Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận tài chính công đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam theo mô hình DSF (2017) của IFM và WB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.3 KB, 25 trang )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Cơ sở lý thuyết
Sau khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu đi trước và thảo luận, nhóm đề
tài số 1 chúng em quyết định đưa ra khung lý thuyết như sau để bắt tay vào
tiến hành nghiên cứu:
1.1. Nợ công:
a. Khái niệm
b. Phân loại nợ công
c. Nguyên nhân gây ra nợ công
d. Tác động của nó lên kinh tế xã hội
1.2. Tính bền vững của nợ công:
1.1. Nợ công:

a. Khái niệm nợ công:
Cho đến nay các khái niệm liên quan đến nợ công vẫn còn rất nhiều
tranh luận, vẫn chưa có sự thống nhất cao tại các quốc gia, nhất là các quốc
gia đang phát triển, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn
khoa học, nghị trường của Quốc hội hay các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước ta cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới và các tổ chức quốc
tế. Do vậy, để hiểu rõ hơn về nợ công, chúng ta phải xem xét một số khái
niệm để có sự thống nhất trong cách sử dụng.
Khái niệm nợ: Theo IMF [43], “Nợ là toàn bộ số dư còn lại tại một thời
điểm nhất định của các khoản vay mà một đối tượng nào đó có nghĩa vụ phải
thanh toán (cả gốc và lãi) vào một hoặc nhiều thời điểm trong tương lai”
Theo định nghĩa của UNCTAD [55], “nợ là khoản mà người đi vay
phải trả, trả vốn hoặc cả vốn lẫn lãi, trả bằng tiền hoặc bằng hàng hóa dịch vụ
cho người cho vay ở một hoặc nhiều thời điểm trong tương lai”. Nợ như vậy
bao gồm nợ vay, nợ từ việc bán trái phiếu, tiền trả trước của khách hàng,
nghĩa vụ chi trả khách (như lương hưu).


1


Hiện nay các tổ chức quốc tế trong đó có UNCTAD khuyến cáo các
nước nên tính toán và theo dõi nợ công theo nghĩa rộng này, bởi vì tại nhiều
quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khu vực quốc doanh rất lớn.
Theo Luật Quản lý nợ công [29], thì Nợ được hiểu là “khoản phải hoàn
trả, bao gồm khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác có liên quan tại một thời
điểm, phát sinh từ việc vay của chủ thể được phép vay vốn theo quy định của
pháp luật Việt Nam”
Theo cách hiểu này, nợ là khoản phải hoàn trả, bao gồm khoản gốc, lãi,
phí và chi phí khác có liên quan tại một thời điểm, phát sinh và liên quan đến
việc vay của người vay.
Khái niệm nợ công: Hiện nay trên thế giới tồn tại hai cách quan niệm
về nợ công: theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng và theo chuẩn quốc tế được IMF định nghĩa thì nợ
công là: Nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của các tổ
chức sau:
- Chính phủ trung ương và các cơ quan của nó;
- Chính quyền địa phương các cấp như bang, tỉnh, thành phố;
- Ngân hàng trung ương;
- Các tổ chức độc lập (Các công ty tài chính và phi tài chính; các ngân
hàng thương mại, các đơn vị công ích…) khi:
+ Ngân sách của tổ chức đó là do Chính phủ báo cáo phê duyệt;
+ Chính phủ sở hữu hơn 50% số cổ phần có quyền biểu quyết hay hơn
nửa số thành viên ban giám đốc là các đại diện của Chính phủ;
+Khi vỡ nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ của tổ chức đó.
(IMF, 2001, Guidelines for Public dept management)
Theo cách tính của UNCTAD thì nợ công, ngoài nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và nợ của các chính quyền địa phương còn bao gồm

khoản nợ của các doanh nghiệp Nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả (có thể là
Công ty TNHH Nhà nước một thành viên, Tập đoàn kinh tế của Nhà nước,
các Tổng công ty của Nhà nước, các khoản nợ tương ứng với tỷ lệ % phần
góp vốn của Nhà nước tại các Công ty cổ phần; nếu các công ty này phá sản
Nhà nước sẽ mất đi phần vốn này) với quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước sử
dụng để mua trái phiếu, công trái Chính phủ, hay đầu tư vào các công trình
2


kinh tế trọng điểm của quốc gia và khoản tiền này Nhà nước phải chi trả cho
người lao động nghỉ hưu trong tương lai.
Trong hướng dẫn chung về khái niệm nợ công được phát hành bởi Hiệp
hội các cơ quan Kiểm toán tối cao INTOSAI đã định nghĩa nợ công như sau:
(1) Khoản phải trả hay các cam kết khác được gánh chịu trực tiếp bởi
các cơ quan công quyền như là: Chính phủ trung ương, hay một Chính phủ
liên bang, tùy thuộc vào thể chế chính trị của từng nước; Các Chính phủ
bang, tỉnh, đô thị, khu vực và địa phương khác; Các doanh nghiệp, đơn vị
kinh doanh do Nhà nước sở hữu hay quản lý; Các đơn vị Nhà nước khác.
(2) Khoản phải trả hay các cam kết khác mà các cơ quan Nhà nước phải
gánh vác với vai trò đại diện cho các doanh nghiệp tư nhân hay các đơn vị
khác.
(3) Việc xử lý đối với các khản phải trả của Ngân hàng trung ương tùy
thuộc vào địa vị rõ ràng của các ngân hàng và mức độ độc lập của chúng từ
Chính phủ trung ương. INTOSAI [48]
Theo nghĩa hẹp định nghĩa trong Luật quản lý nợ công, “nợ công bao
gồm “nợ chính phủ; Nợ được Chính phủ bảo lãnh; Nợ chính quyền địa
phương” Luật quản lý nợ công [29].
Như vậy, so với khái niệm nợ công mà các tổ chức quốc tế như WB,
UNCTAD, INTOSAI khuyến cáo các nước nên theo, khái niệm nợ công của
Việt Nam chưa bao gồm các khoản vay của Chính phủ đối với Ngân hàng

Nhà nước và các khoản vay của khối các doanh nghiệp Nhà nước đối với các
tổ chức trong nước và nước ngoài có bảo lãnh và không có bảo lãnh của
Chính phủ. Để hiểu rõ hơn, ta có thể xem bảng:
Chỉ tiêu được tính trong nợ công VN: WB, UNCTAD, INTOSAI
Có thể do thể chế chính trị hay do quan điểm điều hành mà xuất hiện
những định nghĩa khác nhau theo các cách hiểu khác nhau về nợ công. Tuy
nhiên, nếu định nghĩa không chính xác dẫn đến việc thống kê không đầy đủ
các khoản nợ công. Điều này sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý, điều
hành kinh tế vĩ mô và xác định nghĩa vụ thanh toán đối với ngân sách nhà
nước. Bên cạnh đó, việc thống kê không đầy đủ các khoản nợ công cũng dễ
3


dẫn đến các rủi ro tài chính, mất lòng tin đối với các chủ nợ, có khả năng bị
các tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế đánh giá thấp dẫn đến tăng chi phí lãi
vay và ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu, tác giả vẫn thống nhất với định
nghĩa nợ công theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm: nợ Chính phủ và nợ của chủ
thể khác (doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức…) nhưng được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán, và nợ của chính quyền địa phương.
b. Phân loại nợ công:

Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa
khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại:
nợ trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là
cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là
Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá
nhân nước ngoài. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không
được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ

công không phải là nợ trong nước.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính
xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc
quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt
Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi
hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ
thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những
thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng
vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt
Nam với bên nước ngoài.
4


Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ
này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển
nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công
có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ
thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ
công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà
Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là
khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên
vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của

trung ương và nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương
là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa
phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và có
nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật NSNN năm 2002 thì những
khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách
và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được
Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung
ương.
Ở nước ta theo Luật quản lý nợ công , Nợ công được phân theo trách
nhiệm với chủ nợ và bao gồm:
 Nợ Chính phủ
 Nợ được Chính phủ bảo lãnh
 Nợ chính quyền địa phương
c. Nguyên nhân gây ra nợ công:

Thứ nhất, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành
nguồn lực chính để bù đắp vào thâm hụt ngân sách. Đây là nguyên nhân
chính khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.
Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của nhà nước.
5


Thâm hụt thương mại luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn
vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ (qua
ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn.
Thứ hai, vay nước ngoài quá nhiều sẽ gây những tác động nguy hại đến
nền kinh tế. Thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào trong nước sẽ làm
giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, việc Chính
phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng
cao, làm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên

liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ
giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng
nguy cơ vỡ nợ, nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà
nước. Việc vay nợ nước ngoài lớn nhất bằng đồng JPY và USD sẽ rất bất lợi
vì hiện nay đồng JPY và USD đang có xu thế tăng giá, do đó tỷ giá JPY/VND
sẽ tiếp tục tăng lên, điều này sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của nhà
nước bởi: Một là, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn
thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỷ giá cao; Hai là, rủi ro kép với mức chênh lệch
lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu như chênh lệch lãi suất
quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực hiện cân
bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đôla hóa và tạo áp lực lên tỉ giá.
Ba là, khi tính toán tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền đồng vào từng
thời kỳ. Giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay nước ngoài sẽ
chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay không có
hiệu quả.
Sự mất giá của tiền đồng Việt Nam đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho các
doanh nghiệp trong việc trả nợ, khiến nợ công ngày càng gia tăng.
Thứ ba, thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư lại
không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất cao khiến cho việc hoàn
trả nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Trong khi các nước phát triển vẫn duy
trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp
nhận lạm phát trong chừng mực nhất định
6


Thứ tư, đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của nhà
nước giảm là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công. Đầu tư công
chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng nợ công. Đầu tư công ở châu
Âu và Mỹ trở thành tâm điểm gây bất ổn kinh tế toàn cầu và đã dẫn đến
khủng hoảng nợ công 2010.

d. Vai trò của nợ công:

Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của kinh
tế học về nợ công sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp luật
phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng
nợ công ở Việt Nam.
Bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ: Trong lĩnh vực tài
chính công, một nguyên tắc quan trọng của NSNN được các nhà kinh tế học
cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu
hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển,
ngân sách thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số
thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí,
còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng Nhà nước
lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế. Tuy nhiên, trong một số
thời điểm, Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả
năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải
vay vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, điều đó làm phát sinh
nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và
Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả; hay nói cách khác, vai trò quan trọng
nhất của nợ công là bù đắp các khoản bội chi ngân sách của Chính phủ.
Tăng cường đầu tư phát triển: Đối với các quốc gia đang phát triển, để
phát triển hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ… thì nguồn vốn vay là rất
quan trọng. Nguồn vốn này càng hấp dẫn bởi nó còn được các nước phát triển
cũng như các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ với lãi suất ưu đãi, thời gian ân
hạn lâu dài. Chính vì vậy nguồn vốn vay sẽ hỗ trợ rút ngắn thời gian tiến tới
các mục tiêu phát triển giúp các quốc gia chậm phát triển cũng như các quốc
7


gia đang phát triển nhanh chóng phấn đấu để trở thành các quốc gia phát

triển.
Kích thích tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh
tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ làm tăng sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút, mở rộng các hoạt động đầu
tư phát triển kinh tế đất nước, tạo niềm tin cậy của đất nước mình trên bình
diện Thế giới. Nợ công an toàn với nền kinh tế sẽ tạo nguồn vốn bổ sung cho
quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế được bền vững, qua đó điều chỉnh
tốt cán cân thanh toán quốc gia, góp phần hỗ trợ các nước vay nợ tiếp thu
công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước
ngoài
e. Tác động của tính bền vững nợ công đối với nền kinh tế, xã hội
 Tích Cực:
 Bù thâm hụt ngân sách:
Thông thường, nợ công là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách và
quy mô nợ công đúng bằng quy mô thâm hụt ngân sách tích tụ qua các năm.
Về nguyên tắc, đển bù đắp thâm hụt ngân sách, chính phủ các nước phải vay
trong và ngoài nước, chứ không được phát hành tiền để tránh nguy cơ xảy ra
lạm phát cao. Vay nước ngoài gây dựng được một lượng vốn theo yêu cầu,
nhằm đạt được các mục tiêu về chi phívà rủi ro, đáp ứng được các mục tiêu
quản lý nợ khác của Chính phủ đã đề ra.
 Đầu tư:
Khi có một dự án yêu cầu nhiều về vốn hay công nghệ mà chính phủ
không đủ tiềm lực thì vay nước ngoài sẽ giải quyết được phần nào vấn đề
vốn.
 Tiêu Cực:
 Ảnh hưởng ngược từ các chính sách khi nợ công quá lớn:
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt
lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để
được nhận sự hỗ trợ cần thiết từcác tổ chức tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, trong
thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt

8


đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính
phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu,
tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làmchậm
tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”.
 Bị hạ bậc tín nhiệm:
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia
khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ
trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Khi đó, các quỹ
đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong
các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường
tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy:
tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm.
 Tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế:
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong
dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự
tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau: - Tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.Gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân.- Tăng thuế để trả lãi nợ vay chính
công dân nước mình => Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích
về phúc lợi xã hội.Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính
phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao
vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).Phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có
những tác động phụ làm giảm tổng cầu.- Gây ra áp lực lạm phát, tác động tiêu
cực tới tốc độ tăng trưởng thực
 Gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế cùng với rủi ro chênh lệch tỉ
giá:
Nợ công ở mức cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần

sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.- Trong khi trong chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây, Chính phủ đang có kế hoạch
9


triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn như nhà máy điện nguyên tử, đường sắt cao
tốc,… nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ tăng vọt. Nhìn lại quá trình này, đã có lúc
Nhà nước phải đi vay với tỷ giá chỉ 11 nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1
USD, thì ở thời điểm hiện tại tỷ giá quy đổi đã lên đến mức trên dưới 20
nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1 USD. Như vậy là khoản chênh lệch tỷ
giá này toàn bộ nền kinh tế của chúng ta phải hứng chịu
1.2. Tính bền vững của nợ công
WB (2006) chỉ ra nợ công nước ngoài của một quốc gia được coi là bền
vững nếu như các nghĩa vụ nợ (trả gốc và lãi) được thực hiện một cách đầy đủ
mà không cần phải sử dụng đến các biện pháp tài trợ ngoại lệ (ví dụ như xin
miễn giảm), hoặc không cần phải thực hiện những điều chỉnh lớn đối với cán
cân thu nhập và chi tiêu của mình. Như vậy, tính bền vững của nợ công được
hiểu là việc vay nợ công vẫn được quốc gia đảm bảo trả nợ gốc và lãi theo
định kì như trong cam kết hợp đồng vay trả và việc trả nợ nằm trong tầm
kiểm soát chi trả của một quốc gia.
b. Các tiêu chí đánh giá tính bền vững của nợ công
Có 3 phương pháp quốc tế đánh giá tính bền vững của nợ công theo WB
(2006) và IMF (2011)
 Phân tích nợ công nặng của các quốc gia nghèo
 Khung đánh giá nợ công của các quốc gia thu nhập thấp ( LIC-DFS)
 Khung đánh giá nợ công của các quốc gia thu nhập trung bình ( MICDFS)
Những phương pháp này đề đưa ra chỉ số để dự báo các khoản vay và
biến đổi kinh tế trong thời gian tối đa 20 năm và sử dụng để so sánh giá trị nợ
với GDP, xuất khẩu và thu ngân sách.
Để đánh giá nợ công có tính bền vững thường dựa vào các tiêu chí phổ

biến sau đây:
Một là, đánh giá hiện trạng nợ công bao gồm việc xem xét quy mô hiện
tại, cơ cấu kì hạn, cơ cấu lãi suất cố định hay thả nổi, cơ cấu tiền tệ và chủ nợ.
Hai là, xác định tính dễ tổn thương của cơ cấu nợ hiện tại hoặc rủi ro
chính sách để từ đó khuyến nghị những điều chỉnh thích hợp.
10


Ba là, dự báo nợ công tương lai và đưa ra các khuyến nghị chính sách để
tránh sự đổ vỡ hoặc ổn định nợ công.
Trong đó, phương pháp đánh giá theo mô hình DSF của IMF và WB
được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. Trong khuôn khổ của nghiên cứu,
chúng em tập trung đánh giá tính bền vững của nợ công VN dựa trên phương
pháp đánh giá theo mô hình DSF của IMF và WB.
1.3 Phương pháp đánh giá tính bền vững của nợ công theo mô hình DSF
của IMF và WB
Nghiên cứu này sử dụng mô hình DSF dành cho các nước thu nhập thấp
(LICs) được WB và IMF cập nhật gần đây nhất (2017) tại văn bản hướng dẫn
"Revisiting the Debt Sustainability Framework for Low - Income Countries"
(IMF & WB, 2017) làm phân tích.
Mục đích của phương pháp này là dựa vào mô hình DSF (tập hợp
các ngưỡng nợ nguy hiểm), để phân tích, dự báo gánh nặng nợ tổng thể và nợ
công nước ngoài của quốc gia (được tính trên GDP, thu ngân sách nhà nước
và kim ngạch xuất khẩu) có đang gặp nguy cơ vỡ nợ hay không và đánh giá
nguy cơ tiềm ẩn của nợ công. Các ngưỡng chỉ số nợ công phụ thuộc vào mức
độ hỗ trợ của chính sách và khung thể chế của một quốc gia đối với tăng
trưởng bền vững và giảm nghèo, được đo lường bằng chỉ số CI (Composite
Indicator)
Theo quy tắc của mô hình DSF, những nước có điểm CI trung bình
thấp hơn hoặc bằng 2,69 được coi là có chính sách yếu, từ 2,69 đến dưới 3,05

được coi là nước có chính sách trung bình, bằng hoặc lớn hơn 3,05 được coi
là có chính sách tốt.

11


CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG MÔ HÌNH DSF (2017) VÀO VIỆC ĐÁNH GIÁ
TÍNH BỀN VỮNG CỦA NỢ CÔNG VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về mô hình DSF
Để nghiên cứu tính bền vững của nợ công Việt Nam, nhóm chúng em sử
dụng khung lý thuyết nợ bền vững (Debt Sustainability Framework for Low –
Income Countries). Mô hình này còn được gọi là mô hình DSF, nghiên cứu và
phát triển bởi Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund- IMF) và
Ngân hàng thế giới (World Bank- WB). Nó được sử dụng cho nhiều nhóm
nước khác nhau: Nhóm nước dễ tiếp cận thị trường vốn quốc tế (MarketAccess Countries- MACs), và nhóm nước có thu nhập thấp (Low- Income
Countres- LICs). Kể từ khi ra đời năm 2005, các ngưỡng nợ đã được cập nhật
vào năm 2006, 2009 và 2012.
Mô hình của lý thuyết nợ bền vững DSF:
CI=
Với = 0.385, = 2.719, = 2.022, = 4.052, = -3.990, = 13.520
2.2. Phân tích về các biến trong mô hình
Trong mô hình, các biến là những chỉ số sau:
 CI (Composite Indicator): đây là chỉ số phản ánh sự tác động của các
nhân tố khác nhau như tăng trưởng GDP, lượng kiều hối, dự trữ ngoại tệ và
tốc độ tăng trưởng của thế giới để xếp loại các nước sử dụng mô hình vào loại
có chính sách yếu, trung bình hay mạnh.
 CPIA (Country Policy and Institutional Assessment): đo lường mức độ
hỗ trợ của chính sách và khung thể chế của một quốc gia đối với tăng trưởng
bền vững và giảm nghèo.
 g phản ánh tốc độ tăng trưởng của đất nước qua các năm.

 Remittances là lượng kiều hối từ nước ngoài đổ về Việt Nam.
12


 GDP là chỉ số tổng sản phẩm quốc nội, là giá trị thị trường của tất cả
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ
nhất định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một
năm)
 Reserves là dự trữ ngoại hối. Đó là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung
ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ.
Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường
là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích
thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia.
 Import là số ngân sách cho nhập khẩu, là kế hoạch chi dành cho nhập
khẩu được xác định từ trước của một chính phủ.

13


CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Xác định chỉ số CI của Việt Nam để tìm ngưỡng nợ so sánh phù hợp
Dựa vào việc thu thập dữ liệu từ nguồn thông tin thứ cấp, nhóm chúng
em đã tổng hợp được chỉ số CI của Việt Nam giai đoạn 2005-2017 như sau:
Năm CPIA g (%)
2005
2006
2007
2008
2009
2010

2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017

3,72
3,82
3,78
3,81
3,81
3,78
3,75
3,75
3,78
3,76
3,71
3,71
3,75

7,8
8,4
8,5
6,23
5,32
6,78
6,24
5,25

5,42
5,98
6,68
6,21
6,81

Remittances/GD
P
(%)
5,46
5,72
7.98
6.86
5.68
7.12
6.34
6.42
6.42
6.44
6.83
5.79
6.16

Reverse/Import
(%)
23.86
29.01
36.48
29.04
21.98

13.90
12.41
21.90
18.46
22.05
18.49
19.74
22.39

CI
3.842
4.292
4.219
1.816
-1.733
4.317
3.185
2.513
2.617
2.859
2.856
2.513
3.138

3.01
3.23
3.37
2.86
2.19
2.85

2.61
2.75
2.70
2.83
2.75
2.70
2.88

Từ kết quả trong bảng trên ta thấy, giai đoạn 2005- 2007 chỉ số CI trung
bình của Việt Nam là 3,2 lớn hơn 3,05, nên có thể coi Việt Nam là đất nước có
chính sách mạnh. Do đó, ngưỡng cảnh báo trong mô hình DSF phù hợp cho
Việt Nam là ngưỡng dành cho các nước có chính sách mạnh.
Trong giai đoạn 2008- 2011, chỉ số CI tụt giảm đáng kể, nhỏ hơn 2,69
nên lúc này Việt Nam được xếp hạng vào nhóm có chính sách yếu, dẫn tới
ngưỡng cảnh báo phù hợp cho Việt Nam lúc này là ngưỡng cho các nước có
chính sách yếu. Điều này xảy ra là do bối cảnh nền kinh tế vĩ mô lúc bấy giờ
đang bất ổn và tỷ lệ tăng trưởng thấp.
Sang giai đoạn 2012- 2017, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chỉ số CI
đã vượt qua ngưỡng 2,69 tuy vẫn nhỏ hơn 3,05. Lúc này Việt Nam được xếp
vào loại có chính sách trung bình. Do vậy, ngưỡng nợ cảnh báo dành cho Việt
Nam lúc này là ngưỡng nợ dành cho các nước có chính sách trung bình.

14


3.2. So sánh nợ công của Việt Nam theo mô hình DSF của WB và IMF
năm 2017
Sau khi tổng hợp thông tin, chúng em đánh giá nợ công theo ngưỡng
cảnh báo từ mô hình DSF như sau:
Năm


Ngưỡng
nguy
hiểm theo
mô hình
DSF
(2017)

2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Chính
sách yếu
Chính
sách trung
bình
Chính
sách mạnh

Tổng nợ

Giá trị nợ nước ngoài Nghĩa vụ trả nợ theo
công/GDP
theo tỷ lệ (%)
tỷ lệ (%)
(%)
Kim
Kim
Thu ngân Theo giá
GDP
ngạch
ngạch
sách nhà trị danh
xuất khẩu xuất khẩu nước
nghĩa
32,15
50,48
2,58
5,27
36,5
28,15
41,58
2,15
5,98
38,4
29,80
42,26
2,29
5,33
40,9
26,67

37,91
2,02
6,02
39,4
30,85
49,27
2,24
6,28
45,2
38,73
53,79
2,24
5,43
48,1
39,76
50,08
3,84
5,76
45,8
39,52
49,38
3,64
6,45
47,9
38,22
45,71
3,16
6,75
51,8
38,89

45,01
4,19
8,63
55,1
40,26
44,85
3,82
5,81
57,3
41,72
44,56
3,81
5,92
60,7
46,51
45,78
5,96
6,02
61,5
30

140

10

14

35

40


180

15

18

55

55

240

21

23

70

Nếu so sánh các gánh nặng nợ năm 2017 với ngưỡng cảnh báo của mô
hình DSF (2017) dành cho các nước có chính sách trung bình thì có 2 chỉ số
nợ: Nợ nước ngoài/GDP (46,51%) và Nợ công/GDP (61,5%) đã lần lượt vượt
ngưỡng cảnh báo của DSF là 40 và 55. Các chỉ số còn lại đều dưới ngưỡng
cảnh báo.
So sánh với năm 2015, có thể thấy rằng tình hình nợ công của Việt Nam
đang ngày càng trầm trọng hơn do có 2 chỉ số: Nợ nước ngoài/GDP và Nợ
công/ GDP đang tăng dần theo thời gian. Còn các chỉ số liên quan đến nghĩa
15



vụ trả nợ vẫn cách mức cảnh báo khá xa. Điều này phản ánh nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của Việt Nam tương đối thấp so với khả năng trả nợ của Việt
Nam.
3.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Từ kết quả nghiên cứu, có thể nhận định rằng:
Giai đoạn 2005- 2007, nợ công Việt Nam khá bền vững thể hiện ở các
chỉ số đều dưới ngưỡng cảnh báo của WB và IMF.
Giai đoạn 2008- 2011, nợ công của Việt Nam thiếu bền vững và chịu
mức độ rủi ro cao, khi có đến 2/6 chỉ số vượt xa ngưỡng cảnh báo.
Đến giai đoạn 2012-2017, mặc dù vẫn có 2/6 chỉ số vượt ngưỡng cảnh
báo nhưng có thể nhận thấy khoảng cách giữa chỉ số trong thực tế và ngưỡng
cảnh báo đã được rút ngắn.
Mặc dù có quy mô khá lớn (46,51%), gánh nặng nợ nước ngoài đối với
Việt Nam là khá thấp trong những năm tới do được hưởng những khoản vay
ưu đãi từ các tổ chức quốc tế, khoản vay thường có lãi suất thấp và thời hạn
dài. Vì vậy, rủi ro nợ nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới là khá thấp.
Tuy nhiên, để duy trì điều này, Việt Nam cần đảm bảo ổn định được tỷ giá hối
đoái và cán cân thanh toán.

CHƯƠNG4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
4.1. Kết luận
Sô liệu mới nhất của Bộ tài chính cho thấy nợ công nước ta giảm xuống mức
61,3% GDP năm 2017 từ mức 63,6% GDP của năm 2016, thấp hơn con số
62,6% GDP ước tính trước đó. Tuy nhiên, nợ công vẫn ở mức rất gần với
16


ngưỡng nợ công 65% GDP do Quốc hội đề ra. Trong đó, nợ Chính phủ Trung
Ương chiếm 42,9% GDP, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9% GDP và
nợ của Chính quyền đị aphương chiếm 0,9%. Nếu phân chia theo nợ công

trong nước và nước ngoài thì tổng nợ công trong nước là 33,8% GDP và nợ
công nước ngoài đạt 27,2% GDP. Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
(VEPR) cho rằng, néu không có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ nguồn
vốn vay, mức trần nợ công rất dễ bị phá vỡ. Đồng thời, dựa vào mô hình lý
thuyết nợ công bền vững DSF, chỉ số CI theo các gia đoạn thì Việt Nam hiện
nay đang được xếp vào nhóm có chính sách trung bình và vẫn kiểm soát được
nợ công, nhưng mức độ rủi ro vẫn rất lớn.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ nợ trong nước do nợ trong nước là những khoản
nợ có kì hạn ngắn, lãi suất cao nên áp lực trả nợ lớn trong những năm tiếp
theo. Thêm nữa, những yếu tố bất ổn như bội chi ngân sách lớn và kéo dài
trong điều kiện kinh tế đang tăng trưởng chậm khiếm cho khối lượng nợ công
tăng nhanh. Thêm nữa, chính phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu trái phiếu
kỳ hạn 1-2 năm, việc huy động, phân bổ và sử dụng vốn vay của Chính phủ
còn dàn trải, kém hiệu quả, khối lượng huy động bằng trái phiếu của Chính
phủ tăng nhanh, vượt khả năng cung ứng vốn trung và dài hạn của thị trường
vốn trong nước, chi phí huy động vốn vay nước ngoài có xu hướng tăng khi
Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình đang đe dọa đến tính bền
vững của nợ công Việt Nam trong thời gian tới. Nếu Chính phủ không có
những biện pháp ứng phó kịp thời thì nợ công Việt Nam sẽ dần mất kiểm soát
và có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Tình trạng nợ cao như hiện nay đã và đang sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu
yếu tố từ nợ công và những khó khăn bởi tình hình kinh tế như nợ xấu ngày
càng tăng trong ngân hàng, bất động sản đóng băng, chứng khoán xuống dốc,
doanh nghiệp phá sản hàng loạt, thất nghiệp gia tăng,.. không được giải quyết
thì nền kinh tế có nguy cơ đổ vỡ. Nếu không đổ vỡ thì nó cũng sẽ ảnh hưởng
đến khả năng tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, đến tiến trình tái cơ
17


cấu nền kinh tế. Bởi một khi tiền không có, nguồn lực tái cơ cấu bị phân tán

hoặc thậm chí bị giằng xé bởi các nhóm lợi ích.
Có rất nhiều nước đã từng bị vỡ nợ và hiện nay nhiều nước đang đối mặt với
việc vỡ nợ là: Bồ Đào Nha, Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha,.. Nguyên nhân là do
chính sách tài khóa lỏng lẻo, mở rộng hệ thống ngân hàng một cách thái quá,
sử dụng đồng vốn vay kém hiệu quả,… Những năm 1997, 1998, để tháo gỡ
khó khăn, chính phủ Hàn quốc đã phải chấp nhận vay khẩn cấp ÌM 57 tỉ USD
với những điều kiện ngặt nghèo, tiến hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng nền
kinh tế thị trường dân chủ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt, coi trọng các
công ty vừa và nhỏ, giảm sự can thiệp của nhà nước, chống câu kết chính trị,
kinh doanh. Mặt khác, Hàn Quốc cũng đã áp dụng chính sách thắt lưng buộc
bụng, kêu gọi huy động quốc dân, quyên góp tiền vàng ủng hộ chính phú
nhằm tăng dự trữ vàng và khi cần thiết chính phủ có thể bán để thu về ngoại
hối trả nợ. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong việc khắc phục khủng
hoảng trong thời gian 3 năm (1998-2000), trả xong nợ của IMF. Mới đây,
chính phủ Síp cũng đã quyết định bán vàng dự trữ trị giá 400 triệu euro để trả
nợ.
Hiện nay, Việt Nam là nước không chỉ có mức thâm hụt ngân sách lớn nhất
trong khu vực mà nợ công của Việt Nam còn có tỷ lệ cao nhất trong khu vực
ASEAN theo báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý I/2016 do Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung Ương. Thâm hụt ngân sách đã liên tục tăng kể từ khi Chính phủ
thực hiện gói kích cầu năm 2009, bội chi NSNN đã tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ
đồng năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi
NSNN đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015,
cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài
của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030 (chiến lược nợ công).
Theo số liệu của IMF – Triển vọng kinh tế thế giới (WEO), trong năm 2015,
thâm hụt NSNN của Việt Nam là 6,9% GDP, Thái Lan là 1,2% GDP,
Indonesia là 2,3% GDP, Phillipines là 0,12% GDP và Campuchia là 2% GDP.
18



Bên cạnh đó, Việt Nam tuy có mức tăng trưởng cao chỉ sau Campuchia nhưng
lại có mức nợ công/GDP cao gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước
có mức nợ công/GDP đứng sau Việt Nam.
Theo mô hình
4.2. Khuyến nghị chính sách
4.2.1. Những khuyến nghị rút ra từ nợ công trong nước
Các phân tích cụ thể và chi tiết về thực trạng nợ công được đề cập tại phần
trên đã cho thấy rõ nét chiều hướng gia tăng quy mô và tính rủi ro của nợ
công Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nhóm em xin đưa ra một số kiến nghị, giải
pháp rút ra được từ thực trạng nợ công những năm gần đây của Việt Nam để
quá trình quản lý nợ công có thể áp sát thực tế, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay:
a) Khung quản lý nợ công
Thứ nhất, chúng ta nhất thiết phải xây dựng được một cơ chế quản lý
nợ công thật hiệu quả. Xây dựng một đội ngũ cán bộ nhạy bén và có kinh
nghiệm trong việc quản lýnợ công. Thường xuyên chạy các mô hình, tiến
hành các nghiên cứu để đánh giá tình trạng của nợ công Việt Nam, những bất
cập cũng như dấu hiệu bất ổn về trạng thái nợ công Việt Nam. Luôn chủ động
xử lý và điều chỉnh, khắc phục không chỉ những vấn đề còn tồn đọng mà kể
cả những vấn đề mới xuất hiện hoặc mới có dấu hiệu xảy ra của nợ công Việt
Nam. Quản lý nợ công chặt chẽ sẽ giảm thiểu được nguy cơ gây ra khủng
hoảng nợ công.
Thứ hai, chúng ta phải xây dựng luật quản lý nợ công vừa hiệu quả
trong ngắn hạn mà còn phải phát huy được hiệu quả cả trong dài hạn. Gần đây
nhất nhà nước có ban hành Luật quản lý nợ công( sửa đổi) gồm 10 chương và
67 điều vào ngày 23/11/2017. Trong đó có bổ sung 3 chương mới, 18 điều và
sửa đổi 44 trong số 49 điều của biên bản luật trước đó. Nhìn chung thì về cơ
bản luật quản lý nợ công năm 2017 vẫn kế thừa về quy định nợ công (nợ
chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương),
luật sửa đổi quy định nợ công không bao gồm nợ tự vay tự trả của doanh

19


nghiệp nhà nước, đơn vị công và tổ chức kinh tế của nhà nước. Tuy đã có
điểm được cải thiện so với luật hiện hành trước đó nhưng theo ý kiến của
nhóm rất mong muốn nhà nước trong luật sửa đổi tới có thể sửa đổi quy định
nợ công bao gồm những bộ phận đồng nhất với cách tính nợ công của quốc tế.
Như vậy sẽ dễ dàng hơn cho việc nghiên cứu và so sánh với nợ công của các
nước trong khu vực cũng như trên thế giới thay vì chủ yếu tập chung vào nợ
nhà nước. Với những luật quản lý nợ công Việt Nam trong tương lai sẽ sửa
đổi những điểm còn bất cập cũng như đề ra khung pháp lý chặt chẽ hơn trong
quản lý nợ công.
Thứ ba, công bố và cập nhật số liệu nợ công một cách nhanh chóng,
giúp người dân dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin về nợ công một cách dễ
dàng thông qua nguồn chính thống. Có một thực tế trong khi tìm hiểu và thu
thập số liệu về nợ công, cả nhóm đã gặp khá nhiều khó khăn để thu được số
liệu từ nguồn chính thống. Các báo đưa tin về nợ công cũng dễ gặp tình trạng
con số không đồng nhất. Chính vì lẽ đó nhóm hi vọng trong tương lại Bộ tài
chính có thể xây dựng một kênh thông tin dành riêng cho nợ công để chuyên
cung cấp các thông tin một cách chính thống, nhanh chóng về nợ công để
người dân và đặc biệt là các đối tượng có nhu cầu nghiên cứu nợ công có thể
dễ dàng tiếp cận nguồn số liệu.
b) Giảm chi tiêu công
Trước tiên cần xem xét kỹ trước khi tiến hành chi tiêu công. Việc này
là rất quan trọng nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhà nước nhờ đó sẽ giảm
được nợ công ngày càng tăng cao. Nhất là trong bối cảnh sắp tới khi Việt
Nam không còn nhận được nguồn vốn ODA cũng như các nguồn vay có lãi
suất rất thấp hoặc thậm chí bằng không do từ năm 2017 Việt Nam đã không
còn nằm trong danh sách các nước có thu nhập thấp nước nữa. Khi không còn
nhận được các nguồn vay có chi phí thấp thì Việt Nam sẽ phải cân nhắc trước

mỗi khoản vay, vì lãi nợ vay cũng là một trong những yếu tố làm tăng nợ
công của Việt Nam. Việt Nam chỉ nên vay khi nhìn thấy tương lai có thể hoàn
20


trả cả vốn và lời đúng hạn nếu không muốn đối mặt với khủng hoảng nợ công
như Hy Lạp. Tiếp đến là giảm chi thường xuyên cho những nguyên nhân
không cần thiết. Bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay được đánh giá là cồng
kềnh và kém hiệu quả. Lượng lương phải trả cho những cán bộ công chức
“thừa thãi” là một gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà chúng ta cần xem
xét để cắt giảm biên chế cho phù hợp. Một bộ phận trong nợ công được nhà
nước cho các doanh nghiệp trong nước vay để tiến hành đầu tư cần được xem
xét kỹ lượng chỉ cho phép các doanh nghiệp đủ điều kiện có khả năng vay và
trả đúng hạn cũng như có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được từ
nguồn vốn này, để nguồn vốn này có thể sinh lãi chứ không tiến hành rót vốn
ồ ạt, không xem xét kỹ lưỡng các điều kiện về vay vốn. Nợ công cũng được
dùng để đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam. Nhưng có một
thực trạng là dường như Việt Nam có quá nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, nên
đôi khiviệc rót vốn, tập trung đầu tư nhiều khi không đi được đến tận cùng mà
chỉ đi nửa vời rồi “ chạy” sang đầu tư ngành khác làm giảm hiệu quả đầu tư
và giảm lợi nhuận mang lại được. Chính vì vậy nhà nước cần xác định chính
xác những mục tiêu trong cả ngắn hạn và dài hạn để có phương án ưu tiên đầu
tư hiệu quả.
c) Đề cao sử dụng nguồn vay có chi phí thấp
Để làm được điều đó thì chính phủ Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các
nguồn vốn có lãi suất hợp lý thông qua đàm phán, Nhưng nhất thiết phải cân
nhắc giữa lợi ích đạt được và những hệ quả phải đánh đổi. Không được đánh
đổi yếu tố môi trường, chủ quyền, chính trị vì tăng trưởng ngắn hạn thiếu bền
vững. Tăng xếp hạng tín dụng để có thể phát hành trái phiếu trên trường quốc
tế với lãi suất thấp, chi phí vay thấp. Để làm việc đó thì Việt Nam càng tăng

các chỉ số đánh giá xếp hạng tín dụng, tiến hành trả lãi và gốc đúng thời hạn,
tránh tình trạng rơi vào nhóm có xếp hangj xấu, điều đó sẽ khiến cho việc vay
vốn khó khăn cũng như phải vay vốn với chi phí cao.
d) Sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay
21


Khi có được nguồn vốn vay chính phủ cần tiến hành đầu tư và có chính
sách hiệu quả để biến những đồng vốn vay nảy nở làm giàu cho đất nước. Tận
dụng vốn vay làm bàn đạp phát triển kinh tế bền vững chứ không được vay để
tiêu dùng, điều này sẽ làm tăng nguy cơ vỡ nợ vì không có nguồn tiền trả nợ.
Lên kế hoạch đầu tư kỹ lưỡng cả dài hạn và ngắn hạn. Cụ thể hóa các mục
tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, tiến hành đầu tư theo từng bước. Xây
dựng chiến lược phát triển các ngành hỗ trợ nhau và phát triển theo một quy
trình hoàn thiện. Luôn sẵn sàng để có thể tiến hành đạt được những mục tiêu
đề ra ngay khi có được nguồn vốn vay.
4.2.2. Những khuyến nghị rút ra từ kinh nghiệm các nước có nợ công
thấp
Quản lý tốt nợ nước ngoài là chìa khóa thành công cho những quốc gia
muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững mà vẫn không gặp khó khăn nào
trong việc hoàn trả nợ nước ngoài. Việt Nam muốn tăng trưởng cần phải vay
vốn bên ngoài nhưng đồng thời để tránh xảy ra khủng hoả ng nợ như các nước
Châu Âu, Việt Nam cần khéo léo học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước đã
thành công trong việc duy trì tính bền vững của nợ công như Nga và
Indonesia kết hợp với thực trạng nợ công và nền kinh tế trong nước để có
những chính sách phù hợp:
Tận dụng lợi thế trong nước: Vị trí địa kinh tế, địa chính trị, điều kiện
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người. Nga và Indonesia đã
rất thành công trong việc phát huy tiềm năng sẵn có trong nước để góp phầ n
giả m bớt gánh nặng nợ nần, từ đó quản lý nợ hiệu quả. Nga tận dụng nguồn

nguyên liệu dầu mỏ và khí đốt nhằm tăng nguồn thu ngân sách cũng như ổn
định đồng rup và duy trì nợ công bền vững trước bối cảnh tác động từ khủng
hoảng kinh tế và chính sách cấm vận đến từ Mỹ và các nước Châu Âu.
Indonesia cũng thành công trong việc phát huy tiềm năng từ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là năng lượng tái tạo. Đã đến lúc Việt Nam cần

22


tìm ra và phát huy nguồn lực sẵn có trong nước để làm giàu cho ngân sách
quốc gia cũng như bớt phụ thuộc vào các khoản vay nước ngoài.
Thận trọng trong việc vay vốn nước ngoài, tránh trường hợp “vung tay
quá trán”. Nợ công vốn là con dao 2 lưỡi, nếu không thận trọng trong việc vay
vốn sẽ rất dễ dẫn đến việc vay quá nhiều mà không có khả nă ng trả nợ, nguy
cơ vỡ nợ sẽ trở thành tương lai không xa.
Học hỏi kinh nghiệm quản lý nợ nước ngoài của Indonesia, cụ thể là
sáu bước quản lý nợ nước ngoài, trong đó phải có sự giám sát chặt chẽ từ cấp
Trung ương đến cấp địa phương, ngoài ra kết hợ p sử dụng hệ thống thiết bị
tinh vi như mạng lưới Internet của riêng Chính phủ nhằm quản lý và phát hiện
các trường hợp nợ xấu.
Tổ chức đào tạo đội ngũ am hiểu về quản lý nợ , bồi dưỡng cán bộ nhân
viên có kiến thức cũng như về đạo đức, thái độ làm việc.
Cần phối hợp giữa các phương pháp xử lý nợ chặt ch ẽ và linh hoạt như
hoán đổi nợ, điều chỉnh nợ thông qua các câu lạc bộ như Paris, London, thành
lập các tổ chức chuyên môn về xử lý nợ .
4.2.3. Những khuyến nghị rút ra từ kinh nghiệm của các nước có nợ công
cao
Từ những phương pháp, chính sách và chương trình kiểm soát sự bền
vững của nợ công từ các quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP cao nhưng vẫn
duy trì được sự an toàn nhưng Nhật Bản và Singapore, chúng em rút ra được

một số kinh nghiệm như sau:
- Việt Nam cần thực hiện kỷ luật tài khóa một cách rõ ràng và nghiêm
ngặt để tránh tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên, luôn ở mức cao gây
ảnh hưởng bất lợi đến nợ công. Kỷ luật tài khóa cần thực thi một cách cứng
rắn, theo lộ trình rõ ràng. Cùng với đó, cần xây dựng một cơ chế quản lý nợ
công hiệu quả. Chế độ kiểm toán cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải
trình cao để có thể kiểm soát nợ công của Việt Nam.
- Việt Nam cần bảo đảm thu - chi ngân sách hợp lý. Đối với thu ngân
sách nhà nước, trong điều hành ngân sách hằng năm cần ưu tiên sử dụng số
tăng thu so với dự toán để giảm mức bội chi hoặc giành để trả nợ trước hạn.
23


Hệ thống thuế cần được cải cách bảo đảm các tiêu chí tạo nguồn thu bền
vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh, chống thất thu qua buôn lậu, gian lận thương mại,
đồng thời cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan, tạo nguồn thu
bền vững. Đối với chi ngân sách nhà nước, cơ cấu lại theo hướng: đối với chi
thường xuyên, quản lý chặt các khoản chi, tinh giảm biên chế, tiết kiệm chi
mua sắm, giảm tối đa hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài. Đối với chi
đầu tư, Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực mà khu vực tư nhân
không làm được hoặc chưa có điều kiện làm nhưng có vai trò quan trọng đối
với phát triển kinh tế - xã hội.
- Luôn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý, duy trì lãi suất ở mức hợp lý để không ảnh
hưởng đến chi phí nợ và khả năng vay nợ của Chính phủ, tạo niềm tin của nhà
đầu tư vào các công cụ nợ của Chính phủ.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Moneytary Fund (2017): Guidance note on the Bank-fund
Debt Sustainability Framework for Low Income Country
2. Bộ Tài Chính. (2016). Bản tin công nợ công số 4 ngày 30/6/2016
3. Mai Thu Hiền – Nguyễn Thị Như Nguyệt. (2011). Tình hình nợ công và
quản lý nợ công ở Việt Nam. Tạpchí Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 14.
4. Nguyen Thi Thanh Ha. (2011). An Overview of Public Debt Management
inVietnam”, Eighth UNCTAD Debt Management Conference, Geneva
5. Phạm Thị Thanh Bình (cb). (2013). Vấn đề nợ công ở một số nước trên thế
giới và hàm ý chính sách đối với Việt Nam. NXB KhoahọcXã hội
6. Quốc hội. (2009). Luật Quản lý nợ công, số: 29/2009/QH12
7. Thủ tướng Chính Phủ. (2011). Quyết định phê duyệt “Chiến lược nợ công
và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, 2012”, văn bản số: 958/QĐ-TTg
8. Trung tâm nghiên cứu BIDV. (2016). Báo cáo “Đánh giá thực trạng nợ
công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn
2016-2020”
9. Viện Friedrich–Ebert-Stiftung (FES). (2013). Đầu tư công, nợ công và mức
độ bền vững ngân sách ở Việt Nam
10. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương. (2016). Báo cáo Kinh tế vĩ
mô Quý I/2016
11. International

Moneytary

Fund

(2018):


The

Debt

Sustainability

Framework for Low Income Country
/>12. Vietnam Foreign Exchange Reserves, truy cập ngày 09/03/2019
/>13. Vietnam Government Debt to GDP, truy cập ngày 09/03/2019
/>
25


×