặc
chuyển sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của
Chính phủ.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nợ công còn phân tán, thiếu sự gắn kết chặt
chẽ giữa khâu huy động vốn với tổ chức thực hiện và trả nợ vay. Trên thực tế, trách
nhiệm của Bộ Tài chính là đi vay vốn, nhưng việc quản lý nợ và chịu trách nhiệm
trả nợ cũng cần có sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp sử
dụng nợ. Thời gian qua, việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán tình hình thực hiện,
chất lượng, hiệu quả dự án sử dụng vốn vay công chưa được thường xuyên. Việc
sử dụng các khoản vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn cũng làm phát sinh rủi ro tái
cấp vốn và tạo ra áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn… Giai đoạn 2010-2012, Chính
phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu bằng trái phiếu kỳ hạn ngắn, dưới 5 năm. Với
một thị trường tài chính non trẻ, thiếu ổn định, phát hành trái phiếu kỳ hạn dài
không phải là dễ dàng. Phần lớn nhà đầu tư mua trái phiếu Chính phủ là ngân hàng
thương mại và họ thường có vốn ngắn hạn là chủ yếu do kỳ hạn tiền gửi của người
dân ngắn, dễ dẫn đến rủi ro kỳ hạn. Đó có thể là lý do khiến Bộ Tài chính phải vay
Ngân hàng Nhà nước 30.000 tỷ đồng và phát hành 1 tỷ đô la Mỹ trái phiếu riêng
cho Vietcombank trong năm 2015. Điều đó cho thấy, năng lực quản lý nợ công của
nước ta chưa tốt.
Từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009,
đã có sự thay đổi đáng kể về điều kiện vay vốn nước ngoài. Các nhà tài trợ đã từng
bước điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng chuyển
dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản vay với điều kiện kém ưu đãi hơn, chi
phí huy động vốn của một số
khoản vay tăng so với giai đoạn trước đây làm gia

14
tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ.


Ngoài ra, với việc Việt Nam “tốt nghiệp” IDA (chương trình vay hỗ trợ
phát triển chính thức của Ngân hàng Thế giới) vào tháng 7/2017, khả năng các
khoản vay ODA của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng
như các nhà tài trợ khác sẽ giảm dần. Vì vậy, Chính phủ cần huy động các khoản
vay mới để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư trung hạn. Tuy nhiên,
các khoản vay mới này sẽ có điều kiện kém ưu đãi hơn, không đủ điều kiện vốn
vay ODA theo quy định hiện hành.
III.

Mô hình ngưỡng chịu đựng nợ công:

1. Khái niệm “Khả năng chịu đựng nợ”:
Khái niệm “khả năng chịu đựng nợ” (Debt Intolerance) lần đầu tiên được
giới thiệu bởi Reihart, Rogoff và Savastano (2003) để nắm bắt thực tế là nhiều nền
kinh tế mới nổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn, thậm chí ở mức
nợ nước ngoài thấp, trong khi các nước khác có mức nợ được đánh giá khá cao vẫn
dễ dàng tiếp cận nguồn tín dụng. Reinhart, Rogoff và Savastano (2003) đã đã bắt
đầu từ những quan sát thực nghiệm và nhận thấy một số quốc gia dường như là
không chịu đựng được nợ (tức là dễ vi phạm nghĩa vụ trả nợ liên tiếp) thậm chí ở
mức nợ nước ngoài trên GDP tương đối thấp – một hội chứng mà họ gọi là
không có “khả năng chịu đựng nợ”. Các nước không có “khả năng chịu đựng nợ”
sẽ gặp các vấn đề về thanh toán và vỡ nợ nước ngoài ở mức nợ có thể là quản lý dễ
dàng ở các nước tiên tiến, chủ yếu ở chỗ mất lòng tin của thị trường, lãi suất leo
thang, và đấu tranh chính trị để trả nợ nước ngoài.
Lịch sử là cơ sở tốt để các nước xác định “khả năng chịu đựng nợ”, bởi vì có
“đà quán tính” trong xác suất vỡ nợ, ít nhất cũng phản ánh một phần “đà quán tính”

của một thể chế yếu. Do đó, theo các tác giả này mỗi nước có ngưỡng nợ tùy thuộc
vào quá khứ của mình. Ngưỡng
nợ an toàn phụ thuộc rất nhiều vào ghi chép của vỡ
15
nợ và lạm phát của một quốc gia. Và các tác giả này cũng đã đề nghị rằng mức độ
“khả năng chịu đựng nợ” của một nước có thể được đo lường (xấp xỉ) bởi tỷ số của


nợ nước ngoài trung bình dài hạn của nó (một tỷ lệ với GNP hoặc xuất khẩu) trên
chỉ số rủi ro vỡ nợ.

16


2.

Khái niệm “Ngưỡng nợ”:
Nền kinh tế thị trường mới nổi với tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP trên 150%

được cho là có rủi ro vỡ nợ cao. Và trong số các nền kinh tế phát triển, tỷ lệ nợ
nước ngoài trên GDP hiện nay của Italy là 120%, cũng đã được coi là cao. Tuy
nhiên, vỡ nợ có thể xảy ra hoặc không xảy ra ở tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP
không được xem là “quá mức” đối với nền kinh tế phát triển. Ví dụ, năm 1982
Mexico khủng hoảng nợ đã xảy ra tại tỷ lệ nợ trên GNP là 47%, và năm 2001
Argentina đã rơi vào khủng hoảng nợ tại tỷ lệ nợ 50%.
Bảng 5 cho thấy rằng vỡ nợ nước ngoài ở mức nợ nước ngoài vượt quá
100% GNP chỉ chiếm 16% của các quan sát theo điều tra về ngưỡng nợ, hơn một
nửa các quan sát vỡ nợ đã xảy ra tại tỷ lệ của nợ trên GNP dưới 60%, thêm vào đó
vỡ nợ đã xảy ra mặc dù ở tỷ lệ nợ trên GNP thấp hơn 40% chiếm 20% các quan sát
này.

Bảng 3.1: Phân phối tần suất của tỷ lệ nợ nước ngoài của các nước thu nhập
trung bình tại thời điểm của sự kiện tín dụng 1970 - 2008
Phạm vi nợ nước ngoài trên GNP

Phần trăm của tổng lần vỡ nợ hoặc tái

trong năm đầu tiên của sự kiện tín

cấu trúc ở những nước có thu nhập

19,4
32,3
16,1
16,1
16,1
Nguồn: Reinhart, Rogoff (2009)
Tiếp theo, tương quan so sánh các quan sát nợ nước ngoài của các nền kinh tế

dụng

Dưới
41% - 60%
61% - 80%
81% - 100%
Trên 100%

trung bình

mới nổi với lịch sử có vỡ nợ và không có vỡ nợ được biểu thị tại biểu đồ 6.



Biểu đồ 3.1: Phân phối tần suất của tỷ lệ nợ nước ngoài: 1970 - 2008

Phần trên của biểu đồ 6 cho thấy phân phối tần suất của tỷ lệ nợ nước ngoài
trên GDP, và phần dưới cho thấy phân phối tần suất của tỷ số nợ nước ngoài trên
xuất khẩu, cho hai nhóm nước với lịch sử có vỡ nợ và lịch sử không có vỡ nợ từ
năm 1970 đến 2008. Từ sự khác biệt của hai phân phối này, Reinhart và Rogoff
cho thấy rằng các nước với lịch sử có vỡ nợ vay nhiều hơn so với các nước với lịch
sử không có vỡ nợ. Khi xem xét tỷ số nợ nước ngoài trên xuất khẩu thì sự chênh


lệch tỷ số nợ nước ngoài giữa các nước với lịch sử có vỡ nợ và các nước với lịch
sử không có vỡ nợ được mở rộng hơn. Dường như những nước có nguy cơ vỡ nợ
cao nhất (đó là, những nước có “khả năng chịu đựng nợ” bé nhất) khi họ cũng vay
mượn nhiều nhất.
Nợ công phản ánh và ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng tài chính
của một nền kinh tế. Chính vì vậy, việc đánh giá khoản nợ của một quốc gia có an
toàn hay không trở nên vô cùng cần thiết đối với các nhà đầu tư cũng như chính
bản thân chính phủ của quốc gia đó. Nhờ đó mà xếp hạng tín dụng nợ công ra đời.
Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung về mức ngưỡng an toàn
đối với các chỉ tiêu về nợ công để áp dụng cho tất cả các nước. Việc xác định các
chỉ tiêu an toàn về nợ công của từng nước thường được dựa trên cơ sở đánh giá
thực trạng nợ, tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, tiền tệ, nhu cầu về vốn
đầu tư phát triển, hệ số tín nhiệm của quốc gia và có thể tham khảo khuyến nghị
của IMF/WB về ngưỡng an toàn nợ nước ngoài theo phân loại chất lượng khuôn
khổ thể chế và chính sách.
Riêng tại các nước Khu vực đồng tiền chung châu Âu thì lại quy định hạn
mức trần nợ công áp dụng chung cho tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP,
thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP. Khi nói về ngưỡng an toàn cho nợ công, các
chuyên gia đến từ Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ

Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đều nhấn mạnh không nên dựa
quá nhiều vào ngưỡng nợ. Không phải lúc nào nợ công cao cũng sẽ ngay lập tức
mang lại những kết cục bi đát. Thực tế trên thế giới cho thấy những cuộc khủng
hoảng nợ công chỉ diễn ra khi chính phủ quốc gia nào đó không thể trả nợ đúng
hạn, cả nợ gốc và nợ lãi, nên phải tuyên bố phá sản quốc gia hoặc cầu cứu sự trợ
giúp quốc tế.
3.

Ngưỡng nợ công tại Việt Nam:
Ngưỡng nợ công là thông số hữu ích nhưng chỉ nhìn vào cái ngưỡng đó là

chưa đủ, TS. Benedict Bingham, đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam cho


biết. Theo chuyên gia này, thì khi xem xét nợ công của một nước cần phải xem các
nước có nền kinh tế tương tự có ngưỡng nợ thế nào, và phải tính đến cả rủi ro về
lòng tin. Bởi không thể dự báo rủi ro trên toàn thế giới, nên phải có biên độ về
ngưỡng để "cảm thấy thoải mái". Quan trọng hơn là phải hiểu được phạm vi, quy
mô và chất lượng nợ thực chất như thế nào, bao nhiêu phần trăm để thúc đẩy tăng
trưởng ngắn hạn, dài hạn… Điều đó đòi hỏi thông tin phải phong phú và rất chi
tiết. Có nhiều nghiên cứu về bản chất của khủng hoảng nợ công đã được tiến hành,
đồng thời cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về khủng hoảng nợ công. Theo
định nghĩa của Manasse, Roubini và Schimmelpfennig (2003): “Một quốc gia
được cho là bị khủng hoảng về nợ công nếu được Standard & Poor’s xếp hạng là
vỡ nợ, hoặc được nhận một khoản vay không ưu đãi lớn của IMF”.
Dù nợ công của Việt Nam mới gần chạm ngưỡng giới hạn cho phép (65%
GDP - theo Chiến lược Nợ công đến năm 2020), các tiêu chí an toàn nợ công theo
luật định cùng khả năng trả lãi và nợ gốc đến hạn vẫn bảo đảm, nhưng theo đánh
giá của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - cơ cấu nợ công của Việt Nam
đang xuất hiện những tín hiệu đáng quan ngại:

Thứ nhất là tỷ lệ chi thường xuyên trên tổng chi ngân sách nhà nước liên tục
tăng (hiện lên tới 60%) đang gây áp lực lên cân đối ngân sách. Mặc dù Việt Nam
chưa phải vay để chi thường xuyên, song trong bối cảnh nhu cầu đầu tư cho các dự
án hạ tầng quy mô lớn vẫn hết sức cấp thiết, đang đòi hỏi phải vay nợ nhiều hơn để
tài trợ đầu tư phát triển. Đáng lưu ý là, nợ trong nước đang là nhân tố chủ yếu
khiến nợ công tăng nhanh, trong khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên tổng nợ công có xu
hướng giảm. Nếu năm 2012, nợ trong nước là 744.521 tỷ đồng, nợ nước ngoài là
878.062 tỷ đồng trong tổng nợ công là 1.647.124 tỷ đồng, thì đến năm 2014, nợ
trong nước đã lên tới 1.229.231 tỷ đồng, nợ nước ngoài là 1.085.637 tỷ đồng trong
tổng nợ công 2.346.972 tỷ đồng.
Quan ngại thứ hai là lượng phát hành trái phiếu chính phủ (nguồn chính của
vay nợ nội địa) tăng nhanh. Tổng khối lượng trái phiếu được phát hành đến năm


2014 đã lên tới 235.497 tỷ đồng, cao gấp 8,4 lần năm 2010. Số tiền thu được một
phần để đầu tư trực tiếp cho các dự án trong nước và sử dụng với tư cách là vốn
đối ứng cho các dự án ODA.
Quan ngại thứ ba là kỳ hạn của trái phiếu chính phủ phát hành gần đây
tương đối ngắn, với 44% lượng trái phiếu phát hành năm 2014 có kỳ hạn dưới 3
năm. Tính bình quân, kỳ hạn trung bình của trái phiếu chính phủ tại Việt Nam từ
năm 2010 đến 2014 là 4,5 năm, trong khi con số này ở Nhật Bản là 9,6 năm. Khối
lượng trái phiếu tăng nhanh trong khi kỳ hạn ngắn lại sẽ khiến nợ công tiếp tục
tăng khi các cơ quan quản lý tài chính phải phát hành thêm để đáo nợ.
4.

Mô hình nghiên cứu:

Chúng em sử dụng một cách tiếp cận mới để tính toán tỷ lệ nợ mục tiêu, dựa trên
khuôn khổ lý thuyết “khả năng chịu đựng nợ” (Debt Intolerance) của Reinhart,
Rogoff và Savastano (2003). Bắt đầu từ quan sát thực nghiệm các tác giả này cho

rằng một số quốc gia có thể rơi vào tình trạng vỡ nợ hoặc tái cấu trúc nợ lặp đi lặp
lại ở tỷ lệ nợ tương đối thấp – một hội chứng mà họ gọi là không có “khả năng
chịu đựng nợ”. Các thể chế tài chính và chính phủ các quốc gia này sử dụng các
khoản vay mượn công để tránh né những quyết định khó khăn về chi tiêu trong
nước và chính sách thuế. Đồng thời, tài chính cứng nhắc, hiệu quả kinh tế thấp
cộng thêm ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài làm cho các nền kinh tế này dễ bị
tổn thương trước các cuộc khủng hoảng ở tỷ lệ nợ trên GDP tương đối thấp.
Phương pháp đo lường “khả năng chịu đựng nợ” được Reinhart, Rogoff và
Savastano (2003) đưa ra sử dụng xếp hạng của Institutional Investor (IIR), một sự
đánh giá được tổng hợp hai lần trong một năm bởi tạp chí Institutional Investor dựa
trên những khảo sát của các nhà đầu tư tổ chức, các nhà kinh tế. Họ hồi quy IIR
theo một vài chỉ số bao gồm tỷ lệ nợ, lịch sử của lạm phát và vỡ nợ, để tìm ra tác
động biên của việc tăng thêm một đơn vị nợ lên IIR và do đó sẽ tác động lên “khả
năng chịu đựng nợ”. Sử dụng kết quả của phương trình “khả năng chịu đựng nợ”
có thể tính được tỷ lệ nợ phù hợp với một mức IIR được đưa ra dựa trên lịch sử
lạm phát và vỡ nợ của một quốc gia. Một số nghiên cứu, ví dụ như của Di Bella


(2008), Everaert (2008), Topalova và Nyberg (2009) và Geoffrey J. Bannister,
Luis-Diego Barrot (2011) đã sử dụng phương pháp này để tính toán tỷ lệ nợ mục
tiêu cho các nước khác nhau như Cộng hòa Domica, Keyna, Ấn Độ, Trung Mỹ và
Panama.
Trong bài tiểu luận này, chúng em vẫn tiếp tục đi theo phương pháp chung nhưng
có một số sửa đổi đối với phương pháp trước đó.
- Chúng em sử dụng một bảng dữ liệu mảng “động”, chứ không phải là một ước
lượng cắt ngang (cross – section estimation) “tĩnh” được sử dụng trong Reihart,
Rogoff và Savastano (2003) và các nghiên cứu trước. Chúng em cũng sử dụng một
dữ liệu hằng năm thay vì sử dụng dữ liệu trung bình nhiều năm, như được thực
hiện trong nghiên cứu Reihart, Rogoff và Savastano (2003). Đồng thời chúng em
cũng bổ sung thêm một vài biến số mới để nắm bắt chính xác hơn những thay đổi

trong IIR.
- Chúng em sử dụng mô hình ước lượng Generalized Method of Moments (GMM)
trong khuôn khổ dữ liệu mảng “động”, nhằm hiệu chỉnh vấn đề nội sinh của các
biến độc lập, và đưa vào tác động cố định cụ thể mỗi quốc gia. Các hiệu ứng cố
định có thể nắm bắt tất cả các đặc điểm cụ thể của từng quốc gia nhưng không thay
đổi theo thời gian.
- Thay vì phân chia mẫu thành các nhóm ngang hàng dựa trên trung bình và độ
lệch chuẩn của IIR, phương pháp của chúng em ước lượng một phương trình cho
tất cả các nước, tránh để tránh vấn đề nội sinh tiềm tàng của các nhóm nợ và sai số.

- IIR mục tiêu và ngưỡng nợ tương ứng được tính toán dựa trên xếp hạng tín dụng
của các cơ quan xếp hạng lớn.
- Sử dụng một dữ liệu mới về tổng nợ chính phủ (bao gồm nợ chính phủ trong
nước và nợ chính phủ nước ngoài).
Kết quả ước lượng phương trình “khả năng chịu đựng nợ” có thể được áp dụng
linh hoạt để tính toán tỷ lệ nợ mục tiêu cho hầu hết các nước, trong đó có Việt
Nam. Bước đầu tiên, chúng em sử dụng kết quả ước lượng để mô tả mối quan hệ
giữa IIR và tỷ lệ nợ trên GDP của Việt Nam dựa trên IIR và tỷ lệ nợ trên GDP năm
2011. Tiếp theo, lập một biểu đồ IIR với xếp hạng tín dụng tương ứng, từ đó tìm ra
mức IIR mục tiêu tương ứng với một mục tiêu xếp hạng tín dụng, sau đó tính toán


tỷ lệ nợ mục tiêu cho phép một quốc gia có thể đạt được mục tiêu IIR tương ứng
với mức xếp hạng tín dụng mong muốn.
4. 1 Phương trình “khả năng chịu đựng nợ”
4.1.1 Các biến trong phương trình “khả năng chịu đựng nợ”
Cũng giống như Reihart, Rogoff và Savastano (2003) chúng em sử dụng các quan
sát về tỷ số nợ, lạm phát và trạng thái tái cấu trúc hoặc vỡ nợ như các biến giải
thích, và xếp hạng tín dụng quốc gia IIR như biến giải thích. Tuy nhiên, không
giống như Reihart, Rogoff và Savastano (2003), chúng em sử dụng các quan sát

về tổng nợ của chính phủ được cung cấp bởi The World Economic Outlook
(WEO) Database của IMF thay vì chỉ sử dụng dữ liệu nợ nước ngoài, chúng em
thực hiện thay thế biến giả lạm phát trên 40% thành tỷ lệ lạm phát hàng năm trong
ước lượng của chúng em và trạng thái tái cấu trúc hoặc vỡ nợ (bao gồm cả trong
nước và nước ngoài) hay không được chúng em nắm bắt qua biến giả vỡ nợ theo
từng năm. Tiếp theo chúng em sẽ mô tả rõ một số biến giải thích, và giới thiệu các
biến mới được đưa vào mô hình của chúng em.
Khả năng thanh toán nợ quốc gia. Như được đề nghị bởi Reihart, Rogoff và
Savastano (2003), chúng em sử dụng xếp hạng tín dụng quốc gia được phát hành
bởi Institutional Investor để đo lường khả năng thanh toán nợ quốc gia. Việc sử
dụng IIR cho phép chúng em xem xét một mẫu rộng hơn của các nước so với việc
sử dụng các chỉ số khác như EMBI spreads, Secondary market prices. Theo như
Gelos et al. (2003), nhiều quốc gia có thu nhập thấp không tiếp cận được với
thị trường trái phiếu quốc tế, nhưng điều đó là sai lầm để kết luận rằng khả năng
thanh toán nợ được quan sát không liên quan trong trường hợp này, ngoài ra, đấy
là những quốc gia mà viện trợ chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu nhập quốc
gia.
Institutional Investor xếp hạng các nước theo thang đo từ 0 đến 100, với một đánh
giá thấp phản ánh một khả năng cao hơn việc các nước đi vay bị vỡ nợ, và với
đánh giá 100 điểm cho một nước được coi là có rủi ro thấp nhất của vỡ nợ trên
nghĩa vụ nợ của chính phủ. Các xếp hạng là dựa trên thông tin được cung cấp bởi


các nhà kinh tế cấp cao và các nhà phân tích rủi ro chủ quyền tại các ngân hàng
thế giới hàng đầu, các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Xếp hạng đã
được phát hành thường lệ từ 1979, và số các nước được chấm điểm đã tăng từ 96
nước trong năm 1980 lên đến 178 nước trong năm 2011.
IIR được phát hành mỗi sáu tháng một lần (trong các tạp chí Institutional Investor
International tháng ba và tháng chín hàng năm), trong khi các biến hồi quy đều
dựa trên cơ sở hàng năm. Và do khó khăn trong việc tiếp cận để tổng hợp số liệu

từ các ấn phẩm của tạp chí Institutional Investor cho nên chúng em quyết định lấy
IIR được phát hành vào tháng chín mỗi năm, từ năm 2003 đến 2011.
Cuối cùng, thực tế IIR bị chặn dưới bởi 0 và bị chặn trên bởi 100, điều này gợi ý
rằng phải biến đổi số liệu. Nếu không thì chúng em không thể chắc chắn các giá
trị IIR được dự báo sẽ nằm trong khoảng mà các biến phụ thuộc được định nghĩa.
chúng em thực hiện biến đổi theo Haqueetal. (1996) cũng như nhiều nhà nghiên
cứu khác:

IIR
THR = 100. ln(
)
100 − IIR
Tuy nhiên, biến đổi này không ảnh hưởng đến kết quả ước lượng của chúng em,
và kết luận chính của chúng em vẫn có giá trị nếu chúng em sử dụng IIR không
biến đổi. chúng em giới thiệu thêm các biến giải thích sau:
• Mức thu nhập bình quân đầu người (CGDP). Biến này được chúng em

đưa vào mô hình (dưới dạng logarit) để nắm bắt một nhóm các thuộc tính
(chất lượng của các thể chế, nguồn lực, cấu trúc nền kinh tế, và ổn định
chính trị, và một số khác) cho phép các nước chuyển đổi hiệu quả hơn
một đơn vị nợ bổ sung thành thu nhập cao hơn, do đó nó có ảnh hưởng
đồng thời lên cả khả năng lẫn thiện chí trả nợ.
• Thâm hụt tài khoản vãng lai (CAB): tình hình thâm hụt tài khoản vãng lai
cao có thể là một tín hiệu cho những khó khăn trả nợ trong tương lai. Do
đó chúng em mong đợi hệ số của cán cân tài khoản vãng lai (như một
phần của GDP) (CAB) là dương.


• Tỷ lệ dự trữ trên nhập khẩu (RES): chúng em cũng bao gồm tỷ lệ dự trữ


trên nhập khẩu (RES) dưới dạng logarit để giải thích cho một thực tế là
nhiều sự kiện vỡ nợ được kích hoạt bởi các cuộc khủng hoảng cán cân
thanh toán (Kaminsky và Reinhart, 1999) và khả năng bảo vệ tỷ giá của
các nước phụ thuộc vào lượng dự trữ ngoại hối của họ. Các biến trên được
lùi một năm trong ước lượng của chúng em, với mục đích nắm bắt những
tác động của những biến này trong thời gian t – 1 lên IIR trong thời gian t,
đồng thời việc làm này có thể làm giảm vấn đề nội suy trong ước lượng và
dùng nó như một công cụ cho các biến nội sinh trong mô hình của chúng
em.
• Tỷ lệ nợ trên GDP bình phương: biến này được đưa ra nhằm mục đích để
nắm bắt những tác động phi tuyến tính của nợ trên IIR.
Cuối cùng, chúng em đưa vào mô hình giá trị trễ của biến phụ thuộc ở vế bên phải
của phương trình để nắm bắt “đà quán tính” của mức xếp hạng theo thời gian, và
một quốc gia có xu hướng giữ mức xếp hạng ổn định qua thời gian, trừ khi có các
tác động bất lợi hoặc tích cực đáng kể xảy ra. Theo chúng em đánh giá mức tín
nhiệm trong quá khứ nên có một ảnh hưởng lớn đến đánh giá hiện tại. Ngoài ra,
các vấn đề lịch sử (tức là các quan sát về lạm phát và vỡ nợ trước giai đoạn của
mẫu) và những tác động đó sẽ được nắm bắt trong mức độ ban đầu của mức xếp
hạng tín dụng. Tuy nhiên, việc đưa một biến trễ của biến phụ thuộc vào phương
trình làm gia tăng vấn đề tự tương quan trong mô hình, do đó các ước lượng thông
thường có thể bị sai lệch. Ngoài ra, để nắm bắt những chính sách hay những nhân
tố kinh tế vĩ mô hoặc các chính sách thay đổi theo thời gian ảnh hưởng đến tất cả
các nước chúng em sử dụng biến giả thời gian. Nó có thể nắm bắt những thay đổi
trong lãi suất của các nước công nghiệp, và những thay đổi chung trong tâm lý
nhà đầu tư.
4.2 Phương trình ước lượng
Phương trình chúng em thực hiện ước lượng là:
TIIRi ,t = β1TIIRi ,t −1 + β 2 Debti ,t −1 + β 3 Debt 2i ,t −1 + β 4CGDPi ,t + β 5 Inf i ,t

+ β 6CABi ,t −1 + β 7 RESi ,t −1 + β 8 Default i ,t + β D + µi + ϑi ,t



×